Nguyễn đạt Thịnh
Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là
đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho
phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, v́ đó
là những chữ tôi thương yêu nhất.)
Tôi lập gia đ́nh nằm 22 tuổi, ngày c̣n là một sinh viên quân y. Mẹ
tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới
vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lư, nhưng t́nh yêu cũng không vô lư. T́nh
yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp; thằng Quỳnh, thằng
Khương, thằng Định, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây
ngất.”
Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin
một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ; một năm dài được
chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng
tôi gặp nhau.
Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng;
tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ
cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.
Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi;
sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do t́nh ư, chuyển
đi từ đôi mắt. Đôi mắt thật là t́nh. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ;
tôi không thích hai chữ này v́ nó làm mất đẹp cặp mắt trữ t́nh của
Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở,
bực bội cũng v́ đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp
Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đă yêu nàng và t́nh yêu của họ
không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô
t́nh với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng v́ Phượng. Chỉ một vài lần
gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi dă
mọc sừng.
Dĩ nhiên vợ tôi không thể có t́nh ư với tất cả mọi người, nhưng cái
khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nh́n mọi người một cách
thản nhiên như người ta nh́n những vật vô tri quanh ḿnh.
Giờ này, vợ tôi không c̣n trên cơi đời trần tục nữa tôi mới thấm
thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra
đôi mắt của chính ḿnh, Phượng không có trách nhiệm ǵ về những đổ
vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó _ông Thợ Tạo_ mới đúng
là người tôi phải oán trách.
Đi đôi với cặp mắt t́nh tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái,
và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng
manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy _dù chỉ có đồng rưỡi_ có ma lực giết
người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ
riêng tôi biết cũng đă có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu
không đầy nửa ly này.
Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu
ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy
chữ “h́nh dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh
không c̣n can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để
t́m hiểu xem vợ tôi có nằm trong ṿng tay nó không. Hai gịng chữ nó
viết không cho phép tôi hiểu khác được.
Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực; tôi quan niệm đă không tránh được
băo cát th́ thà vùi đầu xuống cát để không c̣n biết tới giông băo
bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm ǵ hơn được?
Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn c̣n say mê vợ tôi sau 3 năm chăn
gối.
Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đă cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi
hiểu quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của
tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Điều đó cần được giải
thích rơ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong
đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương.
Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của
đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng
cáo bệnh hay t́m cớ bận con để không tham dự.
Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản
chất đa cảm, đa t́nh của chính ḿnh. Không phải là một người đàn bà
trắc nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngă.
Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, lả để người đọc h́nh
dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được
cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”
Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi
chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ tŕnh diện và đem
theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về
yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy tŕnh diện
với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng
mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Đó là cái lầm của
tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.
Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của
miền Nam vẫn c̣n là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà
lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một
triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế v́ những lừa đảo, phản
phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đă bị những mũi dùi tấn
công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa
sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ
đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy
của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhă nhặn lễ
độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không một h́nh thức hành hạ giam
cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.
Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin
tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Điều đó làm đa số sĩ quan
cấp úy chúng tôi yên ḷng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn.
Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè
cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.
Dĩ nhiên là chúng tôi đă lầm; chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu
chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc,
xóa bỏ hận thù.”
Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn
của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng
tôi, “Các anh quên hết địa vị xă hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm
nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài
tháng sau vợ các anh chỉ c̣n nước đi làm đĩ để sống.”
Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng
câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Đừng lo, cứ ăn
hết 10 ngày đó đi đă; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”
Trước mỗi cửa pḥng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên
khẩu hiệu “không có ǵ quư bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng
c̣n phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có ǵ quư bằng nước
uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh th́ không có ǵ quư bằng tự
do.”
Đề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm
biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm
thía hiểu tự do là quư. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái
nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rơ
không phải chỉ một ḿnh tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều
đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.
Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng hơn
th́ một buổi chiều nghe loa gọi lên văn pḥng. Tôi tái người, nghĩ
ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những
thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.
Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản
ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lư thuyết rẻ
tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là
một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một h́nh thức trừng phạt v́ trọng
tội trí thức.
Lên đến văn pḥng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt,
đưa vào pḥng chính ủy. Và tôi đă chết đứng khi thấy Phượng trong
đó.
Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét
thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận
sự chăm nuôi của gia đ́nh.”
Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan
chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác
những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái
lư do đă khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm
nuôi của gia đ́nh.
Cặp mắt nẩy lửa v́ giận, tôi nh́n Phượng. Vợ tôi đă đến cái nước đi
làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nh́n tôi, đôi
mắt vẫn t́nh tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn
dài trên đôi má nhung mịn màng làm ḷng tôi se thắt. Tôi thèm bước
tới, ôm Phượng vào ṿng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy.
Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm
đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”
Bé Mai! Đứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi
đứng khựng như trời trồng trước cái h́nh ảnh nhỏ bé, thương yêu mà
vợ tôi vừa gợi ra.
Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả.
Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng
nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về pḥng đi, Tuần sau lại
được thăm nuôi nữa.”
Đêm đó tôi không chợp mắt. Tôi h́nh dung những chuyện đă xẩy ra giữa
vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau
khi tôi bị đưa ra khỏi văn pḥng hắn. Tôi không tin đă có ǵ quá
đáng trong pḥng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay
bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.
Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần
đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món
khoái khẩu mà có cảm tưởng như ḿnh đang ăn rơm khô, không mùi,
không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10
phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám
đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.
Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm
trọng, “Em chỉ xin ḿnh tuyệt đối tin tưởng là em yêu ḿnh. Suốt đời
em, em chỉ yêu có một ḿnh ḿnh. Mặc dù những ǵ đă xẩy ra hay sẽ
xẩy ra th́ t́nh em yêu ḿnh vẫn măi măi là sự thật duy nhất.”
Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc
đáng buồn đă xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho
Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ
nhỏ trong ḷng người chồng.
Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng th́ một hôm Phượng bảo
tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có
sinh kế ǵ hết.”
Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa ĺa Saigon . Ít nhất về ruộng
sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn
của người thị dân sau ngày bị giải phóng.
“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng
cái nh́n ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh
trước việc anh được uu đăi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những
đầy ải với họ.”
Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn
định trở thành dài hơn v́ thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn
hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản
ứng, bảo đi th́ đi, bảo học th́ học, bảo lao động th́ lao động.
Những bạn nào đă sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ư
với tôi là cộng sản đă thành công trong việc làm chúng tôi mất hết
tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không
mong chờ bất cứ một điều ǵ nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy
được điều động bằng những tiếng c̣i, những khẩu lệnh. Phần ăn quá
đói làm tất cả chúng tôi t́m được cái khôn ngoan của loài vật: không
làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất
cứ một phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói c̣n trong xác người.
Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi
nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục
của ḿnh trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập.
Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ư thức được những thay
đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn
trưa đói khổ tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi.
Trái bắp có trong tay vẫn quư hơn hai chữ “tự do” mới viết trên
giấy.
Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp,
chén trả lại nhà kho.”
Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn pḥng giam hôi hám
nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động
sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.
Bốn giờ chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các
của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn
một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu
từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của ḿnh
với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn
khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt
một năm trời tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”; tôi
xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân”
có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi
người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa
giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.
Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít.
Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà
hàng x̣m gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi
quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và
không có cách nào hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh
đi học tập ra mà con như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để
bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không
biết cách nào khác nữa sao?”
Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn ǵ hết để ruột không hư. Bà ta cáu
kỉnh nạt, “Lang băm tư bản.”
Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng
rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ:
cái chết của đứa trẻ v́ thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi
trở lại trại cải tạo như không.
Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ư thức như bà hàng xóm mà tôi
vừa kể tương đối rất ít; đa số dân Saigon sống trong một t́nh đoàn
kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ
qua câu nói chí t́nh, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già
rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một
công chức c̣n đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách
cho cái áo.
Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng th́ nàng cũng là nguyên
nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không c̣n e dè ǵ tôi
nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống t́nh cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi
nữa, mà xuống đến tận chân thang của xă hội: mỗi ngày vài lần những
anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng
c̣n ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em
về.”
Phần tôi, tôi vẫn phải t́nh nguyện xung phong trong mọi công tác
nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống,
... . Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại
lao tù cải tạo. Đôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà c̣n tự do
hơn chế độ nhân dân quản chế.
Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng
đă hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam
. Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc
ǵ cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày
ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng ḿnh khiếp
sợ.
Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để h́nh dung cái nhục nhă của
tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam . Tôi không đủ can đảm để nói
bất cứ câu ǵ với vợ tôi về việc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi
đầu chịu phép trước guồng máy xă hội mới.
Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do th́ 365 ngày bị
trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân
dân, và nh́n vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ
thống vũ trụ.
Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một t́nh trạng ngượng ngập khó tả,
Ít khi tôi dám nh́n thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ
tôi dám nói với nàng chuyện ǵ khác hơn là những câu đối thoại tầm
thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.
Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho
chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được
một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đă nói với
tôi. Phượng đă làm ǵ, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về
quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi
Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu
Phượng phải trả lời tôi.
Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về,
Phượng kéo tôi vào pḥng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho
cái giường nệm đă đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói
thịt quay ra rồi bảo tôi, “Ḿnh ăn với em.”
Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nh́n thấy
miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng
tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.
Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống
xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một
bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ
quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8
giờ sáng mai, ḿnh mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Đằng.”
“Đón tầu? Để đi đâu?”
Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đă đóng
đủ 10 cây cho họ rồi.”
Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.
“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở
vào được nữa, tôi chỉ c̣n biết nh́n vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa
trong ánh mắt. Phượng cũng nh́n tôi, đôi mắt thăm thẳm t́nh tứ trên
khuôn mặt vẫn c̣n đẹp dù đă gầy đi và dạn dầy phong trần.
Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết ḿnh có tin
hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu ḿnh.”
Tôi ôm Phượng vào ḷng; giữa một xă hội thù hận, cái bóng mát yêu
thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng
đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10
lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương
đem thể xác ra cho thiên hạ dầy ṿ để góp nhặt từng đồng hầu mua tự
do cho tôi.
Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa sung
sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối t́nh to lớn, bền
chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhă của vợ.
Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho ḿnh; nhưng em với con vẫn
đi theo ḿnh.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là
tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần
Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung
phong xuống tầu tại bến Bạch Đằng. Đàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống
ngă ba Đồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi
lậu, không đóng vàng.
“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào
đám người đó; không lẽ người ta xô ḿnh xuống sông. Sợ ǵ?”
Tôi sợ. Rùng ḿnh tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống
sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền
và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.
Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng
gần sáng nàng hỏi tôi, “Ḿnh đă đủ tin vào t́nh em yêu ḿnh để tha
thứ hết mọi việc cho em chưa?”
“Anh tin. Anh yêu ḿnh.”
“Em c̣n một tội nữa, chưa thú nhận được với ḿnh.”
Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất
vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, c̣n chưa đủ nữa hay sao.
Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em c̣n khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em
phải nói dối ḿnh là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn
ḿnh buồn.”
Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.
“Em có con?” tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Ḿnh tha cho em.”
Đứa con chỉ là hậu quả đương nhiên cua những việc làm mà tôi đă nh́n
vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi
lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng
hơn là trách nàng.
“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”
“Nếu ḿnh đồng ư.”
Dĩ nhiên tôi đồng ư; đồng ư đưa những người thân nhất đời ḿnh vào
chuyến đi địa ngục, vào ṿng tay tử thần.
Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong,
tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng
đă dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ,
nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ư đến bộ đồng phục của tôi.
Hơn nữa, Phượng c̣n ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng V́nh, đứa
trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.
Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm
hẹn; nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đă có mặt; nh́n thái độ
ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo
thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm ǵ hết.
Phượng bảo tôi, “Ḿnh chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đ̣ máy.”
Nh́n vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nh́ trên thanh ngang xe,
ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ
sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ
Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngă ba sông Đồng Chanh;
bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên.
Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay c̣n bồng thằng
Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu
không những đă công khai mà c̣n ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối,
đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an
ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4
người tài công đuôi tôm đă chứng kiến và chắc chắn cũng đă biết mục
đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai
báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.
Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương
thương yêu chỉ c̣n là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Đến lúc này các
“giới chức” trên tàu mới ḥ hét chửi mắng những người vượt thoát
lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có
ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.
Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao
tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi
ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong ḷng tôi;
đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn,
vừa làm mái nhà cho trẻ con.
Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nh́n thấy, chắc mọi người phải
gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng
tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho
tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc ǵ để nuôi vợ,
nuôi con.
Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao
giờ em và con c̣n phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”
“Em thương ḿnh,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em c̣n
làm ḿnh buồn nữa.”
Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi
đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa
khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một
đầu đũa để cầm hơi.
Qua đến ngày thứ 3, v́ đói quá, khi đi lănh cơm tôi tḥ tay vào nồi,
vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói
khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức
mạnh của quả đấm trời giáng.
“ĐM quân ăn cướp. Đă đi lậu mà c̣n đ̣i ăn nữa hả.”
Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng v́ cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà
mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh
áo, tôi sung sướng nh́n Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nh́. Tôi
an ủi vợ, “Ḿnh đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải
đến Thái Lan hay Mă Lai.”
Héo hắt cười, Phượng nh́n tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên ḷng,
nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.
Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam , điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không
có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng
được vị trí của Thái Lan và Mă Lai so với Việt Nam . Tôi góp ư với
những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng
Tây Nam . Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết
ǵ mà nói.”
Đến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi v́ đói, v́ mệt và
say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống.
Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể
ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không c̣n khóc được nữa;
tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.
Tôi ṃ xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi
chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không c̣n
sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi
tôi, “Trước kia anh làm nghề ǵ?”
Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải
là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”
Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị
bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng
thiếu thầy Hai chích. Đường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi
được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có
được chén nước cơm, mà trong cà mèn c̣n thêm được một miếng thịt.
Được dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó
tôi lại có thêm một thân chủ: gia đ́nh một người Trung Hoa nhờ tôi
chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến
bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.
Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc
con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không
đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.
Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline
làm tan đường, bà đă ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm
của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng v́ sau 5
ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt
đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm, và ho.
Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14
tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn
mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.
Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đ́nh tôi trở nên sung túc
hơn rất nhiều. Mỗi gia đ́nh vượt biển đều có thủ theo một vài thứ
thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.
Đến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đă b́nh phục và hai đứa
trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái
nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ t́m cái áo khác ra
căng lều. Lần này tôi có ư cột kỹ tay áo vào thành tầu.
Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến
chuyển lớn đang xẩy ra. Giật ḿnh tôi thức dậy trong tiếng reo ḥ
của mọi người.
“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn trời phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”
Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui,
mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”
Mọi người ngoan ngoăn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không
ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mă Lai.”
“Có lẽ như vậy, v́ nó là ḥn đảo, chứ Thái Lan th́ đă thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”
Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng
đang được chuyền sang tâm hôn tôi mà không cần một lời nói. Mọi
người mừng v́ chuyến hải hành 8 ngày đă đến đích. Cuộc hành tŕnh
của riêng tôi và Phượng đă kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn
ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi
này. Nỗi mừng của chúng tôi, v́ vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi
mừng đến không nói được nên lời, không ḥ reo được như mọi người.
Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nh́n ḥn đảo mà tàu đang tiến vào
nữa. Niềm vui của tôi đă quá đầy từ ngày bước chân xuống tàu rời bỏ
quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận t́nh yêu tuyệt
vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa
măn bằng tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “H́nh như ḥn đảo nhỏ quá.”
“Vâng,” tôi lơ đăng đáp.
“Không chắc đă có người trên đảo.”
“Vâng.”
Mũi tàu vẫn hướng vào ḥn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên
tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rơ kích
thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương
nhấp nhô ḥn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó
cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước
với 140 người trong ḷng tàu.
Đa số góp ư kiến nên ngừng lại đảo.
“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dăn gân; ngồi bó gối măi, mỏi
quá.”
“Có thể t́m nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp
tục đi nữa.”
Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một ṿng
quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ
với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa ṿng
đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.
Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh
tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi
phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống
biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào
một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó
tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên ḥn đảo san hô thê lương,
sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi
nh́n thấy mà yên ḷng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo;
tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy
vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng
bằng, mặc dù vẫn c̣n hơi nghiêng, nhưng người trên tàu không đến nỗi
phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.
Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu
bồng bé Mai, và xách gói hành lư khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt
Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ ĺa bỏ
con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày
trước rời bỏ quê hương Việt Nam .
Đó là sai lầm của chúng tôi. Ḥn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không
dung nạp chúng tôi. T́m được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng
đă khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay t́m kiếm, tôi chọn được một hốc
đá tương đối rộng răi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai tṛ trở
thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
“Đau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.
Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em
coi chừng con, anh đi quanh t́m xem có con ốc, con ṣ nào không.”
Tôi ngỡ ḿnh là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn
chục người khác cũng đă lom khom trong các hốc đá t́m kiếm như tôi.
Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng
một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”
Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Đồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng,
hoặc ít ra th́ đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho
140 người đói khát.
Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng t́m được
một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo,
cách t́m thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon
lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nh́
để dành.
“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ
tôm xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt trời c̣n cao mà gió biển nghe đă lạnh; tôi lo
lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em
nữa.”
Gói hành lư được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3
quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài
bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.
Gia đ́nh ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh
nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư
ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.
Đêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ v́ quá lạnh. Chúng tôi xuống
tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người
xấu số. Đó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lư do thứ
nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là v́ đục đá làm mồ
là một công tŕnh quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác
chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đă xông
lên nồng nặc. Lư do thứ nh́ chua chát hơn: người ta không muốn vùi
đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.
Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng
trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc th́ nh́n thấy xác cô, khuy áo bị
cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ c̣n thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương
lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đă bị lột truồng,
bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.
Tôi rùng ḿnh. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đă chứng kiến nhiều
cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác
chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.
Thượng Đế ơi, người đă sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn
mọi sinh vật khác, sao người lại c̣n bày ra những thử thách trớ trêu
đó để làm ǵ? Để chứng minh là con người cũng không hơn ǵ loài cầm,
loài thú ư?
Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nh́n
tôi, Phượng bảo, “Ḿnh đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay
ḿnh.”
“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.
Vợ tôi nh́n tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không
b́nh thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần
nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát
điên, người ta đánh nhau chỉ v́ những chuyện không đâu. T́nh trạng
tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng
nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, “Anh
không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất
tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”
Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nh́n thấy xác người thiếu
nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi
mọi chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua
đây.”
Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy
quan tâm đến những điều tôi nói.
Chúng tôi đă đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không c̣n một cái
vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy
ruột, th́ chỉ vài phút sau đă có người đến đập lần thứ nh́, hy vọng
vớt vát một chút ǵ c̣n xót lại.
Đến tuần thứ nh́ không ai c̣n dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần
như tất cả mọi người đều đă ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không
chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Để thịt và ruột gan không lạnh
tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và
đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.
Nh́n những con cá hung hăn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt
người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi
đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng
vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.
Mượn cái đầu của một bà lăo vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá
mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con
cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.
Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà
beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài
chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá
mập thứ nh́ đă lại trườn vào bẫy trước tiếng reo ḥ mừng vui của hơn
100 con người đói khổ.
Thịt cá mập béo ngậy và tanh ŕnh, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh
được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung
cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.
Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không c̣n một thứ ǵ có thể
sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định
bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm
thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có vơ khí, đang chiếm giữ
con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui
nhanh vào bờ.
Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Ḿnh có c̣n
tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt th́ cặp mắt đó đă nhắm lại từ 4 năm
nay rồi. Bé Mai chỉ c̣n là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp
níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả,
đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.
Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho
con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của
đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ
tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những
sinh lực cuối cùng.
Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu
dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn
mềm mại nhờ chút hơi ấm của t́nh phụ tử ủ ấp.
Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng
đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không ḿnh?”
Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đă chết chưa,
nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ.
Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đă thiếp đi trong ṃn mỏi. Nhưng
rồi tôi thiếp đi thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa
những hoàn cảnh phi lư nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đ̣i hỏi
b́nh thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái
B́nh Dương, tôi ngủ ngon lành.
Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói
ḷa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không c̣n nằm trong tay tôi
nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau
lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh
hoảng.
Những người chung quanh nh́n tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng
cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng
xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần
riêng của họ cũng đă quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút
ǵ nữa cả.
Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo,
vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ.
Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi t́m con?”
Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.
“Họ đă xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít
khóc; tôi lặng đi, tê tái.
Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một
câu nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không
c̣n khả năng khóc, than.
Sáng hôm sau, sau một ṿng đi t́m thực phẩm thất bại như từ nhiều
ngày nay, tôi trở về hốc đá và t́nh cờ khám phá ra nguyên nhân giúp
bé Vinh c̣n tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc
nhiên v́ từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai
cũng bú sữa ḅ từ khi mới lọt ḷng.
Phượng bối rối nh́n tôi, trong lúc tôi nh́n bé Vinh: môi đứa bé đỏ
ḷm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt c̣n mới trên đầu vú.
Tôi t́m thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ
khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để
nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ
làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.
Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách ǵ Phượng. Điều
độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc t́m kiếm thực
phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát th́ đông mà
số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không c̣n t́m ra bất
cứ một thứ ǵ, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.
Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi t́m được
một con của khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi
đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho
nàng.
Suốt tuần sau, tôi chỉ t́m được vài con ốc. Nh́n những triệu chứng
sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm
xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.
Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng;
tiếp theo là tiếng reo ḥ. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nh́n theo
hướng nh́n của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.
Tim tôi ngừng đập; cuối cùng trời vẫn c̣n có mắt, chúng tôi sắp được
cứu sống, và tôi vẫn c̣n Phượng, c̣n người vợ mà trong hoạn nạn tôi
thấy t́nh yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê
mệt, được khổ sở với cặp mắt đa t́nh của Phượng.
Trong tiếng reo ḥ của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ
thỉ bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có c̣n tin là ‘trời xanh có mắt
nữa không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi
ông trời vẫn có mắt.”
Nhưng tôi đă lầm. Đối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông
trời (nếu có ổng) đă vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.
Con tầu tôi đang nh́n theo là một ngư thuyền của Đài Loan. Họ neo xa
bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng
tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc
trả giá.
Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đ̣i một số
vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số
người Trung Hoa đ̣i hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi
ngồi lặng thinh, dự thính.
Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung
Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông
ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người
Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng.
Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu
trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa
những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho
chúng tôi một thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng
mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”
Th́ ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có
tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu; một thủy
thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống
ghe.
Yếu đuối, tôi ngă mấy lần, Phượng mở mắt nh́n tôi, cặp mắt t́nh tứ,
đắm đuối ngày xưa, giờ này đă mất thần.
Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không
c̣n nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đă mất hết hydrate; giải
pháp độc nhất c̣n lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm ǵ có thứ đó
trên một ngư thuyền.
Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng
bị chuồi xuống biển theo h́nh thức thủy táng.
o0o
TÔI DỨT CÂU CHUYỆN vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004,
rồi bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu
chuyện về mẹ con cho con nghe; ba đă thực hiện lời ba hứa.”
Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba
đau khổ nhiều quá,” lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”
Tôi vuốt tóc nó, “ba thương con.”
“Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra
trường thuốc Austin , và đang tập sự tại nhà thương Memorial
Hertman, Houston , nơi tôi làm việc.
“Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.
“Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Đan Quế tranh đấu giải
thể chế độ cộng sản dă man đă giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba
buồn khổ suốt cuộc đời.”
“Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc
nội,” tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, v́ có một đối
tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.”
Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ
Trần Quang trở lại trường đại học; môn học mới của nó là điện ảnh.
Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đă vẽ xong từ năm ngoái bức
tranh quảng cáo cuồn phim đầu tay ĐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo
diễn Phượng Vinh.
Nó đóng vai trung úy quân y của Sư Đoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần
Quang.
Nguyễn đạt Thịnh
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại