Hồi kư Vượt Ngục của
Dương Phục được viết từ năm 1983
Kư sự này được chuyển sang Anh ngữ với tựa đề "Escape" với phần viết
thêm của tác giả về giai đoạn tiếp theo sau cuộc vượt ngục, rồi đến
vượt biển, gặp hải tặc, đến trại tỵ nạn, rồi sang Mỹ và trở lại biển
Đông cứu người vượt biển của Dương Phục. Kư sự Escape đă đoạt giải
thưởng Báo Chí "Distinguished Service Awards" của Hội Kư Giả Chuyên
Nghiệp Hoa Kỳ Sigma Delta Chi năm 1987.
Định cư tại San Diego, California từ năm 1980, ông Dương Phục di chuyển sang Houston hồi cuối năm ngoái, và hiện là Giám đốc đài Phát Thanh Little Saigon Radio tại Houston, phát thanh mỗi ngày từ 7 giờ sáng tới 4 giờ chiều trên luồng sóng 1070 AM.
Trước 1975, ông Dương
Phục từng là trưởng ban tin tức và phóng sự tại Đài Phát Thanh Quân
Đội ở Saigon và từng tham dự hầu hết các trận đánh sôi động tại khắp
chiến trường miền Nam, miền Trung, Cao nguyên và Lào. Ông cũng từng
cộng tác với các báo Chính Luận, Sóng Thần, Tin Sống... Năm 1973,
khi Hiệp định ngưng bắn được kư kết ở Paris, ông là thành viên của
Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên. Sau khi vượt biên vào cuối năm 1979,
ông đă tích cực hoạt động trong nhiều công tác cứu người vượt biển.
Cuối cùng, cũng cần nhắc lại, ông Dương Phục là phu quân của nhà báo
Vũ Thanh Thủy.
Tôi c̣n nhớ hôm đó là ngày 19-5-77. Tất cả trại, bị lùa ra cánh đồng
cỏ tranh phát quang. Đám cỏ tranh rậm cao ngang đầu, ngay sát đường
cái. Chúng tôi vừa cuốc đất vừa có thể nh́n những người dân đi lại
và các chuyến xe đ̣ từ Long Khánh đi Cẩm Mỹ -- Cẩm Đường chạy ngang.
Tôi cố ư t́m đám cỏ tranh ngay sát lề đường, vừa cuốc vừa ngóng các
chuyến xe đ̣, v́ tôi biết hôm trước thế nào Thủy cũng lên. Tuần
trước, vợ chồng tôi đă liên lạc được với nhau qua cái lá thư chui
nhét trong cái gói quà trong đợt thăm nuôi của mấy người bạn. Dân
cải tạo thường dùng cách này để hẹn vợ lên đón đường, đi lao động,
ŕnh những lúc vệ binh lơ là, có thể sáp lại nói chuyện được dăm
phút và tiếp tế đồ ăn.
Măi gần đến trưa, trời nắng gắt, một chiếc xe đ̣ từ Long Khánh lên,
dừng lại tại ngă ba Cẩm Đường ngay trước quán cóc bên đường. Một vài
người bước xuống, mặc dù cách khá xa, tôi nhận ngay ra Thủy trong bộ
bà ba nâu, tay xách giỏ; mặc dù đă biết trước buổi hẹn, tôi chết
trân trong cơn xúc động chợt ùa đến khiến tôi như cứng người lại
đứng nguyên một chỗ. Thủy đi dọc theo giao thông hào ngăn giữa bờ
đường và đám cỏ tranh, mắt dáo dác nh́n t́m trong đám cải tạo đang
cuốc đất. Tôi biết Thủy không thể nào nhận ra tôi trong đám người lố
nhố đứng trải khắp băi cỏ. Tôi nh́n quanh t́m đám vệ binh, nh́n thấy
một tên nón cối đứng trên mô đất cao theo dơi quan sát toàn băi lao
động. Tôi kéo lê chiếc cuốc băng qua băi trống, đi về phía băng qua
băi trống, đi về phía Thủy. Tôi biết chắc không thể thoát khỏi cặp
mắt của tên vệ binh đứng trên mô đất. Thủy nh́n thấy tôi, khi chúng
tôi cách nhau một đám cỏ tranh. Thủy khựng lại, chúng tôi nh́n nhau,
xúc động đến độ không có một phản ứng nào, dù một cử chỉ bày tỏ đă
được nh́n thấy nhau sau hai năm chia cách. Tôi thấy mắt Thủy nh́n
xéo sau lưng tôi như báo động. Tôi quay lại, tên vệ binh đang leo
xuống mô đất. Tôi quăng cuốc, chạy nhanh về phía Thủy, nhảy xuống
giao thông hào, khom người khuất sau đám cỏ tranh. Thủy ngồi xuống
lề đường, tôi thấy môi Thủy mấp máy định nói điều ǵ, lại ngước lên
nh́n về phía sau tôi, cuối cùng chỉ nói:
- Có ít đồ ăn đem cho bố.
Thủy đẩy túi bao cát lăn xuống rănh hào, móc túi lấy bao thuốc lá
Vàm Cỏ, một điếu thuốc rời cầm ngoài giọng rất vội:
- Trong thuốc này có thư rất quan trọng, cẩn thận nghe.
Tôi cầm nhét vội vào túi áo, hỏi:
- Con khỏe không?
Thủy gật đầu:
- Con ngoan lắm.
Tôi nhoài người vỗ vỗ vào tay Thủy:
- Mẹ sao, khỏe chứ, cố cố lên nhé.
Thủy cười cười
- Đừng lo, mẹ con b́nh an, đầy đủ lắm, nhận được quà tiếp tế của ba
mẹ gửi về. Chỉ cần bố phải cố giữ sức khỏe.
Bỗng có tiếng động sau lưng tôi, một giọng nói nhỏ của người bạn
cùng tổ báo động:
- Nhanh lên, tên vệ binh đang tới gần đó.
Thủy đứng lên và nói vội:
- Chiều mẹ trở lại. Và quay bước nhanh sang lề đường bên kia,
đi ngược về phía ngă ba.
Tôi cầm túi đồ ăn, định dúi vào bụi cỏ, th́ tên vệ binh trờ tới
quát:
- Đứng lên, đem cái túi đó lên đây.
Tôi bước lên khỏi rănh hào, tên vệ binh giựt lại cái túi bao cát,
trợ mắt sừng sộ.
- Ai cho phép anh hả?
Hắn mở túi, dốc ngược xuống, hai lon guigoz, và vài túi nylon đựng
đường thẻ, muối vừng đổ xuống đất. Tôi liếc nh́n quanh, các bạn bè
đều dừng tay cuốc, chăm chú theo dơi. Từ xa, tên quản giáo Bút xăm
xăm bước nhanh, đến gần tôi, bất th́nh ĺnh hắn vung tay đấm xối xả
vào mặt tôi. Tôi ngă xuống đất, chịu thêm một cú đá mạnh vào ngang
sườn.
Tên Bút gằn giọng:
- Đứng dậy, cởi hết quần áo, móc túi áo túi quần ra.
Tôi lồm cồm ḅ dậy, giả vờ như đang đau lắm, cố t́nh chống tay xuống
đất đứng lên chầm chậm, trong lúc cố suy nghĩ t́m cách thủ tiêu điếu
thuốc lá Thủy nói có thư quan trọng nhét trong đó. Tôi bắt đầu cởi
quần trước, thật chậm.
Bút quay lại tên vệ binh ra lệnh:
- Xem trong túi đồ ăn có ǵ không?
Tên vệ binh mở nắp lon guigoz đổ dốc mớ thịt kho mặn tung xuống đất,
xé bao nylon muối vừng. Lợi dụng lúc chúng đang chú ư kiểm soát mớ
đồ ăn, tôi lùa tay vào túi áo, kẹp trúng điếu thuốc, ṿng tay ra sau
lưng búng mạnh ra sau.
Tôi tiếp tục cởi áo quăng xuống đất. Bút nhặt lên, lần tay vào từng
ve quần áo, móc các túi, lấy ra bao Vàm Cỏ.
Bỗng sau lưng có tiếng một tên vệ binh khác:
- Anh Bút xem này.
Tôi quay lại, tên này đang cúi nhặt điếu thuốc gẫy rời, móc ra một
tờ giấy mỏng nhỏ. Bút nhào tới, cầm lấy đọc. Người tôi căng ra hồi
hộp "không biết Thủy viết ǵ trong đó."
Bút quay lại nh́n tôi, mắt trợn ngược, môi run lên, hắn giựt khẩu
súng của tên vệ binh, chĩa ngay ngực tôi, mặt đanh lại.
- Mày dám mưu đồ chống Cách Mạng.
Tôi nghĩ nhanh, không lẽ hắn bắn ḿnh ngay tại đây, và nhô người tới
trong phản ứng tự vệ. Bút nhào tới, quay báng súng xuống, dọng thẳng
vào mặt tôi. Tôi giựt người ra sau, báng súng quất mạnh vào vai, ngă
bật xuống đất.
Tôi nghe giọng Bút run lên "Trói nó lại, đem về trại." Tên vệ binh
nắm tóc tôi kéo ngược lên, bẻ quặt hai tay tôi ra sau, trói bằng sợi
dây điện. Hán quát "Đi!"
Tên vệ binh áp tải tôi về trại đúng lúc tiếng kẻng báo hết giờ lao
động sáng. Hắn đẩy tôi chúi xuống gần chuồng heo, bước vào căn nhà
tôn đặt văn pḥng chỉ huy trại. Lát sau, tên Tuất chính trị viên
tiểu đoàn bước ra. Tên này mắt lé, mặt đen xám, tôi vẫn nhận ra mặt
hắn tái đi tức giận. Tuất lầm ĺ không nói tiếng nào, mở trói và
dùng chiếc c̣ng sắt xích tay tôi vào thành chuồng heo và bỏ đi.
Đám cải tạo lần lượt vác cuốc về trại sau giờ lao động. Tôi nh́n
thấy những người bạn thân trong nhóm "Ca Cóng" hàng ngày, Kỷ, Nghĩa,
Nguyện, Tá Anh, Lưu Khương nh́n tôi ái ngại. Tá Anh đứng lại tần
ngần qua hàng rào kẽm gai, tay phác một cử chỉ vô nghĩa.
Thật lâu sau giờ cơm trưa, tôi vẫn đứng đó, đói vă người đau ê ẩm.
Không thấy tên nào đá động ǵ tới tôi. Chắc bọn chúng đang bàn các
xử trí. Tôi cố trấn tỉnh, nhắm mắt cố để đầu óc nghỉ ngơi không suy
nghĩ, để chuẩn bị đối phó t́nh thế sắp tới.
Tôi bỗng chợt nhớ ra Thủy hẹn -- "Chiều nay trở lại băi lao động".
Bụng bỗng đau quặn cơn đau râm ran khắp người. Toàn thân cồn cào
trong cơn hoảng hốt lo sợ. Thủy trở lại thế nào cũng bị bọn cán bộ
vây bắt, tôi không rơ Thủy viết ǵ trong lá thư chui đó, nhưng chắc
chắn rất trầm trọng nên chúng mới hung dữ với tôi như vậy.
Tôi cuống cuồng nghĩ tới việc phải liều mạng, làm thế nào để báo
động cho Thủy?
Gần đến giờ lao động chiều, tên Bút, từ cổng trại đi sang "Khung"
theo sau là tá Anh vai vác ba lô dài. Tôi nhận ra túi đồ của tôi
đựng chăn màn và vật dụng cá nhân. Tá Anh nằm ngủ cạnh tôi, chắc bị
chúng trưng dụng khuân đồ đạc của tôi sang "Khung" để chúng lục
soát. Bút ra lệnh cho tá Anh:
- Lấy chăn trải ra, đem hết đồ đạc trong túi bày ra từng món.
Tá Anh lôi ra từng món lỉnh kỉnh bày la liệt trên tấm chăn, trong đó
có cả h́nh vợ con tôi và một xấp thư từ dày của Thủy gửi cho tôi
trong hai năm qua.
Bút quay ra đứng nói chuyện với tên Tuất cách đó một quăng xa. Tá
Anh cúi xuống tiếp tục bày hàng, không nh́n tôi, và nói thật nhỏ:
- Hồi năy ở ngoài băi, Bút tập trung các đội lại, đọc lá thư của vợ
ông, bả dặn ông chuẩn bị vượt trại, bả đă móc nối được chuyến vượt
biên tháng tới, đă có giấy tờ giả và chỗ trốn cho ông ở Saigon.
Tá Anh ngẩng lên nh́n về phía hai tên Bút và Tuất vẫn đang đứng nói
chuyện, quay lại nh́n tôi:
- T́nh trạng ông nguy lắm, cố t́m cách thoát, tụi nó dám xử ông như
Ngô Nghĩa lắm.
Tá Anh dợm đứng lên. Tôi nói nhanh:
Hồi năy bà xă tôi hẹn chiều trở lại băi. Lát nữa đi lao động, ông cố
làm cách nào ra hiệu báo động cho bả biết chuồn lẹ trước khi tụi nó
bắt bả.
Tá Anh ngẩn ngơ lẩm bẩm:
- Bà trở lại th́ nguy. Tôi sẽ cố, ông cũng phải cố b́nh tĩnh.
Tá Anh quay lại chỗ hai tên cán bộ báo cáo đồ đạc của tôi và lầm lũi
đi về trại.
Bút và Tuất đến lục soát sờ nắn từng món. Xong cầm xấp h́nh và thư
của Thủy đi vào văn pḥng trại.
Chúng bỏ mặc tôi đứng bên chuồng heo tới chiều. Sau giờ lao động,
Tuất quay lại mở c̣ng, dẫn tôi vào văn pḥng trại. Tên thủ trưởng
trại ngồi sẵn đó, trên bàn một xấp hồ sơ khai báo của tôi khi mới
nhập trại.
Tên thủ trưởng tra hỏi về lư lịch. Tôi lập lại y hệt như những lần
khai báo trước. Cuối cùng, hắn đưa cho tôi một xấp giấy trắng và một
cái bút.
- Anh viết khai báo tất cả mưu đồ trốn trại. Thành thật th́ sẽ được
giảm tội. Cố t́nh man trá, cách mạng sẽ xử trị đích đáng, nghe rơ
không?
Cuối cùng, Tuất đem nhốt tôi vào conex, cạnh hàng rào sát kho thực
phẩm. cái conex cũ rỉ của quân đội Mỹ để lại, chỉ vừa một người nằm,
cửa không có khóa. Chúng dùng một dây sắt cứng luồn qua hai lỗ
thủng, cuốn ṿng bên ngoài bằng hai khoen và khóa bằng chiếc c̣ng
sắt bấm vào khoen. Sàn conex nhớp nháp, lạnh ngắt. Tôi ở đó, trong
cái cũi sắt khốn khổ đúng 9 ngày, trước khi vượt thoát.
Trong 9 ngày đó, tôi đă tự hứa, nếu may mắn thoát được, sau này tôi
sẽ nhớ măi những ngày khốn khiếp này. Và tôi đă không quên.
* *
Ngày thứ nhất - buổi sáng sớm, tên vệ binh mở cửa cho tôi đi cầu.
Tôi nh́n quanh, cố ghi nhớ các lối đi và các hàng rào kẽm gai bao
quanh trại. Tôi quyết định liều trốn, nếu không chúng sẽ xử bắn
giống như Ngô Nghĩa ở Trảng Lớn, Tây Ninh. Vấn đề là phải có một
thanh sắt nhỏ để phá cửa. Cái lối khóa của chúng, chỉ cần một thanh
kim loại cứng lách vào và dùng sức xoắn mạnh nhiều ṿng, sợi dây sẽ
nóng lên và đứt.
Tôi chỉ nhặt được cạnh nhà cầu hai cái đinh sắt dài, quá ngắn để
dùng tay làm thế xoắn. Tuy nhiên, tôi vẫn nhặt bỏ túi pḥng hờ.
Buổi chiều, tên Tuất đến dục nộp bản tự khai, tôi viết loanh quanh
cho đủ ba trang giấy, không nhận cũng không chối tội "chống phá cách
mạng."
Ngày thứ hai - Ngay sau khi mở cửa cho đi cầu buổi sáng, tên Tuất
lôi tôi lên văn pḥng trạị Lần này, có một tên cán bộ lạ mặt, có vẻ
cao cấp hơn cán bộ trại. Tuất đứng nghiêm người, "Báo cáo đồng chí
làm việc", rồi bỏ đi.
Tên cán bộ này tỏ ra là một tay thẩm vấn chuyên nghiệp. Hắn đi qua
đi lại trước mặt tôi, sau một câu hỏi, hắn tát mạnh vào mặt tôi. Tôi
chịu trận đ̣n tới tấp suốt buổi tối với những câu trả lời lập đi lập
lại, bắt tôi khai tên các bạn tù cùng âm mưu trốn, tổ chức làm giấy
tờ giả và địa điểm sẽ lẩn trốn tại Saigon. Tôi ĺ đ̣n, trả lời cứng
ngắc "Không biết". Cuối cùng, hắn dùng thanh gỗ cũ, đầu lởm chởm các
mũi đinh rỉ sét, quất liên tiếp vào vai và lưng tôi.
Trước khi thả tôi về lại conex, hắn nói:
- Chúng tao đă bắt được vợ mày chiều hôm qua. Nếy mày thành thật
khai báo, vợ chồng mày sẽ được giảm tội. Nếu không vợ mày sẽ bị đ̣n
thay mày.
Lời nói này quất mạnh vào tôi c̣n hơn trận đ̣n. Tôi choáng váng, xây
xẩm, cúi gầm người xuống đất, cố tránh không nh́n tên cán bộ, dấu
cơn uất hận để khỏi chồm người lao vào tên khốn kiếp này.
Tên Tuất bước vào lôi tôi vào conex vừa lúc trời chạng vạng tối. Tôi
nằm vật xuống thiếp đi. Tỉnh dậy, chắc đă khuya lắm, tôi thức tới
sáng, bồn chồn đau đớn nghĩ tới Thủy giờ này đang trong một pḥng
giam nào đó, và bé An ở nhà không biết có ai trông coi?
Tôi vẫn tự hào là người có ư chí mạnh để đối phó với bất cứ một hoàn
cảnh nào. Lần này, quả thật tôi muốn xụm trước sự bất lực của chính
ḿnh.
Ngày thứ 3 tới ngày thứ 9 - Mọi việc diễn tiến mỗi ngày lập lại với
những câu hỏi tương tự, với những trận đ̣n thay đổi kiểu đánh. Có
lần tên cán bộ nổi cơn hung, phang cả điếu thuốc lào vào đầu tôi.
Tôi lăn ra vờ bất tỉnh để khỏi bị đ̣n tiếp.
Có lần tên Tuất nói với tôi:
- Cách mạng đă trừng trị nhiều tên cứng đầu hơn mày. Đợi đến lúc đem
ra băi, mới cuống lên van lạy.
Bấy giờ, tôi biết chắc, dù khai báo thế nào, trước sau chúng cũng
cho tôi "ra băi" như trường hợp trốn trại của Ngô Nghĩa trong cùng
thời gian tôi ở Trảng Lớn. Chúng cố khai thác về âm mưu vượt trốn ở
trại và những tổ chức làm giấy tờ giả bên ngoài mà chúng nghi là tôi
biết. Thật sự tôi không biết ǵ cả, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn giả
vờ nói hớ ra vài câu cho chúng tưởng tôi có biết để chúng kéo dài
cuộc điều tra. Khi nào biết không c̣n khai thác được ǵ thêm, chắc
chắn chúng đem tôi ra xử tử.
Tôi vẫn chưa nghĩ ra cách nào t́m được thanh sắt bẻ khóa cửa. Nhưng
tôi vẫn mănh liệt tin tưởng thế nào cũng thoát, cảm thấy tinh thần
và thể xác ḿnh c̣n đủ mạnh. Tôi làm bộ bệnh hoạn yếu đuối, lúc nào
cũng cố t́nh đi lết một chân. Chúng tưởng tôi bị nhốt lâu tê chân,
không cử động được. Thỉnh thoảng, tôi giả vờ ngất xỉu mỗi khi tên
cán bộ điều tra hung hăn quá, để khỏi bị cú đ̣n quá nặng. Nhưng cũng
có lần, mặc dù đă vờ xỉu, hắn vẫn đổ nước thuốc lào vào mặt tôi,
giựt tóc dậy đánh tiếp.
Đêm thứ tám trong cũi sắt, trời mưa xối xả, hắt đầy nước qua kẽ hở
conex. Người tôi ướt sũng, run lập cập, ngồi co ro suốt đêm. Sáng
hôm sau, khi tên vệ binh mở cửa, tôi bỗng nh́n thấy một thanh sắt
dẹp, nhắn, ai vứt ngay sát hàng rào gần conex. Khi đi cầu về, tôi
xin phép tên vệ binh cho cởi quần áo ướt để phơi. Hắn nói "Được".
Tôi vội đi ngay sát rào, cởi áo quần phơi trên rào kẽm gai ngay trên
thanh sắt. Tôi chỉ mặc một chiếc quần đùi khi lên văn pḥng tŕnh
diện tên cán bộ để lănh trận đ̣n cuối cùng bị quất bằng dây điện.
Buổi chiều, tôi xin ra hàng rào lấy quần áo. Tên vệ binh đứng sau
lưng tôi quăng xa. Tôi vờ làm rơi chiếc áo phủ lên thanh sắt, cúi
xuống nhặt, tôi cuốn luôn thanh sắt cầm về conex. Khi tên vệ binh đă
khóa cửa bỏ đi, tôi giở ra nh́n kỹ và nhận ra đây là thanh sắt ngang
hông "porte bagage" xe đạp, vừa đủ cứng và đủ dẹp để luồn vào sợi
dây sắt khóa cửa. Tôi mừng rỡ và hồi hộp nghĩ đến chuyện đào thoát
đêm nay, trước khi quá muộn. Tôi cũng biết, nếu bại lộ, chắc chắn
chúng sẽ bắn ngay tại chỗ.
Đêm đó, khoảng nửa khuya, trời cũng mưa gió ào ào như đêm trước. Tôi
bắt đầu luồn thanh sắt vào dây chằng cửa, nắm hai đầu, bắt đầu xoắn.
Tiếng cánh cửa đập vào thành conex kèn kẹt. Cũng may mưa đang dồn
dập rơi ào ào trên nóc conex, nên tôi mạnh dạn cong người dùng hết
sức bẻ. Loay hoay khoảng một tiếng đồng hồ, ṿng dây sắt mới bắt đầu
xoắn lại theo chiều quay của thanh sắt, tôi quay thật mạnh nhiều
ṿng, dây sắt đứt tung ra. Tôi ngồi bệt xuống sàn nghỉ mệt. Trời mưa
lạnh, nhưng người tôi toát mồ hôi dầm dề.
Gần sáng, trời lạnh. Tôi bắt đầu đẩy cửa conex bước ra ngoài, nằm
sát đất và ḅ một hơi băng ngang dăy nhà họp của bọn chỉ huy trại.
Đến băi trồng khoai ḿ, tôi ngồi dậy, khom lưng chạy lẫn giữa hai
luống khoai dẫn ra con đường ṃn tôi vẫn đi từ trại ra băi lao động.
Trời tối đen, nhưng tôi đă quá quen thuộc con đường này. Tôi chạy
thật nhanh qua băi đất trống, dẫn tới băi cỏ tranh, tiếp tục chạy
đến giao thông hào cách đây 9 ngày, vợ chồng tôi gặp nhau. Tôi nhảy
xuống rănh hào, nằm dài ra, tim đập mạnh, vừa mệt vừa hồi hộp.
Tôi đă thoát khỏi ṿng trại, nhưng c̣n nhiều bất trắc, và phải rời
khu vực này càng xa càng tốt. Tôi biết khu vực dân cư quanh trại cải
tạo là làng Công Giáo của dân miền Bắc di cư. Chắc tôi sẽ dễ t́m
được sự giúp đỡ.
Trời tờ mờ sáng, tôi nghe tiếng những người dân nói chuyện rầm rận
trên đường cái. Tôi nhỏm dậy, leo trên đường, đứng thẳng người, đi
ngược về phía chợ Long Giao. Phía Trước tôi, lác đác vài bạn hàng
đang quảy gánh ra chợ.
Ra tới gần chợ, trời đă sáng rơ. Từ đàng xa, tôi nh́n thấy bến xe
Lam bên cạnh các sập chợ. Bỗng những chiếc nón cối lố nhố chung
quanh xe. Tôi hoảng hốt, rẽ tắt ngang hông một căn nhà bên lề đường,
ṿng qua vườn sau nhà này, dẫn ra đường nhỏ giữa làng dân cư. Tôi
không thể xuất hiện ở khu vực chợ giờ này. Đám bộ đội đang chờ xe
Lam đi Long Khánh có thể từ những trại khác và không biết mặt tôi,
nhưng sau 9 ngày nằm cũi, râu ria tôi mọc dài, quần áo nhớp nháp tả
tơi, rất dễ bị nhận ra là dân cải tạo trốn trại.
Tôi rảo bước trên con đường trong làng, bọc sau lưng chợ, qua khu
xóm bên kia. Tôi nghe thấy tiếng đọc kinh ê a vọng ra từ một căn nhà
ven đường. Tôi quyết định xông bừa vào. Người đàn bà đang lần tràng
hạt giật ḿnh nh́n lên. Tôi nói nhanh:
- Thưa bác, cháu là cải tạo vừa trốn khỏi trại.
Bà cụ bật đứng dậy:
- Giê Su Ma, lậy Chúa tôi, thế cậu định đi đâu đây?
- Cháu cũng chưa biết. Thưa bác, ở đây có đường xe về thẳng Saigon
không?
- Cậu phải ra đường cái, đón xe Lam lên Long Khánh, từ đó có xe đ̣
về Sàig̣n. Cậu phải đi nhanh lên, quanh quẩn ở gần đây nguy lắm.
- Thưa bác, cháu không có tiền, xin bác giúp cháu ...
Bà cụ tần ngần ái ngại:
- Tôi chỉ có một đồng để cậu đi xe Lam, cậu cầm tạm... Thôi đi b́nh
an nhá. Tội nghiệp quá, Chúa che chở cho cậu.
Tôi cầm một đồng, nói "cám ơn" và quay lại t́m lối ra đường cái.
Đành liều vậy, không có cách nào hơn, cứ ra được tới Long Khánh rồi
sẽ tính sau. Tôi đứng lấp ló ngoài đường, vẫy bừa chiếc xe Lam đang
trờ tới. Xe vượt qua và ngừng lại cách tôi một quăng. Tôi chạy tới,
nhào đại lên xe, chui vào ngồi cạnh một người đàn bà, không nh́n
những người khác. Xe rồ máy, vưa đúng lúc tôi nhận ra tên vệ binh ở
trại, ngồi góc trong cùng băng ghế. Hắn cũng vừa nhận ra tôi, mắt
trợn tṛn, há hốc mồm kêu: "Ơ! Ơ! mày ..." Hắn chồm tới, hai tay nắm
vai tôi hét lớn:
- Xe Lam! Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi hất tay hắn ra và dùng hết sức tống mạnh cú đấm vào mặt hắn, và
lao ra khỏi xe Lam. Đầu tôi đập xuống mặt đường. Tôi tiếng xe Lam
thắng gấp, tiếng tên vệ binh la hét ầm ĩ. Tôi chồm dậy, chạy thục
mạng vào xóm nhà ven đường, vừa nhẩy bừa qua một hàng rào kẽm gai
tọt vào vườn sau của một căn nhà. Người đàn bà đang ngồi giặt trong
vườn, giựt thót người, giơ tay làm dấu thánh giá, kêu lên:
- Chúa ơi! ...
Tôi chạy ngang người bà, xong bước vào nhà, vừa nói:
- Cho tôi trốn tạm, tụi nó đang đuổi theo ...
Tôi nhảy tới chiếc giường thấp ở góc nhà, nằm ép xuống đất, lẩn vào
tận sát vách, nằm im trong thế áp ngực xuống đất. Tôi nghe tiếng tôi
thở dốc và tiếng tim đập th́nh thịch. Lát sau, tiếng chân chạy th́nh
thịch và tiếng tên vệ binh hỏi:
- Có thấy tên cải tạo qua đây không?
Tiếng người đàn bà run bắn:
- Không, không, tôi không thấy ...
Tiếng chân tên vệ binh chạy về hướng khác. lát sau, tiếng người đàn
bà nói nhỏ ngay trên đầu tôi:
- Ra đi, chui ra đi ...
Tôi lần ra, đứng dậỵ, chưa kịp nói "cám ơn", người đàn bà đă cầm lấy
tay tôi, nói lắp bắp:
- Tôi thương các cậu cải tạo lắm. Nhưng xin cậu cũng thương tôi, cậu
hiểu chứ. Tôi không thể chứa cậu được, nguy hiểm lắm...
Mặt bà tái xanh, nắm tay tôi, lắc lắc, Tôi nói vội:
- Vâng, cháu không dám phiền bác. Nhà có bộ quần áo đàn ông nào
không, xin bác cho cháu thay ...
Bà nh́n bộ đồ quân đội VN cũ rách bươm của tôi, lắc đầu, giọng run
lên như muốn khóc:
- Cậu phải đi ngay, đi ngay đi ...
Bà rút tay lại, lùi lại. Tôi quay ra lối trước. c̣n nghe giọng bà
nói với theo:
- Xin Ơn trên phù hộ cậu ... Xin Chúa tha tội cho con.
Tôi bấn loạn không biết chạy đâu. Chắn chắn tên vệ binh c̣n quanh
quẩn đâu đây, chắc chắn nhiều tên khác sẽ ùa tới bao vây khu vực
này. Tôi bỗng nghe tiếng chuông nhà thờ vang lên. Tôi quay lại đi
nhanh về phía người đàn bà. Bà mở to mắt, hai tay chắp lại trước
ngực, kêu nhỏ: "Lạy Chúa Tôi, lạy Chúa tôi ..." Tôi hỏi:
- Bác chỉ cho cháu đường tới nhà thờ.
Bà chỉ về hướng tay trái:
- Cậu di lối này, đến ngă ba rẽ phải, cứ đi thẳng đến băi đất trống,
cậu sẽ nh́n thấy nóc nhà thờ.
Tôi nói "cám ơn", giơ tay vỗ vỗ vào lưng bà, quay ra cổng và cắm đầu
chạy theo lối bà chỉ. Tôi chạy ào vào nhà thờ. Tiếng đọc kinh râm
râm, những người ngồi hàng ghế sau quay lại. Tôi sấn tới hỏi lớn:
- Cha ở đâu, xin các bác làm ơn chỉ giúp ...
Mọi người kinh ngạc, ngẩn người nh́n tôi, không ai trả lời. Các
người ngồi ghế trước cũng quay lại, tiếng đọc kinh nhỏ hẳn. Một
thanh niên ở hàng ghế trên đứng dậy, tiến đến bên tôi nói:
- Cha đang ở nhà xứ phía sau nhà thờ, anh đi lối này ...
Tôi chạy tuốt lên phía trên, nh́n thoáng lên tượng Chúa trên cao,
vọt ra phía cửa hông, ṿng ra phía sau. Cửa nhà xứ đóng hờ, tôi đẩy
cửa bước vào. Nhà khá rộng, có nhiều pḥng. Tôi bước vội vào pḥng
cuối cùng, cạnh pḥng tắm. Căn pḥng chỉ có một giường nhỏ, một bộ
bàn ghế, một tủ đứng to cao đựng áo lễ. Tôi nh́n quanh, chỗ an toàn
nhất vẫn là gầm giường, tôi lại lăn người nằm sấp, sát vách tường.
Lát sau, tôi nghe tiếng bước chân chậm chạp bước vào pḥng, nh́n qua
chân giường, tôi thấy phần dưới của chiếc áo ḍng đen. Tôi không
biết có nên chui ra gặp Cha lúc này không, tôi lo ngại sự đột ngột
làm Cha hốt hoảng. Một con chó chạy vào pḥng, chúi mũi xuống gầm
sủa ầm lên. Không có cách nào khác, tôi chui ra, đứng lên nh́n cha
chờ đợi. Nét mặt của cha chỉ thoáng ngạc nhiên, nhưng vẫn b́nh thản.
Tôi nói:
- Con là cải tạo trốn trại, bọn vệ binh đuổi con gấp quá, phải chạy
vào đây. Con xin Cha giúp con, cho nấp tạm chỗ nào, rồi con sẽ t́m
cách đi chỗ khác sau. Cha giúp con, chúng bắt được con sẽ bắn con
ngay.
Cha nói giọng khàn đặc:
- Được, cứ ở đây.
Cha quá già, chắc phải khoảng trên 80 tuổi, mặt nhăn nheo, giọng yếu
ớt. Cha không nói ǵ thêm, không hỏi tôi câu nào, từ từ đi đến tủ
áo, lấy chiếc áo lễ, choàng vào người, ra khỏi pḥng lên nhà thờ làm
lễ.
Tôi nghĩ chắc cha già không nắm vững mức độ trầm trịng; bọn vệ binh
trại giờ này đang túa ra bao vây và lục soát khu vực này, chắc nhà
thờ phải là nơi chúng chú ư nhất. Tôi nghĩ phải t́m nơi trú ẩn nào
an toàn hơn cái pḥng trống trải này. Tôi quan sát tủ áo lễ cao quá
đầu, hơn nửa phần trên bằng kính trong suốt, phần c̣n lại bằng gỗ
kín; trong tủ treo đầy áo lễ dài. Tôi mở tủ, bước vào, ngồi bệt
xuống, thu người nằm gọn trong phần dưới được che kín, bên ngoài
không thể nh́n thấy. Tôi cố hết sức thu gọn hai chân, hai vai chụm
xuống, đầu bật ngửa ra sau, phần ót tựa vào bả vai, phần đỉnh tựa
vào vách tủ, cố thu gọn cái đầu sát xuống để khỏi nhô lên trên cửa
kính. Trong tư thế đó, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Tỉnh dậy,
tôi nghe tiếng ho của Cha già, tôi chắc cha không biết tôi nằm trong
này, tôi đẩy cửa bước ra, chợt khựng lại v́ trong pḥng, ngoài Cha
già c̣n có một người đàn bà đứng tuổi. Bà nh́n tôi, không hề tỏ vẻ
ngạc nhiên, có lẽ Cha đă nói với bà về tôi.
Cha nói:
- Nằm trong ấy sao chịu được. Thôi cứ ra nằm giường nghỉ đi.
Tôi nói như thuyết phục Cha:
- Xin Cha cứ để con nằm trong tủ. Con sợ chúng sẽ lục soát ở đây.
Cha gật đầu, kể lại hồi năy chúng đă lục soát rồi, chúng vào một số
nhà ở ven đường cái, đến khám xét nhà thờ nhưng chúng không vào nhà
xứ.
Cha hỏi U già có ǵ cho tôi ăn không? U già gật đầu. Cha nói:
- Anh theo U Nhàn xuống nhà dưới ăn cơm.
U Nhàn vội nói:
- Thôi để con đem lên đây, dưới đó có nhiều người hay ra vào.
Cha gật đầu, rồi bỏ ra pḥng ngoài. Cha không hề hỏi tôi định ở đây
bao lâu và dự định thoát khỏi vùng này bằng cách nào.
U Nhàn đem cho tôi một tô cơm lớn và một bát canh nóng. Ăn xong, tôi
vội chui trở vào tủ, nằm lại trong tư thế chân cong, đầu quẹo và cố
dỗ dành giấc ngủ. Khi tôi thức dậy, trời đă tối, tôi nghe tiếng nói
chuyện trong pḥng. Giọng Cha và một giọng đàn ông khác. Tôi khẽ
nhích người, nhô đầu lên phần cửa kính, ánh đèn tối tù mù, nhưng tôi
vẫn nhận ra một vị linh mục trẻ đang ngồi ăn cơm với Cha già. Hai
Cha đang nói chuyện liên quan đến sinh hoạt giáo xứ, tôi đoán Cha
trẻ là phó xứ của Cha già. Ông khoảng 40 tuổi, nét mặt rất trí thức
và có vẻ đẹp khắc khổ, giọng nói trầm ấm, mạch lạc tương phản với
Cha già hiền lành chậm chạp. Tôi hy vọng nếu có dịp nói chuyện với
Cha trẻ, chắc có thể được Cha giúp t́m cách đưa ra khỏi vùng đất
nguy hiểm này.
Tôi không nghe hai Cha nhắc đến tôi trong suốt bữa ăn. Cha trẻ có vẻ
không biết việc tôi trốn ở đây. Tôi đoán, chắc Cha già chỉ cho ḿnh
U Nhàn biết.
Xong bữa ăn, Cha trẻ chào đi ra khỏi pḥng, tôi chắc Cha trẻ ở pḥng
bên cạnh. Cha già đến bên tủ gọi tôi:
- Anh ra ăn cơm.
Cha để phần cho tôi vài miếng thịt heo và một đĩa rau, tôi ăn bằng
bát và đũa của Cha. U Nhàn vào pḥng cùng với Cha và tôi bàn việc
giúp tôi thoát khỏi vùng này. Cha già đề nghị sáng sớm mai, năm giờ
sáng đă có xe Lam chạy về Long Khánh, tôi nên đón chuyến sớm nhất,
từ Long Khánh đi xe đ̣ về được Hố nai là an toàn. Cha đưa cho tôi
tiền xe. U Nhàn dặn tôi phải dúi tiền cho lơ xe đ̣ để đi chui. U
Nhàn nói:
- Nhưng anh phải đi tắm, cạo râu, thay quần áo đi đă.
Cha cho tôi bộ quần áo của Cha, khá chật nhưng tôi vẫn cố mặc vào.
Đêm đó, tôi được ngủ một giấc ngon lành trên chiếc giường nệm, Cha
nhường cho tôi và ra nằm ngoài pḥng khách.
Sáng hôm sau, tiếng chuông nhà thờ làm tôi thức dậy, tôi sửa soạn
vội vă. Không thấy Cha già đâu, chắc Cha đă lên nhà thờ chuẩn bị lễ
sáng sớm. Cũng không thấy U Nhàn để chào từ giă. Tôi đi ngang pḥng
tắm, mở cửa sau, đi ṿng ra phía trước, trời đă chạng vạng sáng, tôi
lẻn t́m lối ra đường cái đón xe Lam.
Lát sau, chuyến xe chạy tới, từ đằng xa, tôi thấy loáng thoáng mấy
cái đầu nón cối trên xe, tôi thụt lui, nấp sau gốc cây, chờ cho xe
đi qua. Không thể đứng đón xe kiểu này, quá nhiều bất trắc biết đâu
không chạm trán ngay một tên vệ binh khác biết mặt tôi như sáng hôm
qua. Vả lại biết đâu bọn chúng không trải những trạm kiểm soát xe
Lam dọc đường từ đây lên Long Khánh. Tôi quay trở lại nhà xứ, đi
ṿng theo lối cũ vào cửa sau nhưng cánh cửa đă khóa. Tôi nghe tiếng
lục đục trong pḥng tắm, tôi đu người bám vào hai lỗ hở, nh́n vào
thấy Cha trẻ đang đánh răng, tôi khẽ gọi:
- Cha mở cửa sau cho con.
Tôi tụt xuống, ra đứng ở cánh cửa chờ. Tiếng lách cách mở khóa, cánh
cửa hé mở. Cha trẻ ló đầu ra thấy tôi, Cha ngẩn người kinh ngạc:
- Anh là ai? Chuyện ǵ vậy?
- Con là cải tạo trốn trong pḥng này từ hôm qua.
Tôi vưa nói vừa lách người vào. Cha trẻ bỗng dang hai tay ấn vào vai
tôi, đẩy mạnh ra ngoài, tôi chồm tới, nghe tiếng khóa cửa phía
trong, tôi đập cửa kêu gọi:
- Cha già đă cho con nấp trong tủ áo từ hôm qua, sáng nay cho con
tiền xe nhưng con không đón được, nên mới trở lại. Xin cha mở cửa
cho con.
Không nghe thấy tiếng trả lời, chỉ nghe tiếng chân lui xa.
Tôi ṿng ra lối trước gơ cửa, bên trong hoàn toàn im lặng.
Tôi không biết U Nhàn ở đâu để t́m. Tôi đành đi lên nhà thờ, c̣n sớm
nên chỉ lác đác vài người đi lễ ngồi hàng ghế trên. Cha già đang
ngồi trong ṭa giải tội. Tôi đi thẳng lên đến gần Cha, tôi quỳ
xuống, nói nhỏ qua cửa lưới:
- Con không đi được, xin cha cho con trở lại pḥng cũ.
Cha già đứng dậy, đi ṿng qua ṭa giải tội, không nh́n tôi. Cha từ
tốn đi ra khỏi nhà thờ, xuống nhà xứ. Tôi đi theo sau lưng, Cha mở
cửa cho tôi vào, không nói với tôi một tiếng. Tôi bước vào, nghe
tiếng khóa cửa bên ngoài. Tôi lại chui nằm lại trong tủ.
Sau giờ lễ, Cha già trở lại pḥng, tôi nghe tiếng Cha nói chuyện
b́nh thản với một người nào khác. Cha nói Cha bị mệt và nhờ người
kia sáng sớm mai đem xe chở dùm Cha lên bệnh viện Hố Nai.
Tôi nằm đó tới trưa. U Nhàn gơ cửa, đem cho tôi một bát xôi. U lặng
lẽ không hỏi tôi một câu nào, nét mặt đầy ái ngại lo âu. Tôi ở trong
tủ suốt ngày. Đến tối, tôi lại thấy Cha trẻ vào ăn cơm với Cha già.
Hai Cha vẫn nói chuyện b́nh thản về công việc Giáo Xứ. Không ai nhắc
tới tôi. Cha trẻ vẫn nói chuyện công tác Họ Đạo, giọng trầm ấm, linh
hoạt nồng nhiệt như tối hôm qua. Chắc chắn, Cha trẻ không sao ngờ
được tôi đang nấp trong tủ chỉ cách có hai bước.
Sau bữa cơm Cha già lại gọi tôi ra ăn. Cha chỉ nói vắn tắt với tôi
sáng sớm Cha đi Hố Nai bằng xe nhà, tôi cứ việc theo Cha ra xe, ngồi
cạnh Cha và đừng nói chuyện ǵ với người lái xe.
Mờ sáng hôm sau, đúng như lời Cha dặn, chiếc xe La Dalat chờ sẵn
ngay trước nhà xứ. Tôi ngồi cạnh Cha già ở băng sau, phía trước thêm
một người đàn ông ngồi cạnh tài xế. Chiếc xe rời Giáo xứ Long Giao
chạy về Hố Nai êm xuôi. Dọc đường, Cha già lim dim ngủ, không nói
với ai tiếng nào tôi cũng im lặng suốt chuyến đi. Chỉ có hai người
ngồi trước thỉnh thoảng nói chuyện nhỏ. Cả hai đều không quay lại,
hỏi tôi một tiếng. Chắc họ cũng được Cha già căn dặn.
Xe dừng lại trước bệnh viện Sao Mai. Tôi xuống xe, định nói vài lời
từ giă cha nhưng không sao mở miệng được. Cha từ tốn cầm tay tôi,
giọng mệt mỏi chậm chạp:
- Thôi, con đi b́nh an. Chúa sẽ che chở con.
Tôi biết bây giờ nếu tôi nói bất cứ điều ǵ, tôi sẽ bật khóc. Tôi
chỉ gật đầu chào Cha và quay lưng rảo bước bên lề đường, đi về phía
chợ Sặt. Tôi chợt nhớ tôi chưa hề biết tên Cha. Tôi quay lại xe, thở
hổn hển. Cha nh́n tôi chờ đợi.
- Thưa Cha, con chưa được biết tên Cha.
Lần đầu tiên, tôi thấy Cha cười:
- Cha tên Trác. Con tên ǵ?
Tôi nói tên và lần này không sao cầm được nước mắt...
* Cha Trác đă mất tại Long Giao, Long Khánh năm 1982
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại