"Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người, Việt Nam hai tiếng nói trên vành môi Việt Nam nước tôi..."
Việt Nam hai tiếng gọi linh thiêng, Việt Nam quê hương của người Việt. Mỗi lần hát lại bài hát này ḷng tôi không khỏi gợn lên những hùng khí từ lâu im tiếng. Nhiều người yêu quê hương này v́ c̣n mẹ c̣n cha, c̣n nhà c̣n cửa; người khác yêu quê hương chỉ v́ thương nhớ những kỷ niệm đẹp: lũy tre xanh, bờ ruộng, trường xưa lớp cũ, một cuộc t́nh t́nh lăng mạn... Riêng tôi, tôi yêu đất nước này như yêu người t́nh, người mẹ, người cha. Tôi yêu đất nước này v́ được sinh ra và lớn lên trong tinh thần bất khuất, tôi đă chia sẻ với nó nỗi đau, niềm vui của một thời son trẻ, và sẽ c̣n tiếp tục chia sẻ để nh́n thấy nó vươn lên. Nhưng quê hương ngày nay chỉ toàn bất hạnh, tôi vẫn yêu nồng nàn v́ có nhiều người đă hy sinh bảo vệ, trong đó có chồng tôi.
Là góa phụ ở lứa tuổi thanh xuân trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến, tôi c̣n quá trẻ, mới 24 tuổi, để phải chống chọi với những gian lao cuộc đời. Tôi đă phải giữ ḿnh trước biết bao cám dỗ để trân trọng mối t́nh với người chồng mà tôi hằng yêu quí. Cưới nhau vừa được tám tháng anh đă đi vào ḷng đất lạnh, để lại tôi một ḿnh chơ vơ trên cơi đời với tấm h́nh treo trên vách.
Phạm Văn Tân, tên anh, 25 tuổi, thiếu úy Sư Đoàn 18 bộ binh, người t́nh và là người chồng của tôi, tử trận ngày 28-4-1975 tại cửa ngơ Sài G̣n. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến thật là kinh hoàng. Vào lúc sáng sớm, một đồng đội của anh Tân chạy đến nhà tôi trong khu gia binh thị xă Xuân Lộc báo tin anh vừa tử trận, rồi xin một bộ đồ dân sự để t́m đường về Sài G̣n. Trời đất bỗng nhiên quay cuồng chóng mặt. Tôi gượng đứng cạnh cửa bếp thở khó khăn, mẹ chồng tôi mặt mũi trắng bệch nh́n người đó ra đi tim như ngừng đập. Nói sao được nỗi bàng hoàng lúc đó. Anh Tân, chồng tôi đă chết. Theo lời người lính thuật lại, xác anh c̣n nằm ở đâu đó trong rừng cao su, gần ngă ba Dầu Giây. Phải đi t́m gấp nếu không người ta sẽ lấp xác anh vào một hố chôn tập thể, lúc đó th́ quá muộn. Sau vài phút định thần, tôi lấy lại b́nh tĩnh. Không c̣n sợ ǵ nữa, đời người chỉ một lần chết, tôi cùng mẹ chồng bàn nhau ra đường đón xe đi t́m xác anh Tân mang về chôn.
Hai mẹ con vừa khóc vừa đón được một chiếc xe Lam đi đến nơi vừa xảy ra chiến trận. Tiếng đạn bom vẫn c̣n nổ vang rền ở phía xa xa. Vào lúc giữa trưa, hai chúng tôi mới t́m đúng địa điểm mà người lính mô tả. Nơi đây mùi thuốc súng c̣n nặng, nhà cửa tan hoang, cây cỏ dập nát, quân trang, quân dụng, ba lô, đạn dược và lương khô rơi văi đầy mặt đất. Vài khẩu pháo 105 ly mất bánh xe nằm ngă nghiêng; xác mấy chiến xa M113 và M40 thuộc Lữ Đoàn 5, một đơn vị thiết giáp đóng cạnh khu gia binh, bị thủng đạn cháy đen ng̣m, mùi khét của thịt xương và ma duốt c̣n bốc ra nồng nặc; vài chiếc GMC đầy vết đạn lật chỏng gọng hai bên đường để trơ những bánh xe dính đầy bùn. Xác các binh sĩ chết trận đen đủi nằm rải rác dọc đường, h́nh thù biến dạng, có người chỉ c̣n một khúc ḿnh, người khác thân h́nh bị găy làm đôi trông thật khủng khiếp. Một vài khúc tay, khúc chân tím đen cùng những chiếc giầy nằm giữa đám cỏ vô tri. Ruồi nhặng từ đâu bay đến bu đen các xác chết. Khu vực này âm u đến rợn người. Hai mẹ con vừa bịt mũi vừa giở những mảnh vải dơ bẩn phủ trên mặt người chết. Không biết ai đó c̣n đủ th́ giờ để làm việc nhân đạo này trước khi bỏ đi, dầu sao chúng tôi cũng thầm cảm ơn những người đó.
Sau khi giở khoảng bốn năm mảnh vải trên mặt người chết, chúng tôi nhận diện được xác anh Tân. Trời đất bỗng như tối lại, tôi muốn ngất xỉu, mẹ chồng cũng thế. Anh nằm ngữa mặt chết trên một miệng hố cá nhân, ngực bị dập nát, áo trận dính đầy máu bầm. Có lẽ ai đó đă lôi xác anh lên khỏi hố cá nhân v́ hai tay anh buôn xuôi theo thân h́nh, hai chân c̣n ḷng tḥng trên miệng hố. Khẩu súng ngắn mà anh thường mang bên người không c̣n, chỉ c̣n lại bao da đeo ở lưng quần. Cây M16 hằng ngày anh mang bên ḿnh cũng bị ai lấy mất, có lẽ anh đă bắn trả dữ dội lắm trước khi chết nên vỏ đạn rải đầy dưới hố.
Không khí chung quanh vắng lặng như không có chuyện ǵ xảy ra. Tiếng ve sầu ồn ào mọi khi cũng im bặt. Lúc này hai mẹ con chúng tôi không c̣n nước mắt để khóc, và cũng không phải là lúc để khóc. Phải b́nh tĩnh, tôi tự nhủ ḷng. Tôi phụ mẹ chồng khiêng xác anh Tân ra khỏi miệng hố và lau khô các vết máu trên mặt và trên da thịt anh. Máu đă khô nên chùi rất khó, cũng may bi đông nước của anh c̣n nằm bên cạnh nên tôi nhúng khăn cho ước để mẹ chồng chùi cho dễ. Tay bà run run, hai ḍng nước mắt lặng lẽ chảy dài xuống má. Tôi ṃ t́m trong túi áo anh những giấy tờ hay vật dụng cá nhân nhưng không c̣n ǵ hết. Các túi áo của anh đă bị ai đó xé rách. Tôi chỉ thấy tấm thẻ bài c̣n đeo ở cổ nên vội vàng tháo nó ra cất vào túi, rồi xé lớp áo trận rách nát trước ngực dính đầy máu khô. Ḷng ngực của anh bốc lên mùi hôi khó chịu, để lộ cả tim phổi trổ màu tím bầm khiến tôi muốn nôn mửa, phải nín thở và không dám nh́n vào mới xé bỏ được mảnh áo bỏ qua một bên. Tôi vội cởi chiếc áo len mỏng mang trên người để bọc ngực anh. Lau chùi xong, mẹ chồng tôi ngồi chồm hổm xuống đất, thẩn thờ sửa lại đôi chân anh Tân cho ngay ngắn trên mặt đất.
Hai mẹ con trao đổi với nhau vài lời vô nghĩa, tôi không c̣n nhớ rơ là ǵ. Sau cùng hai chúng tôi phân chia công việc: bà ra đường lộ đón xe, tôi ngồi lại giữ xác. Lúc này tôi mới khám phá chiếc đồng hồ Seiko tôi tặng anh sau ngày cưới đ^ă bị ai lột mất, để lộ một khoảng da trắng tái quanh cổ tay trái đă trổ màu xám. Tôi vừa đuổi ruồi vừa im lặng ngồi khóc bên cạnh xác anh. Độ nửa giờ sau, mẹ chồng đi đến trên chiếc xe Lam đậu ngoài b́a rừng. Anh tài xế phụ hai mẹ con tôi khiêng xác anh Tân bỏ trên xe. Anh tài xế này là phúc đức, anh lặng lẽ đến từng xác chết cắm vài cây nhang, vái mấy cái rồi mới chịu ra đi. Anh nói người ta lúc c̣n sống có làm điều ǵ ác đức th́ chết cũng phải được tôn trọng, huống ǵ đây những chiến sĩ đă chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ xứ sở. Anh c̣n nói sẽ vận động một số anh em khác đến chở những xác này ra nghĩa địa chôn và liên lạc với gia đ́nh người quá cố nếu t́m được một địa chỉ nào đó trên người.
Thế là chồng tôi chết không ai hay biết. Chế độ miền Nam đang bị đe dọa nên không ai có đủ th́ giờ để quan tâm đến người quá cố, ai cũng lo cho bản thân ḿnh. Nhiều chiến sĩ khác chắc cũng chết vô thừa nhận ở đâu đó như chồng tôi trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến này, nhưng các anh đó không có cái may được thân nhân đến t́m xác mang về nhà chôn như chồng tôi. Các anh đă hy sinh cho cái ǵ? Thật tội nghiệp cho những người hy sinh vào giờ thứ 25. Cuộc chiến diễn ra nhanh quá nên những ai ngă xuống đều bị bỏ rơi. Quân địch cũng không có th́ giờ chôn xác các anh, đồng đội các anh th́ đang t́m đường trốn thoát nên xác các anh vẫn c̣n nằm đây.
Trên đường về nhà, tôi thấy nhiều thanh niên mặt mũi sạm nắng, tóc hớt cao, mặc thường phục đón xe dọc đường, có lẽ đó là những người lính Việt Nam Cộng Ḥa trong giờ thứ 25. Nét mặt của ai cũng lộ vẻ sợ hăi. Xe Lam chúng tôi chở xác chết nên không ai đeo lên, những xe khác người ta bám đầy. Quốc lộ 1 lúc này thật là chật hẹp và hỗn loạn. Người đi bộ và xe dân sự chen lấn nhau trên đường. Thêm vào đó là những đoàn xe tăng và những chiếc xe quân sự ngụy trang dưới đám lá rừng của quân cộng sản đậu dọc hai bên đường, bộ đội miền Bắc mặt mũi non choẹt đứng ngồi chật cả đường lộ, chỉa súng vào đám người đi bộ hai bên đường, gương mặt cũng lộ đầy nét lo âu. Tôi không c̣n tâm trí để quan sát đoàn quân xâm lăng này, chỉ mong sao sớm về nhà. Người ta cũng chẳng ai thèm quan tâm đến chiếc xe Lam chở xác chết nên chúng tôi được yên ổn chạy tiếp. Đến chiều xác anh Tân được đưa về nhà. Thật là buồn nhưng ḷng cũng nhẹ nhỏm, anh Tân đă vĩnh viễn về với gia đ́nh. Vài người hàng xóm ṭ ṃ đến xem, hỏi han sự t́nh và chia buồn.
Lệ hoen mi, nước mắt tủi nhục
Người nuối tiếc thưởng thức năm canh
Chôn cất anh xong, tôi cùng mẹ chồng sống những ngày đen tối. Vài nhà hàng xóm vui mừng đón chồng, đón con là lính vừa ră ngũ trở về b́nh an. Thật là đau đớn. Phải làm ǵ đây những ngày sắp tới, hai người đàn bà chân yếu tay mềm? Là điều may và cũng là nỗi buồn, hai chúng tôi vừa mới cưới nhau nên chưa có con, nếu không chúng sẽ lâm vào cảnh mồ côi. Mẹ chồng tôi có hai người con, người con gái lớn lấy chồng, cũng là lính đóng ở Vĩnh Long, hai tháng nay không có tin tức ǵ. Bà ở với chúng tôi với hy vọng sớm có cháu nội để bồng bế, nay th́ hy vọng của bà tiêu tan trong đau khổ. Đầu tháng 5, bộ đội cộng sản vào khu gia binh xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi nơi cư ngụ. Tôi dẫn mẹ chồng về xóm đạo Phát Diệm, Hố Nai, quận Trảng Bom (nay là huyện Thống Nhất), tỉnh Đồng Nai, ở với cha mẹ tôi.
Tôi là con gái thứ ba trong một gia đ́nh công giáo di cư, hai anh trai của tôi đều là quân nhân đă có gia đ́nh và đóng quân ở xa. Cha tôi là sĩ quan cảnh sát, cấp bậc thiếu tá ngành tuần lưu xa lộ Biên Ḥa. Gặp lại gia đ́nh thật là sung sướng, tôi cảm thấy được che chỡ và được an ủi.
Mẹ chồng tôi trước kia cũng ở Hố Nai, xóm Bùi Chu phía trên, nên về lại đây không mấy lạc lỏng. Thỉnh thoảng bà lên xóm trên thăm hỏi bà con và lại trên đó vài ngày. Ở với tôi độ ba tháng, bà tỏ ư muốn về Vĩnh Long ở với người con gái lớn và là chị dâu của tôi tên Thanh Kỳ. Chị Thanh Kỳ có chồng là lính hải quân, thuộc Giang Đoàn 27 xung phong, có hai con c̣n nhỏ. Tôi bùi ngùi chia tay bà v́ phải ở lại giúp đỡ gia đ́nh.
Cha tôi như mọi người khác phải đi học tập cải tạo, lúc đầu ở B́nh Long, sau đó bị chuyển ra Bắc. Việc thăm nuôi càng lúc càng khó khăn v́ đường sá xa xôi và khả năng tài chánh gia đ́nh ngày cang eo hẹp. Tôi c̣n sáu đứa em c̣n nhỏ phải nuôi ăn học. Hai anh trai của tôi, một là huấn luyện viên trường Lam Sơn, một là sĩ quan vơ bị Đà Lạt, cũng đi học tập cải tạo. Cũng may là hai anh đă có gia đ́nh nên việc thăm nuôi có gia đ́nh bên vợ lo nên gia đ́nh tôi cũng bớt gánh nặng. Mẹ tội, một phụ nữ gương mẫu, chỉ biết đảm đang việc nhà, phục vụ chồng con và đi nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, ngoài ra không biết ǵ khác, sinh kế gia đ́nh v́ vậy từ nay do tôi đảm nhiệm.
Nơi làng công giáo này, cuộc sống rất là khó khăn. Nhờ nằm trên quốc lộ 1, trục lộ giao thông chính về Sài G̣n, bà con nơi đây kiếm sống bằng cách bán đồ ăn thức uống cho hành khách trên xe đ̣ ở các trạm kiểm soát. Tôi cùng mẹ ra chợ ngồi bán quần áo và vật dụng cũ, các em tôi đứa nào đi học sáng th́ bán mía lau và trà đá ở các trạm kiểm soát buổi trưa, đứa đi học chiều th́ bán thuốc lá và xăng lẻ buổi tối ở dọc đường. Nhờ cả nhà buôn bán nên cũng tạm đủ ăn. Nhưng v́ quá đông người bán, lợi tức ngày càng giảm, việc ăn uống phải hạn chế lại. Nhiều lúc cực quá, tôi gắt gỏng với các em v́ chúng đ̣i sắm áo quần và sách vở mới. Kể cũng tội nghiệp, bạn bè chúng thuộc những gia đ́nh khá giả ăn mặc tươm tất, c̣n chúng th́ mặc những quần áo cũ, có nhiều dấu vá v́ một năm chỉ được một bộ quần áo mới.
Nỗi cực thể xác và vật chất c̣n chịu đựng được, nhưng sự dằn vặt tinh thần th́ không chịu nổi. Mỗi ngày loa phóng thanh ở các chợ và đường phố cứ hô hào dân chúng thi đua lao động, chửi bới ngụy quân ngụy quyền, đề cao chủ nghĩa xă hội (chẳng ai thèm để ư). Thêm vào đó là những buổi họp ở các tổ dân phố, toàn là người quen không mà cứ phải lôi nhau ra phê b́nh kiểm thảo. Tự nhiên tôi đâm ra lo sợ mọi người, sợ những người quen hôm qua trở mặt đấu tố gia đ́nh tôi hôm nay.
Có lúc tôi so sánh cuộc sống trước kia và cuộc sống hiện tại, đúng là hai thái cực, một bên là Thiên Đàng, một bên là Địa Ngục. Tôi chợt nhớ lại tuổi ấu thơ ngày xưa khi c̣n là một cô gái nhỏ, chúng tôi thường hay chia phe chơi tṛ Thiên Đàng - Địa Ngục. "Thiên Đàng Địa Ngục hai bên, ai khôn th́ dại, ai dại th́ khôn, đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn, linh hồn phải giữ linh hồn đến khi gần chết được lên Thiên Đàng". Bài hát này không biết ai đặt ra, chắc chắn phải do một người có ưu tư nhiều về việc giữ đạo nên đă sáng tác để trẻ nhỏ vừa vui chơi vừa giữ đạo, trước mặt Chúa không có kẻ khôn và người dại.
Phong trào đi vùng kinh tế mới được phát động trong các tổ dân phố, loa phóng thanh ngoài chợ hô hào mạnh mẽ. Những gia đ́nh thuộc diện "ngụy quân ngụy quyền" như chúng tôi được "ưu tiên" giải quyết. Một vài nhà đă t́nh nguyện "đăng kư", chúng tôi cứ chần chừ ở ĺ, cuối cùng không ai thèm nhắc tới. Gần một năm sau, những gia đ́nh đi vùng kinh tế mới ở Sông Bé trở về lại v́ không chịu đựng nổi cảnh núi rừng hiu quạnh. Có gia đ́nh về không đông đủ như lúc ra đi v́ đă để lại vài thân xác trong rừng sâu, những gia đ́nh khác th́ đông người hơn v́ sinh thêm con, tất cả đều ốm yếy, bệnh hoạn, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chóc. Họ không c̣n nhà cửa nên cất tạm những căn nhà lá trên những mảnh đất hoang cạnh b́a rừng để ở. Con cái thất học là điều dĩ nhiên nhưng được yên tâm v́ dầu sao cũng c̣n được ánh sáng văn minh chiếu tới, mỗi khi bệnh đau c̣n có nơi mua thuốc chữa trị và việc sinh kế th́ cứ ra chợ hay dọc quốc lộ 1 buôn bán. Ngoài ra họ c̣n canh tác thêm rau đậu ăn thêm, phần c̣n dư mang ra chợ bán. Cuộc sống nói chung rất khổ nhưng ai nấy đều chấp nhận để tồn tại.
Năm 1979, chiến cuộc tại vùng biên giới Tây Nam đến hồi sôi động. Chính quyền địa phương hô hào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Bốn em trai tôi đă lớn, đứa lớn nhất 19 tuổi, đứa thứ nh́ 17. Chúng thuộc diện gia đ́nh "ngụy quân ngụy quyền" nên không được "kết nạp" vào bộ đội, tôi rất mừng. Nhưng nỗi mừng không kéo dài lâu, công an khu vực đến nhà nói B́nh và Khánh (hai em trai lớn của tôi) đă tới tuổi trưởng thành phải thi hành nghĩa vụ "lao động quốc tế", tức đi "lao động tại chiến trường Kampuchia". Tôi không muốn các em tôi hy sinh cho cuộc chiến mới này nên t́nh nguyện đăng kư đi vùng kinh tế mới. Thanh niên thuộc các gia đ́nh "ngụy quân và ngụy quyền" và các gia đ́nh nghèo phải gia nhập lực lượng thanh niên xung phong, "nghĩa vụ" của họ tại Kampuchia là phá rừng, dựng nhà, làm đường và gỡ ḿn bẫy do bọn Khmer đỏ gài thay cho bộ đội.
Trở lại việc đi "xây dựng vùng kinh tế mới", cả gia đ́nh tôi đi hết chỉ để đứa em gái lớn, Xuân Tiên (18 tuổi), ở lại giữ nhà. Nhờ người hàng xóm giới thiệu, mẹ tôi mua lại một miếng đất nhỏ ở vùng kinh tế mới Tân Uyên đă khai hoang sẵn để lập nghiệp. Nơi đây không xa Hố Nai cho lắm nên có thể lui về thường xuyên. Tôi muốn chắc ăn nên giữ hai em lên chốn rừng sâu lánh nạn, mục đích là để chúng không chết thay cho những người đang hành hạ gia đ́nh tôi. Năm 1981, nhiều thanh niên trong xóm bị đưa sang Kampuchia trở về, đứa th́ thương tật, đứa th́ què cụt. Nhiều đứa bị mất tích, có đứa trốn sang Thái Lan tị nạn. Những thanh niên khác bị giữ lại tiếp tục làm nghĩa vụ "lao động quốc tế". Lao động cái ǵ? Họ bị đưa sang chiến trường Kampuchia để làm bia đỡ đạn; rất nhiều người đă chết.
Vùng kinh tế mới trong rừng Tân Uyên không phải là nơi dễ sống. Đất đai chưa khai hoang hoàn toàn nên cỏ cây c̣n mọc um tùm. Nơi đây có nhiều đồng bào Thượng cư ngụ, chỉ một vài gia đ́nh người Thượng khá giả ở lại giữ đất và làm trung gian trao đổi hàng hóa giữa Kinh và Thượng, số c̣n lại rút về chốn rừng sâu hơn để canh tác, tránh tiếp xúc với người Việt. Quen sống với những tiện nghi ở chốn thành thị, chúng tôi phải cố gắng lắm mới chống chọi với sương gió, khí độc của rừng sâu. Mỗi lần các em trai tôi vào rừng kiếm củi trở về, mẹ tôi phải ngồi hằng giờ kẹp gắp những mũi gai nhọn đâm vào các ngón chân, chúng can đảm không khóc nhưng nước mắt chảy ra ràn rụa. Những ngày mưa gió thật là buồn thảm, nước mưa dột ướt cả nền nhà bằng đất nện, các thau chậu không đủ để hứng, sự đi lại trong nhà trở nên khó khăn và dơ bẩn. Bữa cơm gia đ́nh thật là thiếu thốn, cả nhà phải ăn độn bo bo với khoai lang, lát sắn khô, bắp mọi, rau đắng và muối ớt để dằn bụng. Chất dinh dưỡng duy nhất là cá khô và mắm tôm, họa hoằn lắm các em tôi bẫy được con chim, con nhím hay câu vài con cá nhỏ tăng cường bữa ăn, lâu lâu mới được ăn miếng thịt heo và cá biển. Đường tán là xa xỉ phẩm, lâu lâu mới có dịp nếm một lần. Giếng nước gần nhà khô cạn vào mùa khô, các em trai phải đi gánh nước ở bờ suối cách nhà hơn trăm mét. Nước phải đun kỹ trước khi uống v́ sợ mắc các chứng bệnh đường ruột và sốt rét. Đỡ một cái là củi rừng không thiếu nên mẹ tôi sản xuất măng khô hong khói để mỗi tuần tôi mang về Hố Nai bán lại. Măng tre vào mùa mưa mọc rất nhiều nên các em tôi tha hồ cắt về cho mẹ. Cuộc sống cũng tạm ổn định mặc dù c̣n rất thiếu thốn. Chúng tôi an phận với đời sống ẩn dật này chờ ngày cha tôi trở về.
Với thời gian gia đ́nh tôi thích nghi dần với cuộc sống mới và chia sẻ buồn vui với những người hàng xóm, phần lớn là những gia đ́nh thương binh, tất cả đều dầm mưa dăi nắng phụ giúp gia đ́nh làm việc. Có anh chỉ cụt một tay, có anh mất một khúc chân nhưng ngày ngày chống nạn gieo trồng, chăm sóc thực vật giúp đỡ gia đ́nh. Có anh bị mất cùả hai chân, xe lăn không có, đi lại khó khăn, chỉ biết ngồi ôm tủi nhục nh́n người thân lao động. Con cái họ, những thanh niên thiếu nữ "thành phố" ngày đêm phải cầm xẻng cuốc đất, cầm dao phát cỏ, chặt cây đốn củi, vết chai đá để lại nhiều dấu ấn trên người.
Càng bị bạc đăi bao nhiêu, tinh thần đồng cam cộng khổ phát triển bấy nhiêu. Mọi người vui vẻ chia sẻ với nhau những miếng ăn vật lạ. Nơi đây sự cùng khổ liên kết chúng tôi với nhau. Các em tôi có thêm bạn mới, ngày tháng cũng bớt phần cô liêu. Trường học không có, thầy dạy cũng không, tối đến các em nhỏ đến nhà một anh phế binh, h́nh như là sĩ quan công binh th́ phải, học chữ dưới ánh đèn dầu. Nhà anh chập hẹp, bàn ghế thiếu thốn nên các em nhỏ ngồi dưới đất tập viết, tập làm toán. Tuy vậy không khí rất là đầm ấm, tiếng trẻ thơ tập đọc vang dội cả một góc rừng.
Mẹ tôi cũng quen dần với nếp sống mới, bà có nhiều bà bạn cùng lứa tuổi theo con đi vùng kinh tế mới đến nhà chơi. Bà rất được các bà bạn kính nễ v́ có chồng là sĩ quan trung cấp đang đi học tập. Nhiều bà hay tin mẹ tôi sắp đi thăm nuôi chồng đă mang đến muối vừng, khô nai, khô heo rừng thân tặng. Món quà tuy nhỏ nhưng tấm ḷng thật lớn. Gia đ́nh tôi cũng vậy, mỗi lần có bà mẹ nào đi thăm con học tập cải tạo cũng mang đến tặng măng khô hong khói và một vài thứ bánh mức khác. Mẹ tôi hay làm bánh khúc nhân chuối để biếu.
Riêng về gia đ́nh tôi, mỗi lần chuẩn bị đi thăm nuôi người cha ở tận miền Bắc, cả nhà đều lo âu. Thăm nuôi ít quá th́ sợ ông buồn và uổng công lặn lội đường xa, thăm nuôi nhiều quá th́ cả nhà thiếu thốn, thật là nan giải. Đó là chưa kể những thứ lặt vặt khác như bảo các em viết thư, lập danh sách mua đồ, mua vé tàu hỏa, cân và đóng gói.... Mỗi lần như thế tôi phải ở nhà chăm sóc các em, mẹ tôi về Hố Nai mua sắm hàng hóa, đóng gói gọn gàng rồi đón tàu ra miền Bắc.
Em gái thứ tư, XuânTrang, bây giờ đă 16 tuổi được về Hố Nai ở với chị là Xuân Tiên nên nó rất mừng. Được thấy lại cảnh phố phường không ǵ vui hơn. Cả hai chị em bây giờ đều xinh đẹp, nhiều thanh niên trong xóm thường xuyên đến nhà ngấp nghé. Ghét nhất là những cán bộ xă và đám công an trẻ, cùng là người địa phương với nhau mà bây giờ lại trở mặt, người ta gọi chúng là "thành phần 30". Chúng hay lợi dụng cơ hội mời gọi hai em gái tôi lên đồn hạch sách, ḍ hỏi tin tức của hai em trai và cha tôi. Mục đích là để chọc ghẹo hơn là tra hỏi, chúng lợi dụng bộ áo công quyền để dọa dân. Chúng tôi rất ghét nhưng đành cam chịu. Những lần mẹ tôi ra Bắc, tôi phải về Hố Nai chờ đợi và cũng nhân dịp giúp hai em gái dọn dẹp nhà cửa, mua sắm thêm đồ đạc cho cả hai nhà.
Từ lâu rồi không c̣n dịp chăm sóc dung nhan, nh́n lại ḿnh trong gương tôi thấy xấu hổ. C̣n đâu là một thiếu nữ từng là hoa khôi của trường Nữ Vương xóm Phát Diệm ngày nào, c̣n đâu là thiếu phụ duyên dáng trong khu gia binh Xuân Lộc. Gương mặt sạm nắng đen ng̣m, hai g̣ má lồi lơm in đầy vết nhăn khiến tôi già đi, những ngón tay khô cứng đầy vết chai, thân h́nh gầy c̣m và giọng nói khô khan. Dạo này tôi la nhiều hơn nói, các em tôi đều phải ngạc nhiên nhưng không dám căi lại.
Tội nghiệp thân tôi, chồng mất sớm, cha đi học tập, một thân một ḿnh phải cáng đáng cả gánh nặng gia đ́nh. Chúng tôi sống trong cảnh túng quẩn, khổ cực như mọi gia đ́nh khác nhưng ít ra họ c̣n có người chồng, người cha làm điểm tựa, đằng này chỉ có ḿnh tôi. Mẹ tôi ngày càng già yếu, trí nhớ có phần kém đi, việc ǵ cũng phải đợi tôi quyết định. Bà luôn sống trong lo âu và sợ hăi, nhất là mỗi khi hàng xóm thuật lại những biện pháp mới đe dọa cuộc sống. Từ lâu rồi bà cũng không c̣n chăm sóc dung nhan, bà thường mặc những bộ quần áo cũ, chắp vá nhiều nơi đôi khi khiến tôi phải lên tiếng phản đối. Chiếc xe đạp cũ kỹ có lẽ là phương tiện duy nhất của gia đ́nh, các em tôi thay phiên nhau đạp từ vùng kinh tế mới về nhà và ngược lại. Chiếc xe ọp ẹp phải chở nào là củi rừng, măng khô về lại nhà cũ và chở hàng hóa từ nhà cũ về vùng kinh tế mới. Mỗi lần xe bị đứt sên hay bị x́ lốp là rất tốn tiền.
Mỗi lần mẹ tôi trở về từ miền Bắc, tôi đưa cả gia đ́nh về Hố Nai chờ đón. Thường phải mất một tuần cả đi và về, nhanh nhất là năm ngày. Ngày hội tụ thật là hạnh phúc, cả nhà được dịp ăn cơm trắng có thịt cá và rau muống xào. Mẹ tôi trông già hẳn đi, nét mặt mệt mỏi nhưng khi về lại nhà nh́n đàn con đông đủ mặt bà cũng tươi lại. Trong bữa cơm bà kể lại đoạn đường đă đi và trại cải tạo nơi cha tôi bị giam giữ. Lúc này ông đă được đưa về trại Ba Sao ở Hà Nam Ninh nên việc thăm nuôi có phần dễ dàng. Có lần ông được đưa vào nhà giam Hỏa Ḷ, Hà Nội, để "tra khảo", sau đó bị đưa lên Thái Nguyên rồi trở về Hà Nam Ninh. Tóc ông bạc phơ, thân h́nh gầy ốm, bệnh thấp khớp hành hạ thường xuyên, có điều tinh thần ông rất vững. Ngày trở về không xa v́ đă có nhiều người cùng cấp bậc với ông trong quân đội được thả về. Ngành cảnh sát phải ở lâu hơn những người khác v́ bị liệt vào hạng "nợ máu", dù là cảnh sát tuần lưu.
Từ khi cha tôi được về trại Ba Sao, mẹ tôi thường về thăm quê cũ, huyện Phát Diệm nơi bà đă sinh ra. Bà con gần không c̣n bao nhiêu v́ phần lớn đă lên tàu vào Nam năm 1954 nên chỉ c̣n lại bà con xa. Cảnh vật tại đây không khác ǵ trước năm 1954, có điều tan tác và nghèo khó hơn. Dân chúng vẫn lam lũ như ngày nào, các nhà thờ đều hoen ố, nhà cửa mục nát. Gia đ́nh nào cũng than van đời sống khó khăn và bị nhà nước ngược đăi. Một vài cha cố, tuổi đă già, cũng phải đi làm ruộng như bao người khác. Lễ lạc chỉ được tổ chức một lần mỗi sáng chủ nhật, việc học giáo lư bị cấm, các hội đoàn công giáo không được hoạt động. Tuy vậy dân chúng vẫn sinh hoạt chui với nhau, cán bộ nhà nước có biết nhưng cũng làm ngơ miễn các sinh hoạt này không mang tính chính trị. Nhiều gia đ́nh đă vào Nam t́m người quen rồi định cư luôn, mặc dù vậy dân cư vẫn đông đúc v́ số người được sinh ra nhanh hơn số người đă chết hoặc đă ra đi.
Tôi nghe một cách hững hờ về vùng quê mẹ, đầu óc lúc này chỉ nghĩ đến những khó khăn trong cuộc sống, ngược lại mẹ tôi th́ ứa nước mắt mỗi khi nhắc lại quê cũ. Thật vậy, bà yêu quê hương v́ yêu kỷ niệm thời ấu thơ. Cũng như tôi yêu xóm đạo Hố Nai này v́ thương nhớ kỷ niệm ấu thơ, cho dù hiện nay tôi có bị khổ sở hay hành hạ, t́nh yêu tôi dành cho nó vẫn dạt dào như lần đầu tiên được rước ḿnh thánh Chúa. T́nh yêu quê hương giống như t́nh mẹ yêu con, dù con ḿnh có hung hăn hay tàn tật t́nh thương của mẹ không hề thay đổi, mẹ chỉ buồn khi đứa con bạc t́nh bạc nghĩa và bất hiếu.
Cho đến năm 1982, cuộc sống của gia đ́nh tôi tiếp diễn như vừa kể. Nhưng lần này tôi quyết định bán miếng đất trên Tân Uyên dẫn cả gia đ́nh về lại Hố Nai và sang một vuông bán vải ngoài chợ làm kế sinh nhai. Cuộc sống trong rừng núi chỉ là tạm thời để hai em trai tôi lánh nạn. Bây giờ mọi việc đă yên, cán bộ nhà nước và công an khu vực chịu ăn hối lộ nên việc ǵ cũng dễ dàng, cứ đút lót tiền là xong. Chúng tôi chạy tiền để có lại hộ khẩu. Lần này các em tôi đều đă khôn lớn nên tôi cũng nhẹ gánh gia đ́nh. Xuân Tiên sắp sửa lập gia đ́nh với một thanh niên cùng xóm, Xuân Trang đang có bồ. B́nh bây giờ to con hẳn, đẹp trai, tướng tá phương phi như cha, bắt đầu vắng nhà nhiều hơn, có khi tối khuya mới về. C̣n Khánh th́ ghi tên đi học lại, nó vừa đi làm vừa học thêm ở Sài G̣n nên thỉnh thoảng mới về nhà thăm mẹ và gia đ́nh. Các em sau này đều đă lớn, đứa em trai nhỏ nhất cũng đă 15 tuổi, biết phụ giúp chúng tôi làm việc nhà.
Lúc này tôi cũng già đi nhiều, mới 31 tuổi mà nhiều người tưởng đă 40. Kể cũng buồn nhưng không sao, gia đ́nh tôi vẫn c̣n đầy đủ, không ai bị thương tật hay mắc bệnh hiểm nghèo là tôi mừng rồi. Mẹ tôi dạo này già yếu hẳn đi nên phải ở nhà, ba đứa con gái lớn trong nhà thay phiên nhau ra chợ buôn bán. Lúc này kinh tế có phần cởi mở nên việc mua bán ở chợ dễ thở hơn. Tôi sang được một căn sạp ở chợ Thống Nhất để các em thay phiên nhau ra chợ đứng bán ở quầy vải và áo quần may sẵn, tôi chỉ vào B́nh Tây và chợ An Đông mua sỉ mang về cho các em bán lẻ. Thỉnh thoảng tôi dẫn Xuân Tiên hay Xuân Trang đi theo để làm quen với bạn hàng pḥng hờ những lúc phải thay thế tôi. Những người bán sỉ ở hai chợ này đều là người gốc Hoa, họ dành mọi dễ dăi cho khách hàng quen, nhiều lúc không biết tôi ở nơi đâu họ cũng cho mua chịu với số lượng nhỏ, nhưng tôi luôn t́m cách thanh toán nhanh nhất để không mắc nợ. Việc nhà giải quyết tạm xong, tôi có ư định về Miền Tây buôn chuyến.
Nghe nói ở miền Tây lúa gạo và cá mắm nhiều, việc ngăn sông cấm chợ cũng đă giảm, tôi muốn về quan sát t́nh h́nh và nhân dịp thăm lại mẹ chồng ở Vĩnh Long, v́ gần bảy năm qua tôi chưa gặp lại bà, không biết bây giờ bà ra sao. Hơn nữa những anh em phế binh mà tôi có dịp quen biết ở vùng kinh tế mới Tân Uyên về chợ Thống Nhất gặp tôi nhờ giúp đỡ, họ nói lúc này đi buôn củi không c̣n lời nữa v́ có quá nhiều trạm kiểm soát. Đi buôn cá khô về Sài G̣n cũng khó ăn nên họ có ư định buôn gạo từ Hố Nai về Phan Thiết. Gạo là hàng hóa ít bị hư nên có bị kẹt cũng không hư hỏng, vả lại nếu có kẹt th́ bán ở đâu cũng được. Tôi rất muốn giúp những anh em này v́ lúc c̣n ở kinh tế mới, mặc dù thân thể tàn tật họ luôn luôn tận t́nh giúp đỡ gia đ́nh chúng tôi. Thêm vào đó Khánh, em trai thứ nh́ của tôi, cũng muốn đi theo những anh em này đi buôn chuyến nên tôi cấp cho ít vốn làm ăn. Sắp xếp xong việc nhà, tôi chuẩn bị đi về miền Tây.
Trên chuyến xe đi về Vĩnh Long, đi qua những cánh đồng ruộng lúa chín vàng chẳng khác ǵ một thảm lụa xanh biếc kéo dài suốt tận chân trời, tôi thấy miền Nam thật đẹp. Mặc dù là một người miền Bắc, tôi là dân di cư nên không nhớ ǵ quê hương miền Bắc. Đối với tôi quê hương là miền Nam, miền đất của tự do và hạnh phúc nay đă mất. Cảnh vật miền Nam thật dịu hiền, khác hẳn với khu Hố Nai tôi đang ở mặc dù cũng có những thửa ruộng bông lúa chín vàng nhưng không đẹp bằng nơi đây. Thôn xóm miền Nam được bao bọc bởi những lũy tre xanh cao ngập trời, lẫn lộn giữa những đọt dừa ngă nghiêng theo chiều gió. Lúc này cuộc sống ở thôn quê cũng bớt vất vả, máy móc thay thế dần sức người, ghe xuồng máy chạy tấp nập trên các nhánh sông. Nụ cười nở đầy trên mặt mọi người, lời ăn tiếng nói cũng hiền ḥa, ấm áp hơn. Có lẽ do cư trú trên một vùng địa lư kinh tế dễ dàng nên tâm hồn con người trở nên b́nh dị, phản ánh ra bên ngoài sự thành thật. T́nh trạng lúa gạo dồi dào như thế này mà tôi tự hỏi tại sao nhiều nơi dân chúng vẫn thiếu gạo ăn? Có một cái ǵ không ổn.
Xe vừa đổ bắc Mỹ Thuận, mọi người ùa xuống đi lên phà và đứng tản mác hai bên hông. Sông Tiền Giang nước chảy siết, đẩy những đám lục b́nh dọc theo mạng phà. Tôi ra đứng ở lan can ở tầng trên nh́n xuống ḍng nước, mơ màng nhớ tới lần đầu tiên anh Tân đưa tôi về quê chồng. Tôi chợt mỉm cười nhớ tới giọng nói miền Nam của Tân giải thích công cuộc khai khẩn miền Tây. Gia đ́nh anh Tân là những công bộc thời chúa Nguyễn di cư vào Nam hồi cuối thế kỷ 17, lập nghiệp tại Tiền Giang. Ông tổ của anh theo Nguyễn Hữu Kính năm 1698, có công dẹp loạn tại Gia Định và được cấp đất tại Định Tường canh tác. Theo thời gian gia đ́nh Tân đông thêm, đất đai canh tác không đủ nên đă tản mác đi những nơi khác lập nghiệp. Đến đầu thế kỷ 20, gia đ́nh anh có mặt tại khắp nơi tại đồng bằng sông Cửu Long, tất cả đều sốg bằng nghề nông, chỉ một vài bà con cô bác mở tiệm buôn bán tại các thành phố lớn như Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Long Xuyên và Sài G̣n. Gia đ́nh anh Tân ở trong những số đó. Mẹ anh Tân là người gốc Hoa năm đời nên bà không c̣n nói được tiếng Hoa, nhưng máu buôn bán của bà rất mạnh. Sở dĩ bà theo Tân lên Xuân Lộc v́ anh Tân là con trai duy nhất, cha chồng tôi đă bị quân cộng sản bắn ch́m xuồng chết đuối khi chúng đột nhập vào thành phố Vĩnh Long năm 1968, từ đó bà ở luôn với anh Tân với hy vọng sớm có cháu nội bồng bế.
Đang thả hồn theo mây nước và những ngày tháng cũ, một tia sáng găy khúc xẹt ngang bầu trời kèm theo tiếng nổ kinh hồn làm tôi giật ḿnh. Trời đất bỗng nhiên tối lại, mây đen vần vũ, gió thổi mạnh, tôi thấy lành lạnh. Khác hẳn nơi vùng núi rừng Đồng Nai, mỗi lần trời chuyển cơn giông tôi có đủ thời giừ trốn tránh, nhưng tại đây th́ không kịp làm ǵ cả. Cơn mưa trút xuống ào ào như thác nước, tôi vội lấy chiếc khăn quấng vào cổ đi xuống tầng dưới tiến vào một chỗ đông người đứng cho bớt lạnh. Chiếc phà vẫn b́nh thản băng sóng tiến về phía bên kia bờ. Thị xă Vĩnh Long loáng thoáng hiện ra trước mặt.
Trong những chỗ đông người như thế này, sợ nhất là bị móc túi. Tôi cẩn thận giữ chặt chiếc túi xách và quan sát chung quanh t́m một chỗ đứng an toàn. Nơi đây ồn ào tiếng người và tiếng máy. Tôi nghe vang vẳng bên tai tiếng đàn ghi ta đệm theo một giọng ca vừa bi thương, vừa hùng tráng. Sao lời bài hát diễn tả đúng tâm trạng của tôi thế này, lâu rồi tôi chưa được dịp nghe lại. Lúc trước tôi rất ghét nghe những bài hát này v́ mỗi lần nghe tôi chỉ biết khóc. Bây giờ nỗi đau đă nguôi nên nghe lại những lời này tôi không khỏi rùn ḿnh hănh diện v́ đó là tâm trạng của tôi.
Lời ca ấm áp, truyền cảm của người hát làm ḷng tôi xúc động, lâu rồi không c̣n ai nhắc đến những người đă hy sinh trong cuộc chiến đă qua. Tôi nhớ anh Tân quay quắt và tiếc nhớ thời son trẻ chưa kịp hưởng hạnh phúc được bao nhiêu.
"Đợi anh về chỉ c̣n trơ vầng trán đứa bé thơ tấm khăn sô, người quả phụ cầu được sống trong mơ. Tumơrông, Đắctô, Krek, Snoul, trưa Khe Sanh gió mù, đêm Hạ Lào thức sâu... Anh, cũng anh vừa ở lại một ḿnh... Charlie... tên vẫn chưa quen người dân thị thành".
Tiếng hát vừa dứt những tràng pháo tay nổ ran một góc bến phà, tiếng người yêu cầu người ca sĩ hát thêm bản nữa vang lên liên tục. Tôi ṭ ṃ xen vào đám đông, ghé mắt nh́n vào. Quét mắt nh́n đám người đứng quanh ṿng tṛn, tôi chẳng thấy ai là ca sĩ cả. Cố gắng chen vào và cúi nh́n vào khoảng trống ở giữa th́ thấy một người trung niên, tay cầm đàn ngồi dưới đất. À, th́ ra một anh nhạc sĩ lang thang, một phế binh cụt sát hai chân. Anh ca sĩ có khuôn mặt sạm nắng, nét mặt phong sương chứng tỏ cuộc đời của anh đă từng dầm mưa giăng nắng, nhưng đầy phúc hậu. Tóc anh đă điểm bạc. Anh mặc chiếc áo kaki màu xanh lá rừng nhầu nát với nhiều mảnh vá vụng về và chiếc quần tây mà hai ống quần đă được cột thắt lại xếp gọn trong ḷng. Anh cúi đầu vuốt ve cây đàn gỗ cũ kỹ bóng láng mồ hôi, rồi ngước mắt nh́n từng thính giả đứng chung quanh. Anh từ từ lết trên hai mảnh vỏ xe đă ṃn láng đáy để lộ cả lớp bố, đi một ṿng ch́a chiếc lon đựng tiền. Những người đứng nghe đặt tiền vào lon với vẻ quí mến, đa số là thanh niên đứng tuổi, có một vài em bé được cha mẹ báo cầm tiền tới cho.
Tinh thần đùm bọc thật là cảm động. Nh́n những người cho tiền, tôi có cảm tưởng họ là những người đă từng liên quan đến cuộc chiến đă qua. Có thể họ là những binh lính cũ đă trở về đời sống dân sự, đang làm ăn, cũng có thể họ là anh em, con cháu những người lính chiến cũ. Tất cả chia sẻ với nhau nỗi đau của người thất trận trên chiếc phà này. Tôi ở trong đám người đó, lặng lẽ nh́n anh phế binh rồi bỏ tiền vào lon. Tôi muốn nói với anh vài lời nhưng cổ họng nghẹn lại. Theo lời yêu cầu dồn dập của khách thập phương, anh phế binh chuẩn bị hát thêm một bài khác. Có lẽ anh là người nghệ sĩ được ngưỡng mộ nhất trên chiếc phà ngày hôm nay. Uống một ngụm nước, sửa lại dây đàn, anh cầm phiếm dạo nhạc và hát:
"Anh không chết đâu em... Anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương. Tôi vẫn thấy đêm đêm một bông dù sáng trên đồi máu... Và tiếng súng, tiếng súng thay nhạc chiêu hồn đưa anh đi... anh đi. Anh không chết đâu em. Anh chỉ về với mẹ mong con. Anh vẫn sống thênh thang trong ḷng muôn người biết thương ngươi lính. Anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua... Trên khăn tang cô phụ c̣n...".
Những lời ca năo nuột khiến ḷng tôi tê tái. Không ai bảo ai, mọi người cùng im lặng và bùi ngùi thương tiếc cho thân phận của anh phế binh, thương tiếc cho quê hương đă mất đi biết bao nhiêu người anh hùng mũ đỏ... tên Đương, những phi công oanh dũng, những chiến sĩ thuộc các binh chủng đă ngă gục hy sinh cho tổ quốc, để lại những góa phụ với vành khăn sô, những trẻ thơ mồ côi cha. Bài hát vừa chấm dứt, tiếng vổ tay, huưt sáo miệng vang rền. Hứng chí, anh phế binh run tay dạo sang bản khác.
"Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về. Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime, hay Dắctô, Đồng Xoài, B́nh Giả... Anh trở về có thể bằng một chiếc ṿng hoa, chiếc khăn tang ngăn ḍng lệ ướt, em ơi... Đây kỷ vật viên đạn đồng đen, em sang sông cho làm kỷ niệm. Anh trở về, người đă bị thương... Anh trở về trên đôi nạn gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân... Em một chiều dạo phố mùa xuân bên người yêu tật nguyền chai đá...".
Tiếng ca vừa dứt, tiếng pháo tay lại thi nhau nổ ran. Mặt anh phế binh lộ vẻ vui mừng v́ chia sẻ được những ẩn khúc chất chừa từ lâu trong ḷng anh và trong ḷng mọi người. Lần này người ta tự động lấy tiền tặng anh. Chiếc lon guigoz méo mó tràn đầy bạc lẻ. Anh phế binh gật đầu lia lịa, nghẹn ngào cất tiếng cảm ơn. Đám người tự giải tán v́ phà đă cập bến, tất cả lật đật tuôn chạy lên phà, bỏ lại sau lưng anh phế binh lúc này cũng đang mắc cây đàn và chiếc lon guigoz vào người chuẩn bị xuống phà. Giây phút t́nh cờ gặp nhau trên chiếc phà đến đây chấm dứt, cuộc sống chụp giật lại bắt đầu. Anh phế binh ngước mắt nh́n trời. Trời tiếp tục mưa, gió lạnh từ xa cùng mây đen ồ ạt kéo tới, mưa mỗi lúc thêm nặng hạt.
Anh phế binh lướt ḿnh trên hai lốp xe theo ḍng người xuống bến. Tôi xót xa nh́n anh ướt sũng nước mưa trườn người đi trong mưa gió. Đời người sống như gió thoảng mây trôi. Tội nghiệp những phế binh không cửa không nhà, sống kiếp lang thang không bờ không bến. Tôi giựt ḿnh lo sợ cho chính ḿnh, ai sẽ lo cho tôi trong những ngày tháng tới? Cuộc đời này thật là bạc bẽo, chưa hưởng bao nhiêu hạnh phúc đă vội khổ đau, không c̣n ǵ để mơ tưởng, tâm hồn tôi cằn cỗi, trái tim chai lạnh. H́nh ảnh anh phế binh làm tôi trở về những kỷ niệm cũ, quá khứ êm đềm đó quá ngắn ngủi để giờ đây đối diện với nỗi lo thường trực là cơm áo. Tôi buồn cho thân phận, tôi mong có những tia sáng chiếu rọi vào con tim, tôi cũng khát khao có một cuộc sống b́nh thường trong một nước Việt Nam tự do dân chủ, trong đó mọi người có quyền chọn cuộc sống mà ḿnh mong muốn.
Gặp lại mẹ chồng, tôi vô cùng vui sướng. Bà già yếu hẳn đi nhưng nét mặt thanh b́nh. Bà buồn v́ mất con trai nhưng với đàn cháu ngoại năm đứa nên cũng nguôi ngoai phần nào. Bà rất ngạc nhiên khi thấy tôi vẫn ở vậy với gia đ́nh, bà nói phần lớn phụ nữ hoàn cảnh như tôi đều đă tái giá. Tôi chỉ cười giă lă cho qua chuyện, tái giá ǵ nữa khi gánh gia đ́nh c̣n nặng trên vai? Chồng chị dâu tôi nói nếu cần anh t́m người cho, tôi từ chối. Mặc dù vậy anh sốt sắng dẫn tôi đi dạo khắp thành phố Vĩnh Long.
Cuộc sống ở đồng bằng sông Cửu Long thật b́nh dị. Đời sống tuy có khó khăn nhưng không ai để lộ ra ngoài, nơi đây chính quyền địa phương cũng dễ dăi nên thỉnh thoảng chồng chị dâu tôi. Mặc dầu là "ngụy quân ngụy quyền" đi học tập về, đêm đêm chồng chị dâu thường đi uống rượu với công an phường khóm. Nơi tôi ở, công an phường khóm luôn luôn ŕnh ṃ làm khó dễ bà con. Người miền Nam có khác, lúc chiến tranh th́ thù địch nhau, hết chiến tranh th́ cùng nhau đi ăn nhậu. Ở đây lâu lâu mới có một vài tên "cường hào ác bá" hà hiếp dân lành nhưng chúng cũng sớm bị loại v́ bà con lối xóm tố cáo ăn hối lộ và tham nhũng.
Tôi thuật lại cho gia đ́nh bên chồng ư định buôn gạo của tôi, mọi người đều vui vẻ chỉ dẫn. Gạo miền Tây có đủ loại. Chưa bao giờ tôi thấy những hạt gạo vừa thơm vừa trắng tinh đến như vậy. Măi mê những hạt gạo tốt, tôi mua mỗi thứ một tạ đem về bán thử. Chuyến buôn gạo này không được như ư v́ lần đầu tiên mua bán gạo tôi chưa có kinh nghiệm nên bị lỗ vốn. Gạo trắng thơm dễ bán ở Sài G̣n nhưng không bán được ở Hố Nai. Không phải dân chúng không biết ăn gạo ngon nhưng v́ nghèo quá nên không dám mua. Giá mười lít (mỗi lít bằng 1/2 kư) gạo trắng thơm bằng giá mười sáu lít gạo thường. Ngâm hàng lâu quá tôi gần như phải bán huề vốn và lỗ tiền xe, các anh phế binh cũng không dám nhận mang gạo đi Phan Thiết v́ ở đây dân chúng c̣n nghèo hơn. Dân thành thị dám ăn gạo ngon nhưng dân thôn quê chỉ ăn gạo thường, đôi khi ăn cả gạo mục.
Nhờ có gia đ́nh bên chồng ở Vĩnh Long, tôi vào Chợ Lớn mua hàng vải và đồ nhựa mang về bán và mua gạo trắng thường bán lại ở Hố Nai và Phan Thiết. Công việc mua bán cũng tiến bộ dần, tiền lời đủ ăn uống và c̣n dư để sắm sửa thêm trong nhà. Các em gái tôi cũng tự đảm đương việc mua bán ở chợ Thống Nhất và mỗi đứa đều để dành một chút vốn riêng. Những đứa con trai th́ cũng chạy manh chạy mối kiếm đủ ăn qua ngày, chúng không nghiện ngập rượu chè và ma túy là tôi mừng rồi. Đứa em út học hành rất khá.
Vào cuối năm 1986 cha tôi được thả về. Ông rất mừng v́ thấy gia đ́nh c̣n đông đủ nhưng một thời gian ngắn sau ông tỏ ra chán đời và chỉ đi lang thang nh́n cảnh vật suốt ngày. Ông ít nói nhưng quan sát rất kỹ mọi sinh hoạt chung quanh. Ông quá chán ngán ḷng người thay trắng đổi đen, nhất là khi ở trong tù, có nhiều công chức và quân nhân cũ thiếu bản lănh làm nhiều người rất buồn phiền. Để thay đổi không khí buồn tẻ trong nhà, tôi mang cha mẹ về Vĩnh Long ở chơi với gia đ́nh bên chồng một tháng, nhờ vậy cha tôi mới t́m lại niềm sống b́nh thường. Cha tôi muốn ở luôn tại Vĩnh Long v́ đời sống ở đây dễ chịu. Tôi phải bán một số vật dụng trong nhà để mua một căn nhà nhỏ gần chợ Vĩnh Long cho gia đ́nh buôn bán. Một thời gian sau mẹ tôi cũng về hẳn nơi đây cùng với hai đứa em út. Tôi th́ đi đi về về hai nơi, tuy có cực nhọc nhưng tâm hồn cũng được b́nh yên.
Mọi người bàn với tôi về chuyện gia đạo, kể cả mẹ chồng, nhưng tôi chỉ biết lắc đầu. Qua lại thường xuyên bến phà Mỹ Thuận, tôi có dịp nói chuyện với anh Trần Văn Xích, tên người "phế binh ca sĩ" với giọng ca vừa bi thương vừa hùng tráng. Anh Xích cho biết anh là lính thủy quân lục chiến, bị cụt hai chân trong trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị năm 1972. Đạn pháo của địch quân rơi trúng chỗ tiểu đội anh đang nằm. Các đồng đội anh đều chết, riêng anh th́ bị thương nặng và bị cưa hai chân. Trước kia anh ở làng phế binh Định Tường, sau bị đuổi ra khỏi làng anh phải lang thang hát dạo kiếm tiền. Anh cùng ba người bạn lập thành ban tam ca, có một anh qua đời v́ bệnh nặng, người bạn kia bỏ về Nha Trang mất tích, chỉ c̣n mỗi ḿnh anh trên bến phà Mỹ Thuận. Thương cảm hoàn cảnh anh Xích, mỗi lần qua đ̣, tôi mời anh ăn cơm ở một quán bên đường và cho anh ít tiền. Điều làm tôi ngạc nhiên là anh Xích không những không nhận tiền mà c̣n trách móc tôi khi dễ anh. Tôi phải giải thích dài ḍng, kể lại cuộc đời của tôi, góa phụ năm 24 tuổi, một ḿnh gánh vác cả gia đ́nh sau 1975 nay đi buôn gạo anh mới thông cảm. Từ đó Xích và tôi trở thành đôi bạn thân t́nh, nhưng t́nh cảm của chúng tôi dừng lại ở đó.
H́nh ảnh hào hùng chàng "nhạc sĩ lang thang" làm tôi nhớ lại anh Tân. Vào lứa tuổi 25 anh Tân cũng hào hùng không kém, anh đă chinh phục trái tim của tôi khi đơn vị của anh về đóng quân tại quận Trảng Bom. Năm 1973 tôi đi trong phái đoàn nữ sinh Biên Ḥa ủy lạo chiến sĩ Sư Đoàn 18 bộ binh. Thiếu úy Phạm Văn Tân trong bộ quân phục chỉnh tề hướng dẫn phái đoàn đi thăm các thương bệnh binh nằm trong bệnh viện dă chiến của sư đoàn. Vào lúc giữa trưa, sau khi tŕnh diễn xong phần văn nghệ, anh Tân mang đến cho tôi một lon nước ngọt và mời tôi ăn cơm. Bữa ăn hôm ấy toàn là đồ hộp và cơm sấy nhưng thật là ngon. Từ đó tôi yêu anh Tân và chúng tôi đă cưới nhau theo nghi lễ công giáo mặc dù gia đ́nh anh Tân theo đạo Phật. Chúng tôi sống trong hạnh phúc. Chưa được tám tháng anh đă ĺa đời.
Không hiểu sao sống trong một đất nước bạc bẽo như vậy mà ḷng yêu nước của tôi vẫn c̣n nồng nàn đến thế. Tổ quốc này có bù đắp cho tôi cái ǵ đâu mà tôi phải yêu quí nó? Tôi chưa có dịp làm quen với những người giàu có nên không hiểu tâm tư của họ như thế nào đối với đất nước. Nhưng có một điều tôi chắc chắn là những thành phần giàu có mới, những kẻ chiến thắng đang cầm quyền ngày hôm nay không có ḷng yêu nước này. V́ nếu yêu nước và có đầy đủ quyền lực trong tay người ta không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời nghiệt ngă của những người thua thiệt. Riêng tôi, tôi yêu những mảnh đời đau khổ, yêu những xóm làng xác xơ, thương những con người nghèo khó. Tôi thương miền đất này v́ chính tôi đă chôn cất người mà tôi thương yêu nhất và chia sẻ nỗi khổ nhọc của người cùng khốn.
Tại Vĩnh Long, ngay những thương phế binh trẻ từ Kampuchia trở về cũng bị bạc đăi, họ hoặc bị đưa vào sống trong một trại cấm hoặc bị trả về gia đ́nh tự túc t́m kế sinh nhai. Tiền cấp dưỡng của họ mỗi tháng không đáng kể, do đó một số gia nhập vào đời sống cái bang. Phản ứng của những phế binh trẻ từ Kampuchia trở về rất dữ dội, họ không kiêng nễ bất cứ một ai, kể cả công an và bộ đội. Mỗi lần họ gây rối là tập thể các anh em phế binh cũ bị chính quyền cộng sản trả đủa, họ không dám trừng phạt phề binh từ Kampuchia trở về mà hành hạ phế binh miền Nam cũ như cấm đi ăn xin, hát dạo, bán vé số hay bán nhang.
Những cụ phế binh cộng sản thời Pháp thuộc và trong cuộc chiến với miền Nam được chế độ chú ư hơn nhưng so với những ǵ họ đă gánh chịu và phần thưởng nhận lănh được thật là tủi nhục. Nhiều cụ già lớn tuổi đứng trước các ty thương binh xă hội lớn tiếng chửi bới "cách mạng" bạc đăi họ. Những người đại diện chế độ là ai, tất cả đều là con cháu họ nhưng không có quyền giải quyết hơn những ǵ được cấp trên cho phép. Đất nước này phải thay đổi, phải để những người có tài đức hơn ra lănh đạo xă hội. Lúc đó mới có thể nói là xứng đáng hay không xứng đáng, c̣n bây giờ chỉ là láo khoét.
Đời quả phụ của tôi đến đây xin tạm chấm dứt.
* * *
Tôi xin kể lại đoạn đời của một quả phụ khác mà tôi hằng kính mến.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, vợ cố đại úy Trần Văn Công. Bà Tuyết
Nhung sinh năm 1944 tại B́nh Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Phước Tuy.
Năm 18 tuổi (1961), như mọi cô gái quê khác, bà lên xe hoa về nhà
chồng. Anh Trần Văn Công là một giáo viên gương mẫu, anh đă kiêm
nhiệm nhiều chức vụ như xử lư thường vụ thay thế trưởng Ty Tiểu Học,
hiệu trưởng Trường Tiểu Học La Ǵ. Vợ chồng sống trong hạnh phúc và
có sáu mặt con. Cả gia đ́nh đi chùa lễ Phật đều đặn và thường giúp
đỡ những người lầm đường lạc bước hay bị túng quẫn. Hai vợ chồng rất
là tâm đắc, chồng bảo vợ nghe, con cái đề huề. Thực là một mối t́nh
thơ mộng. Ḍng đời cứ êm ả trôi qua những tưởng như được sống măi
trong hạnh phúc, nào ngờ chiến cuộc leo thang, tang thương bao trùm
khắp mọi miền đất nước, hàng hàng lớp lớp thanh niên lên đường nhập
ngũ.
Năm 1968, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa ban hành lệnh tổng động viên. Như mọi công dân khác, anh Trần Văn Công lên đường và thụ huấn tại trường huấn luyện sĩ quan Thủ Đức. Sau khi măn khóa, được gắn cấp bậc chuẩn úy, anh Công được đưa về Sa Đéc phục vụ ở KBC 3013. Đến năm 1973, chiến cuộc lan rộng, ngày nào cũng có giao tranh ác liệt, làng mạc xóm làng điêu tàn, đường sá luôn bị cộng sản ngăn chặn. Mỗi lần đi thăm chồng là một khó khăn.
Trong lần đi thăm chồng hồi đầu tháng 4-1973, xe đ̣ chở bà bị Việt cộng chận lại, họ đuổi mọi hành khách xuống xe và xét hỏi từng người ở b́a Rừng Lá, đoàn xe đậu dài suốt mấy cây số với hàng ngàn hành khách. Có nhiều đàn ông mặc quân phục và thường phục bị bắt trói ngồi ở bên đường. Cũng may là bà Tuyết Nhung nói là đi thăm bà con ở Sài G̣n lúc bị xét hỏi nên không bị làm khó dễ. Sau một hồi thuyết giảng, nào là "tội ác của Mỹ Ngụy", ai có bà con, thân nhân hoặc chồng con đi lính "hăy động viên kêu gọi chồng con trở về với đồng bào dân tộc", nhóm người này lặng lẽ rút vào rừng cùng với những người bị trói. Không ai dám lên xe v́ không biết có được phép hay không. Tài xế và lơ xe bảo phải chờ lệnh và không ai dám đi trước.
Th́nh ĺnh, tiếng đạn cối và đại pháo từ xa bắn tới nổ ầm ầm chung quanh, mọi người hốt hoảng rạp ḿnh xuống hai bên bờ đường tránh đạn. Tiếng khấn vái râm ran ḥa lẫn tiếng kêu rên thảm thiết của người bị thương làm bầu không khí trở nên ghê rợn. Con nít khóc ré, tiếng đàn bà gọi con vang khắp một chốn rừng. Đến khi thấy bóng quân đội Việt Nam Cộng Ḥa tiến tới, mọi người mới hoàn hồn. Xe cứu thương từ Long Đất chạy tới chở những người bị thương vào bệnh viện. Hành khách lần lượt lên xe, ḷng vẫn c̣n lo sợ. Thật là hăi hùng. Tội cho những người bị trọng thương, không biết thân nhân họ là ai. Cuối cùng mọi người vội vă vơ vét vài món đồ rơi văi dưới đất bước lên xe đi tiếp.
Đến Sa Đéc không gặp được chồng, bà Tuyết Nhung hỏi thăm mới biết chồng bà đă đổi về Định Tường được năm hôm rồi, hiện đồn trú ở Sầm Giang (gần Mỹ Tho), một đồn nhỏ hẻo lánh, muốn vào phải có quân xa chạy trước mở đường v́ đoạn đường này thường bị gài ḿn và phục kích. Người quen cho biết anh Công nhắn bà hăy lo cho anh ấy được về Sài G̣n.
Sáng hôm sau, bà đón xe đ̣ về Sài G̣n. Nhờ quen biết, bà gặp được các thượng cấp của anh ở Nha Động Viên và Bộ Giáo Dục. Thấy bà khóc lóc nài xin, thượng cấp hứa giúp đỡ. Bà yên tâm về lại Xuyên Mộc, đi ngang qua Rừng Lá ḷng không khỏi lo âu. Về đến nhà đứa con gái út lâm bệnh nặng phải đưa vào bệnh viện cứu cấp, nó bị xuất huyết năo. Hơn một tháng trời chữa trị, bác sĩ cho con bà xuất viện. Ngày hôm sau bà cùng đứa con gái lớn về Sài G̣n đến Bộ Giáo Dục, cơ quan chủ quản của anh Công, hỏi thăm tin tức. Tối về hai mẹ con về gia đ́nh người em gái tạm trú. Nói chuyện đến giữa khuya, bà nh́n con ngủ say sưa và thuận tay vặn chiếc radio ở đầu bàn nghe tin tức. Tiếng xướng ngôn viên phát ra đều đặn. Chợt có tin đánh lớn ở Mỹ Tho, bà Tuyết Nhung chăm chú nghe.
"Tối hôm 11-5-1973, lúc 2 giờ sáng, một tiểu đoàn Việt cộng tấn công đồn Sầm Giang, một tiền đồn quan trọng của tỉnh Định Tường. Quân trú pḥng đă chống trả kịch liệt. Sau hai giờ giao tranh, quân trú pḥng đă đẩy lui các đợt tấn công. Địch quân rút lui, bỏ lại bên ṿng rào nhiều xác chết, ta tịch thu 2 súng cộng đồng và nhiều vũ khí cá nhân, phía ta hoàn toàn vô sự".
Bà thở phào nhẹ nhỏm, như vậy là anh Công vô sự. Rồi đến phần tin tức khắp nơi, nơi nào quân ta cũng toàn thắng. Sau đó là mục nhắn tin chia buồn. Ủa, có ai nhắn tin ǵ mà kỳ cục vậy?
"Cán bộ quân dân cán chính tỉnh Định Tường vô cùng thương tiếc cố đại úy Trần Văn Công đă anh dũng hy sinh tại Sầm Giang, Mỹ Tho, ngày 11-5-1973...".
Làm sao có chuyện này được. Chắc họ đọc lầm, bà Tuyết Nhung mặt mày tái xanh. Phe ta vô sự mà. Không, không thể có chuyện này được, bà bàng hoàng ngơ ngác rồi khóc rống lên. Nghe tiếng khóc than vật vă trong pḥng, cô em gái chạy vào, ngỡ đứa con gái lớn của bà mắc bệnh. Chừng hỏi ra mới biết, người em gái bùi ngùi lặng im, mọi người xúm lại an ủi bà. Ai đó lại lên tiếng chắc là "họ" đưa tin lầm, bà cũng mong như vậy. Tờ mờ sáng hôm sau, bà gởi đứa con nhờ d́ chăm sóc rồi tức tốc đón xe xuống Mỹ Tho, t́m bộ chỉ huy hành quân tỉnh Định Tường hỏi cho ra lẽ.
Trên đường, bà Tuyết Nhung cứ thầm cầu mong ḿnh nghe lầm, nhưng khi đến nơi th́ sự thực quá rơ ràng. Chồng bà đă ra đi vĩnh viễn thật rồi. Anh Trần Văn Công đă bị chết trong đợt pháo kích đầu tiên, đồn Sầm Giang đă bị thất thủ, quân địch đă tràn vào đốt phá đồn và mang theo nhiều quân trang và quân dụng. Măi trưa hôm sau 12-5, quân tiếp viện mới tiến vào đồn đă bỏ trống, thu nhặt xác chết. Gia đ́nh bên chồng cũng hay tin từ Sa Đéc chạy xuống, tất cả chỉ biết ôm nhau khóc lóc. Chồng bà chết đi để lại sáu đứa con, hai trai và bốn gái. Chồng bà được an táng tại nghĩa trang Ḥa Long, thị xă Sa Đéc. Nh́n những nấm mộ nằm ngay hàng thẳng lối, nước vôi c̣n mới, ḷng bà se lại. Tang thương này đâu chỉ riêng ai, cả đất nước này đều đau khổ. Nơi đây nằm xuống biết bao chiến sĩ, những người hy sinh cho tổ quốc.
Bà Tuyết Nhung về Xuyên Mộc bán nhà, dẫn con vào Sài G̣n sinh sống. Bà thuê được một căn nhà nhỏ ở xóm Vườn Chuối bán buôn. Từ dó bà tảo tần nuôi con ăn học, sáu đứa con là một gánh nặng. Đứa con đầu mới lên 11 tuổi. Thân c̣ lặn lội chạy vạy nuôi con, biết bao cay đắng. Tưởng đâu được yên phận "thờ chồng, nuôi con", nào ngờ biến cố 30-4-1975 ập đến. Chế độ miền Nam sụp đổ. Bà cùng các trở về quê cũ La Ǵ, B́nh Tuy, che dấu tông tích có chồng có cha là sĩ quan "ngụy". Cứ cách vài đêm một lần, bà Tuyết Nhung cùng bà con lối xóm đi họp, nghe cán bộ cộng sản giảng thuyết về sự "bách chiến bách thắng của đảng cộng sản" ngộp cả lỗ tai. Tuy vậy mỗi tháng bà vẫn đánh hàng về Sài G̣n và B́nh Tuy đều đặn.
Thấy sống không nổi, bà tổ chức vượt biên trốn ra nước ngoài cùng với đàn con v́ có quen biết một vài chủ ghe đánh bắt hải sản tại B́nh Tuy. Chuyến vượt biên lần đầu, chủ ghe quá bộp chộp nên thất bại phải bỏ trốn. Cũng may tông tích của bà chưa bại lộ, nhà cửa vẫn c̣n nguyên. Chuyến thứ nh́, rút kinh nghiệm lần trước, chủ ghe tổ chức chu đáo hơn. Buổi chiều đám đứa trẻ giả bộ rong chơi trên bờ biển, chờ lúc vắng người mới vội vàng chui xuống thuyền. Trong thuyền thức ăn đă có sẵn, gia đ́nh chủ ghe cho con nít ăn uống, khuyên chúng không được khóc hay gây tiếng động. Vào lúc chạng vạng, từng tốp thanh niên tiến dần tới bến cảng, quan sát không có ai rồi nhảy xuống khoang thuyền. Sắp đến lượt người lớn, nhưng không may tối hôm ấy công an khu vực mời bà con trong tổ dân phố họp đột xuất. Trong cuộc họp, cán bộ công an nói về chuyện vượt biên, khuyên bà con cô bác hăy cảnh giác. Những người có chân trong tổ chức, trong đó có bà Tuyết Nhung, đưa mắt lo âu nh́n nhau, không ai nói ra nhưng đều biết là có triệu chứng bất thường. Buổi họp kéo dài tới 23 giờ đêm mới giải tán. Ra về mọi người trong ban tổ chức quyết định tạm hoăn chuyến đi, ai nấy vội vàng t́m cách đưa con cháu về nhà. Bao nhiêu công sức dành dụm bấy lâu nay tiêu tan theo mây khói. Thế là chuyến vượt biên kỳ hai này không thành.
Từ đó bà Tuyết Nhung lăn xả vào công việc, bà mua bán dành dụm tiền lo cho chuyến vượt biên kế tiếp. Con cái trong nhà cũng phải bỏ học ngồi nhà chờ đợi. Đến cuối năm 1978, bà cùng các con mới có dịp ra đi. Trên thuyền, gia đ́nh bà gồm tám người, gia đ́nh chú Thuận bốn người, gia đ́nh chủ thuyền bảy người, với người anh thứ chín của bà làm tài công, tổng cộng là hai mươi người. Đàn bà, con nít bị nhốt dưới hầm, trên thuyền chỉ có sáu người đàn ông. Thuyền xuất bến trong đêm nên trên bờ không ai hay biết. Đi được hai ngày một đêm, ngỡ rằng đă thoát nạn mọi người thở phào nhẹ nhơm, đám con nít vui mừng lên bong thuyền cười đùa hét vang. Hải phận quốc tế đă kề gần, ai nấy đều cất cao đầu ngóng t́m tàu buôn quốc tế đi ngang với hy vọng được vớt.
Một lần nữa, số phận không may lại đến với gia đ́nh bà. Thuyền đột nhiên chết máy, ba người đàn ông trên thuyền tích cực sửa máy nhưng vẫn không nổ. Sau một đêm hai ngày, con thuyền cứ nhấp nhô trên sóng nước trôi dần vào bờ. Mọi người lo âu khấn vái cho máy nổ trở lại, nhưng không. Máy tàu đă phản bội, nó im ĺm không lên tiếng. Tuyệt vọng quá, bà Tuyết Nhung muốn xô các con xuống biển rồi nhảy theo luôn, nhưng không biết nghĩ sao bà đành phó mặc. Thuyền cứ trôi dạt vào đất liền, dăy núi xuất hiện mỗi lúc một rơ. Mọi người thấy từ trong bờ xuất hiện hai chấm trắng, càng lúc càng rơ dần. Đoàn người cầu mong đó là thuyền của ngư dân ra cứu, đàn bà con nít bị đuổi xuống hầm tàu. Ai cũng tháo vàng và lấy tiền ra sẵn sàng đưa cho người cứu để được dẫn vào bờ an toàn. Nhưng hỡi ơi, đó là hai thuyền của công an biên pḥng chạy ra bắt, thế là tiêu tan hy vọng. Hai chiếc thuyền công an chạy đảo quanh thuyền vượt biên hai ba ṿng, bắn mấy loạt súng thị uy. Thấy thuyền vượt biên không phản ứng, thuyền công an cặp vào hai bên hông. Hai toán công an nhảy lên tàu chỉa súng bắt mọi người trong buồng lái giơ cao hai tay, hỏi ai là chủ thuyền và tài công rồi bắt trói lại.
Tội nghiệp anh chủ thuyền và chú tài công, hai người bị công an tống cho mấy báng súng vào bụng và đầu, máu chảy đầm đ́a. Trói xong chúng kêu đàn bà con nít dưới khoang tàu lên bong xếp hàng, trói từng người một, con nít th́ được miễn. Công an cột dây thừng vào đầu mũi thuyền vượt biên kéo vào bờ. Chủ thuyền và tài công bị đưa qua thuyền công an, chỉ để lại trên tàu vượt biên hai công an đứng canh chừng đám đàn bà con nít.
Sự hành hạ những người tổ chức vượt biên thật khủng khiếp, tội "phản quốc" là tội nặng nhất trong lúc này. Đàn bà con nít c̣n đỡ, riêng chú Thuận, anh Chín và chủ thuyền bị công an chấp pháp và cán bộ trại giam đánh đến thừa chết thiếu sống. Ngồi ngoài nghe tiếng huỳnh huỵch, rồi tiếng rên xiết của người bị tra tấn trong pḥng chấp pháp vọng ra ai cũng đau ḷng. Họ hăm dọa bắn bỏ những người tổ chức, họ muốn biết thêm những ai dính líu đến đường dây để bắt. Tội nghiệp cho anh Chín, chú Thuận và chủ thuyền, v́ muốn t́m tự do mà phải chịu bao nỗi trầm kha.
Khi vào bờ, đồng bào hay tin có thuyền vượt biên bị bắt đă kéo ra xem đông đảo, có người tràn vào giữa đám người bị bắt cố ư cản trở sự kiểm soát của cộng sản để ai muốn trốn th́ trốn, nhưng đoàn người chỉ toàn là đàn bà, trẻ con. Mấy người đàn ông bị bắt trói ngồi một góc nên không ai nghĩ đến chuyện trốn tránh, tất cả đều chán nản, lo sợ. Măi suy nghĩ và bàn luận những điều ấy với người trong cuộc, bà Tuyết Nhung cảm thấy được an ủi v́ ít ra dân chúng cũng c̣n t́nh người. Đối với bà, vượt biên đưa con cái trốn ra nước ngoài không phải là kẻ phản quốc như cán bộ cộng sản gán cho bà.
Tàu bị tịch thu, nhà cửa những người trong cuộc đều bị niêm phong. Sau mấy ngày bị hành hạ tại đồn, họ đưa cả đoàn đi cải tạo ở trại Z30C B́nh Tuy. Trong thời gian tập trung cải tạo, bà Tuyết Nhung ôn lại những ǵ đă trải qua và chuẩn bị những việc sẽ làm trong thời gian tới. Tại sao ḿnh đi mấy chuyến không thành? Tại sao thuyền chết máy? Đó là những câu hỏi thường đặt ra giữa những người cùng chung số phận tại trại giam B́nh Tuy này. Được biết ngư dân trên thuyền bị công an biên pḥng trưng dụng để ra bắt tàu vượt biên cố ư trùng tŕnh, họ cho thuyền chạy chầm chậm cố ư để thuyền vượt biên chạy thoát nhưng v́ chết máy nên mới bị bắt. Sau gần một năm trời cải tạo, lao động nặng nhọc, mẹ con bà được tha về. Nhờ Trời Phật con cái bà vẫn được b́nh yên.
Về lại nhà cũ th́ than ôi, gia đ́nh một cán bộ cộng sản đang ở. Người ta đă tịch thu nhà của bà. Mất nhà mất cửa, mối lái làm ăn cũng không c̣n, điều kiện sinh sống tại địa phương quá khó, mẹ con bà đi về Sài G̣n tá túc nhà người em gái, sống lây lất qua ngày nhờ sự tiếp trợ của gia đ́nh gần xa. Sau một thời gian ăn nhờ ở đậu, bà đánh liều dẫn sáu đứa con nhỏ vào Long Hải sinh sống. Nhờ người chị thứ hai thương t́nh thuê giùm bà một căn nhà ở cạnh một ngôi chùa để ở và thường lui tới chăm sóc mấy cháu nhỏ, bà rảnh rang buôn bán. Chân ướt chân ráo, lạ nước lạ cái, cuộc sống rất là gian truân, chỉ được cái là ở địa phương không ai biết bà đă bị bắt v́ tội "vượt biên", ngoại trừ những người thân thích. Công việc làm ăn, buôn bán của bà dần dần phục hồi, có phần phát đạt.
Đến giữa năm 1981, anh Chín măn hạn tù được tha về. Nhờ ḍ hỏi bà con lối xóm, anh về SàiGon rồi ra Long Hải thăm mẹ con bà Tuyết Nhung. Nói sao hết được sự mừng vui trong lúc ấy, bà nh́n anh nghẹn ngào không thốt được nên lời. Anh ở lại với mẹ con bà, phụ giúp mẹ con bà kiếm một căn nhà rộng hơn để ở và tham gia buôn bán. Anh Chín sau mấy chuyến đi không thành cũng rất chán nản, quyết định ở lại. Mộng ra đi nước ngoài của bà Tuyết Nhung cũng không c̣n, khả năng tiền bạc không cho phép.
Con cái cứ lớn dần theo thời gian. Đứa con gái đầu ḷng đă qui y cửa Phật, nếu gia đ́nh có đi chắc nó cũng không đi. Ngày nó xuống tóc đi tu, lúc đó vừa 17 tuổi, bà không cầm được nước mắt. Tâm con đă quyết, bà đành ch́u theo. Sau 18 năm trau dồi Phật pháp, con gái bà hiện đang trụ tŕ tịnh thất Linh Quang, bà con Phật tử đến chùa cầu nguyện rất đông. Ḍng đời cứ trôi chảy, các con bà lần lượt cưới vợ, lấy chồng. Tuy không khá giả hơn ai, nhưng được cái chúng rất hiếu hạnh. Biết bà suốt đời hy sinh cho con cái nên chúng đối xử với bà hết mực lễ phép, ít khi làm bà phiền ḷng. Những đứa có gia đ́nh ở xa vẫn thường xuyên tới lui, thăm viếng bà, những đứa có gia đ́nh ở gần thường giúp đỡ, săn sóc bà mỗi khi đau yếu.
Giờ đây tâm hồn bà đă yên tịnh. Suốt gần 35 năm lăn lộn với đời, có
chồng rồi mất chồng, vượt biên thất bại, ở tù, biết bao đau thương,
bao cảnh xé ḷng diễn ra trước mắt, bà đều xem là hư ảo, mọi tị hiềm
trên đời đều quên. Giờ đây sớm khuya kinh kệ, vui trong tiếng mơ hồi
chuông, mong cầu sao cho quốc thái dân an, cảnh bất công không c̣n
nữa để nhân loại chúng sinh cùng nhau toại hưởng. Thỉnh thoảng bà
cùng với mấy chị em Phật tử thuê xe đến những đ́nh chùa linh hiển
cầu nguyện. Ước vọng cuối cùng của đời bà là các hội đoàn thiện
nguyện ở khắp nơi trên thế giới mở ḷng từ bi, bác ái và nhân ái, mở
rộng ṿng tay cứu vớt những nạn nhân đă chịu nhiều thương đau, mất
mát trong cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước Việt Nam, và những
trẻ em bất hạnh đang sống lang thang khắp đầu đường xó chợ được có
nơi nương tựa và có được bàn tay chăm sóc.
* * *
Bà Tuyết Nhung với tôi tuy không cùng tôn giáo nhưng đă chia sẻ với
nhau niềm vui chung là lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ những anh em
thương phế binh và trẻ mồ côi trong các chùa và nhà thờ. Hai chúng
tôi quen nhau tại bắc Mỹ Thuận, qua trung gian anh Xích. Chúng tôi
đă ngồi ăn với nhau những bữa ăn đầm ấm t́nh người. Anh Xích, bà
Tuyết Nhung và tôi đă lập danh sách những anh em thương phế binh và
trẻ mồ côi cần được cứu giúp gởi ra hải ngoại nhờ bác sĩ Phan Minh
Hiển cùng các hội đoàn thiện nguyện giúp đỡ.
Xin gởi đến quí vị ân nhân nơi đây ḷng biết ơn sâu sắc nhất của
chúng tôi, những người bất hạnh trong cuộc chiến vừa qua và cầu chúc
Ơn Trên phù hộ cho gia đ́nh cùng cá nhân quí vị.
Viết lại theo lời thuật của chị Xuân Lan, một góa phụ hiện cư
ngụ tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại