Vào khoảng 3 giờ chiều ngày 25 tháng 6 năm 1975, đoàn xe chở
chúng tôi đến Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Long Khánh cũ; đă có
một số anh em đến trước đứng trong hàng rào vẫy tay chào đón chúng
tôi. Ngoài sân rất đông du kích, công an lăm le những cây súng
AK.47, M.16(USA) trên tay, làm hàng rào bao quanh, la hét bảo chúng
tôi phải ngồi tại chỗ theo 4 hàng dọc. Tiếp theo cứ 4 người lên một
lượt để các công an bắt đầu khám xét các đồ dùng cá nhân chúng tôi
đem theo, những con dao nhỏ, những cái nĩa, những vật dụng bằng sắt
có mũi nhọn đều bị tịch thu. Buồn ngủ là những dăy nhà tôn dài, bên
trong có sạp ván, mồi người được chia 7 tấc vừa đủ cho một chiếc
chiếu nhỏ. Tính đến ngày vào tù tôi chưa đầy 24 tuổi. Với lứa tuổi
đầy hào khí nầy, trước 30-4-75 đă một thời oanh liệt, băng suối vượt
rừng, có những người đă tung mây lướt gió, vượt trùng dương, hiên
ngang chiến đấu trên 4 vùng chiến thuật, xem thân ḿnh tựa lông
hồng, quyết tâm bảo vệ quê hương. Nhưng hôm nay khí phách đó c̣n
đâu! Một kẻ bại trận, một người hàng binh, thân xác này dành cho kẻ
thắng trận dày xéo, thống trị???
Bắt đầu nhập cuộc một tṛ chơi mới, chúng tôi nhận được một thông
điệp mà trong xă hội loài người văn minh chúng ta chưa từng nghe bao
giờ. Thông điệp mà người Cộng Sản phát ra ở đây bằng những lời lẽ
cộc cằn, thô lỗ, với bản chất đầy hằn học, hận thù, những câu nói
không văn hóa, tục tĩu và đầy sát khí. Cộng sản là kẻ chiến thắng
nhưng họ vẫn sợ : Cái mặc cảm v́ ngỡ ngàng v́ miền Nam quá phồn
vinh! Họ so sánh v́ miền Nam tiến bộ hơn miền Bắc gấp trăm lần! Họ
so sánh v́ miền Nam tiến bộ hơn miền Bắc gấp trăm lần! Họ tính toán
làm sao và bằng cách nào để vào miền Nam vơ vét của cải đem về miền
Bắc. Họ bóp trán suy nghĩ, tính toán nát óc bằng mọi cách phải làm
cho được, nếu rủi thay cho người nào đó trong khi ngược về Bắc mà
không mang được số của cải nào, trước hết làm sao ăn nói được với
"người cha già dân tộc Hồ chí Minh, ông nội Lenine, ông tổ Karl
Marx", sau đó làm sao ăn nói với đảng Cộng sản Việt Nam trong 30 năm
đă dày công tuyên truyền, cổ vơ, dạy dỗ và làm sao ăn nói với tổ
tiên ông bà đă chết, với đại gia đ́nh, thân tộc, xóm làng.
Đời sống của chúng tôi giờ đây bị thu hẹp lại, bị trói chặt lại,
không có quyền mở. Những sinh hoạt, những bước đi, những tiếng nói,
những tiếng cười, những hơi thở, những ánh mắt và cả không gian xung
quanh chúng tôi đều bị g̣ bó và giám sát. Điều chúng tôi biết rất rơ
ràng là chúng tôi bị tướt đoạt mất quyền làm người, quyền tín
ngưỡng, quyền thờ cúng ông bà tổ tiên, thậm chí đến cả những người
đă chết, thân xác cũng không được nằm yên dưới ḷng đất v́ bị người
Cộng Sản cày xới, vung vài như tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nghĩa
trang Quân Đội (VNCH) Biên Ḥa. Chúng tôi bị tước đoạt bớt khẩu phần
ăn, bị khâu hẹp lỗ miệng, may nhỏ cái bao tử. Ba giác quan cần phải
khép kín: không nghe, không thấy, không biết, mới mong c̣n sống sót
trong những trại lao tù của Cộng sản vô thời hạn này. Giờ đây đời
sống của chúng tôi như những con thiêu thân bay quanh bếp lửa. Cuộc
Cách Mạng tháng 10 năm 1917 ở Nga, hàng triệu triệu người bị đày đến
miền cực lạnh Sibe'ria. Họ đă bị chết ṃn trong miền hoang vu băng
giá này. Sau năm 1945, gần 50 triệu người ở Trung Quốc bị chết v́ bị
trả thù và đói khát. Ở Việt Nam sau năm 1954, hàng triệu người cũng
đă bị chết v́ bị đấu tố trong chiến dịch cải cách ruộng đất và đói
khát. Và ở miền Nam Việt Nam sau 30-4-75, tập đoàn cộng sản Hà Nội
tiếp tục cuộc thanh trừng những thành phần đối kháng. Những sĩ quan
quân đội, cảnh sát, những viên chức của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa,
đều bị tập trung vào các trại lao động khổ sai, được ngụy trang dưới
h́nh thức "trại cải tạo". Người Cộng sản đă la to hét lớn, gầm thét
giống như những tiếng thú dữ giữa rừng hoang. Họ vung tay la lớn :
Giết! Giết! Giết! Giết sạch! Giết lầm hơn bỏ sót! Giết cho máu chảy
thành sông,cho xác chất thành núi như Lénine đă nói: Chỉ có bạo lực
và họng súng mới đem lại được ḥa b́nh!
Những ngày tháng đầu, chúng tôi c̣n nếm được mùi vị của cơm trắng,
nước mắm và cá khô nướng, lấp lửng được phần nào cái bao tử. Những
ngày tháng kế tiếp từ tiêu chuẩn 3 chén cơm mỗi bữa ăn xuống c̣n 2
chén, rồi c̣n một chén. Đến tháng thứ tư, thay v́ một chén cơm trắng
th́ được một chén bo bo, nên phải nhai lâu hơn và được no bụng lâu
hơn v́ nhờ vỏ bo bo không bao giờ tiêu. Chúng tôi thường nhặt những
phần gốc rau muống đă bị anh nuôi vứt bỏ trong sọt rác, rửa sạch,
chẻ làm hai ngâm với nước muối và nước vo bo bo trong những thùng
đạn M.16, có thể lấy từ các kho hợp tác xă trong huyện. Từ ngày ăn
bo bo trở về sau, chúngtooi không c̣n được thưởng thức mùi cá nướng
và nước mắm nữa, thay vào đó là nước muối nấu pha trà để có màu đỏ
như nước mắm thật, thỉnh thoảng trong tuần có vài bữa rau muống luột
hay củ cải trắng nấu canh. Xen kẽ vào các bữa ăn ḿ lát, nhà bếp làm
bánh trôi nước bằng bột khoai ḿ được lấy từ các kho ḿ lát hợp tác
xă. Loại bột này có các con mọt đục khoét từ các lát khoai ḿ rớt
ra; bột và mọt lẫn lộn với nhau, đôi khi c̣n có cả đất cát nữa, nên
bánh sau khi đă được luộc chín trở thành màu xám của mọt. Mỗi trưa
và tối mỗi người được lănh một cái, c̣n buổi sáng chỉ được nữa cái
mà thôi. Loại bánh này nếu để sau 15 phút trở thành khô cứng và có
thể ném chết con chó. Một loại bánh mà chúng tôi chưa từng thấy
trong xă hội miền Nam trước đây, v́ thế chúng tôi gọi đó là "BÁNH XE
LỊCH SỬ HIỆN ĐẠI".
Những ngày tháng cuối năm 1975, chúng tôi vừa lao động vừa học tập
chính trị do Ba Kiều và Ba Ư hướng dẫn. Một tuần, hai tuần rồi ba
tuần cũng quanh quẩn những đề tài:"Cách mạng thành công, đánh cho Mỹ
cút ngụy nhào, các anh là tội đồ của nhân dân, đảng Cộng sản là đỉnh
cao trí tuệ.." Tất cả toàn là những sáo ngữ, tiếng nói của loài vẹt,
người trước nói người sau sao y bản chánh, nhưng có một điều mà Ba
Kiều nói đúng" Mỹ buông ra để nắm lại".
Hầu hết các trại tù nào cũng vậy, ban giám thị bắt chúng tôi viết
đi, viết lại tờ khai lư lịch và quá tŕnh hoạt động nhiều lần. Mục
đích của họ là muốn làm cho chúng tôi rối loạn tinh thần, lo sợ để
kê khai nhiều " tội lỗi của ḿnh". Họ bảo chúng tôi phải "thành thật
khai báo và học tập tốt để sớm được sự khoan hồng của nhân dân."
Nhưng họ đă lầm và đánh giá quá thấp sự hiểu biết của các sĩ quan,
viên chức của VNCH. Trong những ngày "học tập và thảo luận" những đề
tài chính trị, có nhiều anh em chúng tôi hiên ngang nói lên lập
trường của chế độ VNCH trước đây và c̣n trưng dẫn những tội ác của
Cộng sản đă gây ra trong suốt 21 năm từ 1954 đến 1975. Như "cuộc
tổng công kích và nổi dậy" của Cộng sản vào mùa xuân Mậu Thân 1968
trên toàn lănh thổ miền Nam, quân Cộng sản đă giết hại biết bao
nhiêu dân lành vô tội. Riên tại thành phố Huế sau 24 ngày đêm chiếm
giữ, Cộng sản đă giết và chôn sống gần sáu ngàn người trong những
hầm chôn tập thể gồm các binh sĩ, Cảnh Sát, Viên chức chính quyền
VNCH và dân chúng thuộc thành phần đối kháng lại họ (CS), trong đó
có những ông già bà lăo, trẻ con, thậm chí những phụ nữ đă mang thai
họ cũng không tha. Trong quá khứ họ đă đốt bao nhiêu làng xă, trại
định cư và c̣n pháo kích bừa băi vào các trường học giết hại trẻ thơ
vô tội.
Trại K.4 Long Khánh gồm hai khu vực, khu vực A bằm tại BCH. Cảnh sát
Quốc Gia tỉnh Long Khánh cũ, khu B tại trại gia binh của trung tâm
yểm trợ tiếp vận cũ (VNCH).
Hàng ngày chúng tôi lao động quanh khu vực trại: nhổ cỏ tranh,
khiêng đất đá chất thành bờ, nhặt cỏ. Ngày 30-4-75 là ngày đen tối
nhất trong lịch sử đối với trên 20 triệu dân miền Nam VN. Lịch sử đă
sang trang, nhưng đời sống xă hội miền Nam đă lùi lại thời kỳ đồ đá.
Họ bắt chúng tôi ngồi bết dùng hai bàn tay không nhổ những đám cỏ
tranh nằm giữa những hàng rào kẽm gai chằng chịt, thỉnh thoảng chúng
tôi bắt gặp những quả lựu đạn, những đầu đạn M.79(USA) chưa nổ,
những loại đầu đạn M.79 này khi bắn ra khỏi ṇng súng chưa đủ ṿng
tua để kích nổ, nhưng nếu chúng ta nhặt lên chuyền qua tay nó sẽ nổ
ngay rất nguy hiểm. Chỉ qua một buổi lao động, hai bàn tay của chúng
tôi bị kẽm gai cào và cỏ tranh cắt rướm máu. Trại bảo chúng tôi dùng
những cây cọc sắt đập dẹp một đầu bẻ cong lại 90 độ dùng để cuốc
đất, lên luống khoai, làm những luống cải. Với bàn tay trần chúng
tôi không thể nào cầm cây cọc sắt để cuốc đất, nên phải dùng bao cát
quấn quanh cọc sắt để bảo vệ đôi bàn tay.
Vào một buổi chiều, trong lúc chúng tôi đang cấy những cây cải con
vào luống. Út Nhân đi ngang qua thấy chúng tôi đang cấy những cây
cải chỉ có ba hàng dọc, hắn đứng lại quát lớn:
-Tại sao các anh trồng ba hàng? Ai tổ trưởng ở đây? Ai bảo các anh
trồng ba hàng? Cách mạng đă tha chết cho các anh, các anh đă vào đây
mà c̣n mơ tưởng đến "cờ ba que"?
Hắn hét lớn:
-Nhổ lên, nhổ lên trồng lại!
Rồi hắn lầm lũi, mặt đầy sát khí, bàn tay phải luôn áp chặt vào bá
súng Colt 45 mang trước ngực, bước đi không quay lại. Đă hết giờ lao
động nhưng chúng tôi phải nhổ lên trồng lại. Tối đến Út Nhân bắt
chúng tôi họp đội, lên lớp chửi chúng tôi thậm tệ và bắt làm tự kiểm
từng người . Út Nhân là bí thư ban giám thị trại, người nhỏ thó,
chân đi chữ bát, ít học, ăn nói ồn ào, nhưng nét mặt lúc nào cũng
đầy thù hận. C̣n những tên du kích, công an con, mặt lầm ĺ sát khí,
trên tay lúc nào cũng lăm le những cây súng; trước đây chúng chưa
từng có dịp nạt nộ sai khiến ai, nay có đối tượng là tù nhân nên
chúng cảm thấy khoái trá lắm, chúng viết trên các bức tường: "Trong
đời không có ǵ sung sướng hơn được đi chăn tù".
Trải qua 30 năm sau cũng không sao quên được h́nh ảnh những người
trai trẻ thời bấy giờ phải cắn răn chịu đựng những lời sỉ vả nhục
nhă, những ngày tháng lao động khổ sai trong những trại lao tù Cộng
Sản. C̣n những người lớn tuổi trông thê thảm hơn, thân h́nh tiều
tuỵ, gương mặt hốc hác, đă thiếu ăn lại suy nghĩ nhiều về cha mẹ, vợ
con, anh chị em, người thân đang sống ở xă hội bên ngoài, đời sống
của những người ấy chẳng khác nào những người tù bị giam lỏng. Hằng
ngày chúng tôi lao động vất vả dưới ánh nắng như thiêu đốt, áo quần
bê bết màu đất đỏ, mong sao có những trận mưa rào tưới lên những tấm
thân khô cằn này để xoa dịu những nỗi nhọc nhằn, suy tư. Đây chỉ là
những bước đầu và thời gian tiếp nối có lẽ sẽ không có dấu chấm hết!
Số tiền 20.620 đồng theo như thông báo chỉ để lừa gạt thiên hạ. Chân
lết, tay nhổ cỏ, nhưng đầu óc quay cuồng bởi hàng trăm câu hỏi được
đặt ra. Anh em chúng tôi trong lúc nghĩ ngơi thường tụm ba, tụm bốn
xầm x́ to nhỏ bàn tán, hỏi rồi lại đáp, nhưng không có một ai trong
chúng tôi có thể giải đáp được bài toán không có đáp số này. Theo
tôi cho rằng thời gian tù ít nhất là 3 năm, có anh em cho rằng miệng
tôi ăn mắm, ăn muối nên nói bậy bạ. Mà quả thật trong các trại tù
chỉ có ăn nước muối chứ làm ǵ có mắm mà ăn, nếu có cũng chỉ là
những loại mắm thúi ở các vựa cá hợp tác xă dùng để nuôi gia súc.
Chúng ta hăy dựa vào bản chất độc ác, lừa dối của Cộng sản để suy
đoán ra điều này. Từ năm 1930 đến nay, Cộng sản đă lừa dạt cả dân
tộc Việt Nam, con tố cha (như Trường Chinh), vợ tố chồng, anh em tố
lẫn nhau. Họ không có tính người v́ tổ tiên của họ do loài vượn mà
ra :
Xưa kia khỉ ở trong rừng,
Ngày nay tiến bộ, khỉ mừng khỉ vui.
Từng đàn khỉ xuống miền xuôi,
Dạng h́nh thay đổi, nhưng đuôi vẫn c̣n
.Trung Uư Ba Kiều, cán bộ chính trị của trại K.4 đă tâm sự với chúng
tôi rằng: Hai vợ chồng anh đi ngược về Bắc để thăm gia đ́nh, bà con
thân hữu xóm làng tới thăm vợ chồng anh, đă trầm trồ khen ngợi những
sản phẩm tơ lụa và đồ dùng của miền Nam. Chiếc Honda dame mà anh
mang về là một chiến lợi phẩm được cán bộ cả huyện đến xem (sự phồn
vinh giả tạo của miền Nam). Hằng ngày những đoàn xe khách chạy từ
Nam ngược Bắc chở theo rất nhiều xe đạp, xe Honda, bàn ghế, Tivi, tủ
lạnh, quạt máy, chưa kể những vật dụng có giá trị khác. Tôi nghe nói
nếu có cán bộ nào ngược về Bắc, chẳng may không mang được của cải
ǵ, th́ bị người thân mắng chửi thậm tệ và gia đ́nh cảm thấy xấu hổ
với bà con hàng xóm. Bây giờ gần 1 triệu đảng viên Cộng sản và dân
chúng miền Bắc đă thấy rơ bộ mặt thật sự lừa bịp của tập đoàn Cộng
sản Hà Nội trong những thập niên qua do Hồ Chí Minh lănh đạo hay
chưa? Nhà văn nữ DƯƠNG THU HƯƠNG, tháng 4 -1975, lần đầu tiên bà đặt
chân đến thành phố Sài G̣n, ngồi trên vỉa hè bà đă ôm mặt khóc nức
nở, v́ bà đă tận mắt nh́n thấy xă hội phồn vinh của miền Nam, th́ ra
cái xă hội của kẻ chiến thắng đang ngự trị là xă hội man rợ, một xă
hội không tính người. Đă vậy, tập đoàn Cộng sản Hà Nội vẫn ngoan cố,
không công nhận chân giá trị hiện hữu của miền Nam, vẫn c̣n tiếp tục
giở tṛ lừa gạt nhân dân miền Bắc: Những người miền Bắc muốn xuôi
Nam để thăm bà con, th́ phải được học tập một thời gian cách nói láo
về xă hội chủ nghĩa giàu sang tại miền Bắc (tivi, tủ lạnh chạy đầy
đường...) và c̣n chỉ những mánh khoé để vào miền Nam xin của cải.
Thế c̣n dân miền Bắc đem vào cho nhân dân miền Nam những ǵ? Dân
miền Bắc dành dụm, chắt chiu những hộp sữa Ông Thọ, từng gói ḿ ăn
liền, từng cái tô sành để đem vào Nam và họ đă nhận lấy L̉NG THƯƠNG
HẠI TỪ DÂN CHÚNG MIỀN NAM!!!
Hầu hết trong các trại tù nước rất khan hiếm, v́ vậy trại đă chọn 40
anh em c̣n trẻ, khoẻ để đào giếng, được chia làm hai ca, mỗi ca đào
một ngày. Công việc thật vất vả và nặng nhọc, v́ vùng đất bazan Long
Khánh lớp phía dưới toàn đá xanh. Lớp đá dày 10 mét nên phải dùng
đến thuốc nổ TNT để đánh phá, đă đào suốt tháng trời cũng chưa có
mạch nước. Một số anh em đă nản chí v́ bị thương tích nhiều nhưng
lại thiếu thuốc men chữa trị, vả lại chế độ ăn uống không hơn bao
nhiêu nên anh em đă kiệt sức.
Nước không đủ tắm và giặt giũ quần áo hằng ngày, v́ thế chúng tôi bị
ghẻ lở rất nhiều, thân h́nh gầy ốm, xông ra mùi hôi tanh khó chịu và
ảnh hưởng đến những người chung quanh. Ban đêm chúng tôi không sao
ngủ được, phần bị ghẻ ngứa nên đánh bài cào sồn sột. Trên đầu nằm,
từng đàn dán ngửi thấy mùi hôi của ghẻ, chúng tấn công trên hai cánh
tay, dưới bàn chân, chúng gậm nhấm vào da thịt cảm thấy ghê sợ. Cùng
đồng minh với gián, hàng trăm chú rệp từ trong gối và sạp ván ḅ ra
đồng loạt tấn công từ đầu cho đến chân, chúng ḅ ở cổ, tay, ở lưng,
ở chân, cảm thấy rợn người.
Khu vực lao động thứ hai rộng 60 mẫu tây, nằm về hướng đông của
trại. Trước 30-4-75, khu vực này của Tướng Lê Văn Tỵ. Hai mươi mẫu
sát quốc lộ 1 là vười cây ăn trái, vườn cà phê và bảy hồ nuôi cá.
Khu vực c̣n lại 40 mẫu dùng chăn nuôi ḅ, khoảng 200 con lớn nhỏ.
Sau khi tiếp quản, cán bộ Cộng sản huyện Xuân Lộc đă đem ḅ cống nạp
trong qui hoạch sản xuất của trại, chúng tôi được tắm rửa, giặt giũ
thoải mái hơn, nên bệnh ghẻ lở cũng giảm bớt phần nào.
Trại đưa kế hoạch xuống bắt chúng tôi phải đào 6 hồ nuôi cá. Hồ lớn
nhất có bề dài 220 mét, rộng 63 mét, sâu 3 mét, tại khu vực ruộng
śnh dày hơn 5 tấc, lớp dưới toàn đá cuội và nhiều tảng đá xanh rất
lớn. Có một việc không làm sao chúng tôi quên được ngày hôm đó, 80
anh em chúng tôi phải t́m cách đưa một tảng đá nặng khoảng 3 tấn lên
khỏi bờ hồ cao 2 mét. Chúng tôi phải dùng dây kẽm gai quấn thành
những dây thừng lớn đan thành mặt vơng bọc lấy tảng đá, dùng những
đ̣n bẩy lên, phía trên anh em dùng đ̣n kéo tới, tảng đá lên được
phần ba, bất ngờ dây cáp bị đứt, tảng đá rơi xuống lại gây cho nhiều
người bị thương, kẻ dập tay, dập chân, người bị va đầu vào đá,
khoảng 15 người bị cụp xương sống không thể đi được nên phải nhờ anh
em d́u lên bờ. Thật ra muốn đem những tảng đá lớn lên bờ cách nhanh
chóng, trại chỉ cần dùng nhừng xe cẩu hay dùng chất nổ TNT đánh phá
tảng đá bung ra từng mảng. Nhưng ở đây người Cộng sản muốn đày đọa
chúng tôi phải làm những công việc nặng nhọc quá sức người, để thân
xác chúng tôi chết dần chết ṃn trong đau khổ.
Trong 4 năm trời, những tù nhân trại K.4 đă bị cưỡng bức dùng chính
thân xác ḿnh làm những tảng đá, dùng máu và nước mắt của ḿnh ḥa
lần với hồ để hoàn thành một công tŕnh thật vĩ đại: Một hồ lớn nuôi
cá giữa có nhà thủy tạ h́nh chữ T, năm hồ nuôi cá khác được xây nhỏ
hơn. Một khách sạn 3 tầng và nhiều cây ăn trái và cây kiểng. Điều
đáng nói ở đây là đă xây bức tường thành bao quanh 60 mẫu và chung
quanh khu vực trại K.4. Tù nhân đă chẻ những tảng đá lớn thành những
khối đá h́nh chữ nhật để xây một "THIÊN LƯ TRƯỜNG THÀNH" dưới chân
rộng 5 mét, bề mặt trên rộng 3 mét, cao 3 mét.
Đây là một chứng tích lịch sử có một không hai trong những trại tù
Cộng sản từ Nam chí Bắc. Một trại khổ sai nặng nề nhất, máu và nước
mắt tù nhân đă đổ ra nhiều nhất. Để đánh đổi cho sự thành công này,
để đánh đổi nụ cười ngạo mạn, đắc ư của bà vợ ba bí thư Lê Duẩn và
các cán bộ từ trung ương xuống địa phương trong ngày cắt băng khánh
thành công tŕnh, trong những nhà biệt giam, trong những xà lim chứa
hàng trăm người. Những tù nhân chết không nhắm mắt, chết c̣n mang
theo nỗi hận thù không bao giờ chịu khuất phục dưới lưỡi đao hay
họng súng của kẻ thù Cộng sản:
-Anh Nguyễn Văn Hải bị nhốt chết khô v́ sức nóng của thùng sắt Mỹ
sau 4 tháng trời biệt giam.
-Anh Bùi Thiện Thọ, huấn luyện Vôvinam trường Chí Linh-Vũng Tàu, anh
bị cùm hai chân, hai tay bị xiềng và treo trên sàn nhà đá, tay anh
bị nhiễm trùng, thịt bị vữa, ḍi rút đầy người và cuối cùng anh đă
chết.
-Anh Lê Văn Tư, Điều Xiểng, anh Hợi, anh Quyền và 5 anh em khác (tôi
không nhớ tên) bị biệt giam và tra tấn cho đến chết
Ban giám thị trại K.4 c̣n dùng thủ đoạn lập ra ban tư tưởng do tù
nhân Huỳnh Tấn B. làm trưởng ban, cắt được mỗi tổ 1 người để theo
dơi anh em và báo cáo cho trưởng ban hàng ngày.
Vào một buổi trưa đầu năm 1978, trong lúc chúng tôi đang ăn trưa,
nghe tiếng báo động họp khẩn cấp, chúng tôi vứt chén đũa chạy vội
đến sân dăy nhà tập họp một hàng theo từng đội, đa số chúng tôi ở
trần phơi những tấm lưng dưới ánh nắng trưa gay gắt. Tư Hằng, tên
trưởng trại mới đến thay Ba Xuân. Hắn bị chột mắt trái, trông hắn
cũng thuộc loại người có máu lạnh, gian ác. Đứng trong hiên nhà, hắn
nói lớn:
-Tôi biết các anh 99% không ưa ǵ Cộng sản.
Hắn đưa mắt đảo một ṿng qua chúng tôi để xem có phản ứng ǵ hay
không và nói tiếp:
-Nhưng tôi khuyên các anh đừng có chống đối trong lúc này. Các anh
được tha về rồi hăy chống, các anh chống giỏi th́ sống, nếu chống dở
th́ chết.
Hắn gằn từng tiếng và nói đi nói lại hai lần. Sau đó hắn cho đọc
lệnh bắt nhốt 5 người về tội tổ chức cướp trại do anh Đặng Chiên làm
tham mưu. Sở dĩ Tư Hằng nói như thế là để đánh động tâm lư chúng tôi
cho rằng hắn nói đúng và đừng có ư đồ chống đối trong thời gian hắn
làm trưởng trại. Tư Hăng bắt chúng tôi đào những đường hào chạy ṿng
sát những hàng rào phía sau, bề đáy rộng 1 mét, bề mặt rộng 3 mét,
sâu 1 mét. Dưới đáy và hai bên thành hào đều được cắm chông tre và
chông sắt. Bên ngoài được rào một hàng kẽm gai, mỗi tối được găm
điện vào. Dù hàng rào và hầm hố có nguy hiểm đến đâu cũng không cản
được sự quyết tâm của con người khi bị áp bức, v́ thế vào ngày mùng
năm Tết năm 1978(?), năm tù nhân đă vượt trại, kết quả 3 anh đă trốn
thoát, 1 anh bị bắt lại và 1 anh bị chết.
Một thời gian sau Út Nhân lên làm trưởng trại thế Tư Hằng. Hắn là
một tên đao phủ giết người không gớm tay, hắn c̣n độc ác và tàn bạo
hơn những tên trước. Hắn đă ra lệnh nhốt rất nhiều tù nhân vào nhà
đá và xà lim. Có nhiều tù nhân đă bị biệt giam từ 1 năm đến 2 năm.
Tôi chỉ c̣n nhớ những anh em quen biết như Trần Phước H, Nguyễn Văn
Đ, Trương Phước X, Nguyễn Trọng T, Đỗ V. B, Đỗ Minh G, anh Năm H.
Bảy anh em này bị công an trại dùng bao bố bịt miệng và mũi đổ nước
vôi vào cho đến khi ngộp thở. Cột tù nhân vào ghế dùng điện găm vào
người nhiều lần làm cho người co quắp lại. Cột tay và chân tù nhân
và treo chân ngược lên sàn nhà, dùng cây hay roi sắt đánh và quất
vào người đến nứt da nứt thịt. Bốn là rút kiếm Nhật giống như một vơ
sĩ đang rút kiếm đeo sau lưng. Tay trái choàng ra sau ngang thắt
lưng, tay phải để trên vai phải bẻ ngược về phía sau, 10 ngón tay
được cột lại với nhau bằng những sợ dây và siết chặt hai đầu bàn tay
lại làm cho hai cánh tay và xương sống có thể bị găy, đau đớn vô
cùng, người nào chịu không nỗi cực h́nh này nên khai bậy cho người
khác như trường hợp anh Đỗ Minh G. đă khai cho vợ con, khiến cả gia
đ́nh anh đều bị bắt nhốt. Bất cứ tại những trại Cộng sản nào, trại
thường dùng những thủ đoạn bắt nhốt như vậy để răn đe và trấn áp
những tù nhân khác. Anh Đỗ Văn B và Đỗ Minh G. sau khi được ra khỏi
nhà biệt giam, thân h́nh rất tiều tuỵ, chỉ c̣n da bọc xương, không
c̣n khả năng đi đứng được phải nhờ anh em cơng về trại. Dù vậy, Út
Nhân chưa chịu buông tha cho hai anh, chỉ được nghỉ dưỡng sức vài
ngày và sau đó, hằng ngày hai anh bị xiềng một tay vào trụ sắt c̣n 1
tay càm búa đạp đá, nh́n hai anh như xác không hốn Đây có phải là
sản phẩm ḥa b́nh, nhân đạo, độc lập tự do hay là chứng tích của sự
độc tài, tàn bạo của tập đoàn Cộng sản Hà Nội theo chủ thuyết ngoại
lai??
Ngày Chủ nhật đầu tiên được phép thăm nuôi tại K.4, hầu hết anh em
nào cũng ra ngồi dưới những gốc cây me nh́n ra cổng trông ngóng h́nh
bóng của người thân, hay ngồi đợi nhừng trật tự vào gọi tên. Những
anh đă được tin của gia đ́nh có vẻ phấn khởi, c̣n những anh chưa
được tin, nét mặt đăm chiêu, buồn rầu. Nhưng có điều anh em nào cũng
nghĩ giống nhau là không biết bây giờ cha mẹ, vợ con, anh chị em có
được mạnh khoẻ không? Hay tất cả những người ấy chỉ c̣n những tấm
thân tiều tuỵ, xanh xao bởi v́ phải vật lộn với cuộc sống bên ngoài,
cũng ăn bo bo, ăn khoai ḿ, đi chân đất, đầu trần và c̣n nhiều áp
lực đè nặng đôi vai. Đời sống của những người thân rất vất vả, lo
toan đủ thứ để nuôi con, nuôi cha mẹ, c̣n phải chắt chiu dành dụm
một ít thức ăn, thuốc men để thăm nuôi cha, nuôi anh....Hầu hết
những người vợ của chúng ta ở bên ngoài phải đối mặt chống chọi với
nhiều cơn bệnh: nghèo đói, đau yếu, xa vắng t́nh cảm của người
thương yêu nhất, những lời yêu thương ngọt ngào, những nụ hôn nồng
ấm giờ đây như bị chôn vùi vào dĩ văng chỉ c̣n miếng ăn cái mặc là
thực tế! Đă vậy hàng ngày những người vợ tiểu thơ đài các c̣n phải
đấu tranh với những cám dỗ t́nh cảm. Nhiều người đă dùng cái chết để
bảo vệ ḷng chung thủy đối với chồng sau khi bị những "cán bộ địa
phương" dùng quyền thế của kẻ chiến thắng để áp bức và tống t́nh.
Những tên ḷng lang dạ sói này đă trắng trợn cướp ngày không đủ
tranh thủ cướp đêm: cướp nhà cửa, cướp xe cộ, cướp đồ dùng, cướp
tiền bạc châu báo, cướp tờ hộ khẩu, cướp luôn quyền làm người để
tống những người đàn bà thân liễu yếu đào tơ và những đứa con thơ
dại với hai bàn tay trắng lầm lũi lên tận vùng kinh tế mới. Nơi đây
không có nhà cửa, không có họ hàng thân quen, không dụng cụ canh
tác, không đồ ăn thức uống, không thuốc men. Trên là trời, dưới là
đất, chung quanh là núi rừng. Đêm cũng như ngày chỉ nghe tiếng vo ve
của loài muỗi và tiếng kêu của muôn thú. Tất cả các thanh niên nam
nừ không có quyền lựa chọn tương lai cho ḿnh và bị ép gia nhập
thanh niên xung phong, bị đưa đến những vùng rừng núi xa xôi, khai
phá rừng để sản xuất lương thực, hay bị đưa đến những vùng śnh lầy
nước độc để đào kênh rạch. Đối với những thanh niên này trước mắt cả
bầu trời u tối là con đường không lối thoát. Chính cũng tại nơi đây
nhiều mối t́nh oan trái, nghiệt ngă đă xẩy ra. Xă hội băng hoại, một
số học sinh không được thi vào đại học v́ lư do của "Ngụy quân, Ngụy
quyền", con của những gia đ́nh "đau khổ". Những tà áo trắng ngày nào
tung bay trong các sân trường đầy phượng vĩ, cái hồn nhiên trinh
trắng thủa học tṛ nay c̣n đâu! Bây giờ chỉ là những nét đăm chiêu
trên những vầng trán hằn suy tư.
Hăy trả lại cho tôi tâm hồn người thiếu nữ
Mười tám tuổi đầu ngỡ kết mộng băng trinh.
Trong thời gian 3 năm ở k.4 gia đ́nh tôi thăm nuôi được 3 lần. Có
những lư do mà vợ tôi không thể thăm nuôi đều đặn và chính tôi cũng
không muốn vợ tôi phải chịu nhiều cực khổ trong lúc phải nuôi dưỡng
hai con dại, gia đ́nh cha mẹ cùng 3 người em tại vùng căn cứ, đất
đai không được màu mỡ, của cải không có. Bản thân tôi trước 30-4-75
là một người chỉ biết chiến đấu phục vụ lư tưởng để bảo vệ Quê
hương, sau khi vứt bỏ vũ khí trở về đời thường ngoài bản thân ra
không có ǵ để bán.
Mười Vân, giám đốc công an tỉnh Đồng Nai thời bấy giờ bị kết án tử
h́nh, Út Nhân đàn em của Mười Vân cũng bị rớt chức và sa thải về đời
thường dân. Người xưa thường nói :"gieo gió th́ gặt băo" quả không
sai! Trong thời gian làm trưởng trại, Út Nhân đă làm biết bao nhiêu
điều tàn ác, đă bắt nhốt, giam cầm và tra tấn một số tù nhân cho đến
chết, chết không nấm mồ, chết đơn độc, lẻ loi, thân xác được quấn
trong những chiếc chiếu không nguyên vẹn và đă vùi lấp nơi cánh rừng
hoang vắng. Đời sống của gia đ́nh Út Nhân giờ đây đă băng hoại, hắn
như người điên khùng không một ai hỏi han, ngó ngàng đến dù là bạn
thân hay những đồng chí của hắn trước đây. Hai người con gái xinh
đẹp của hắn cũng lần lượt bị chết thảm :đứa thứ nhất bị côn đồ hăm
hiếp tại suối tre Long Khánh, đứa thứ hai bị cháy xăng
Tháng 4-1978, chúng tôi khoảng 20 người được chuyển đến trại Z30C,
thuộc huyện Hàm Tân - Thuận Hải. Trại nằm cạnh chân núi Mây Tàu, đất
đai cằn cỗi, nước độc địa, nơi nào cũng thấy cây lá buông nên gọi là
rừng lá. Tôi và anh Nghĩa được bổ sung vào đội mười nông nghiệp.
Chúng tôi là những người đến sau được anh đội trưởng Huỳnh Tấn Công
ưu ái chỉ định chỗ ngủ sát vách cầu tiêu. Nằm nơi đây suốt đêm không
sao ngủ được v́ những âm thanh và tiếng động bên kia vách, lúc thưa
thớt, lúc vội vàng, lúc xối xả, cộng với "mùi hương thơm cua/ thời
đại, hương thơm của XHCN, hương thơm của đỉnh cao trí tuệ" xông ra.
Tệ hại nhất là vào những ngày mưa gió, không thể nào ra bên ngoài để
ăn "cơm ḿ không", đành phải ngồi ngay tại vị trí ưu tiên này, không
thể ăn mà cũng không thể nuốt nước miếng trong lúc cái bao tử đang
kêu gào cứu nạn. Suốt 3 năm qua chưa có lúc nào bi đát, thê thảm như
lúc này và bắt đầu từ ngày hôm nay: hết cơn bỉ cực đến ngày thê
lương!!! V́ trưa không có ǵ trong bụng nên buổi chiều tôi chặt củ
hủ buông ăn, ban đầu mới ăn thấy ngon như củ hủ dừa, nhưng khoảng
vầi ngày sau thấy yếu hẳn đi, không c̣n sức đối kháng, hai quả thận
như bị suy liệt, củ hủ buông thật độc hại vô cùng.
Điều làm cho chúng tôi khó chịu nhất ở trại Z30C là mỗi khi xuất
nhập trại, tất cả tù nhân phải lấy nón, mũ xuống để chào tên công an
gác cổng ngồi trên vọng gác. Lần đầu cũng là lần cuối, những ngày
sau tôi không hề đội mũ nữa.
Những đội nông nghiệp hàng ngày phải đào gốc cây buông cho ngă
xuống, vào mùa nắng ráo đất rất khô cứng nên chúng tôi đào rất vất
vả. Những vùng đất này chỉ thích hợp tỉa bắp và trồng khoai ḿ, nên
mồi năm chỉ canh tác được 1 vụ. Những đội đào hồ cá và những đội chẻ
đá rất nặng nhọc, đôi khi nguy hiểm đến tính mạng. C̣n những đội
trồng rau xanh hằng ngày phải gánh phân, được lấy từ những hầm cầu ở
cuối mỗi buồng ngủ, đến khu vực trồng rau cải, dùng xẻng xúc phân
rải xuống những hồ rau muống hay dùng gáo múc phân trải dọc theo
những luống cải, luống mồng tơi, luống khổ qua....sau đó gánh nước
tưới cho phân tan ra, những ngày làm công tác này phải bịt miệng và
mũi lại để khỏi bị nôn mửa. Những nông sản và rau xanh sau khi thu
hoạch được, trại đem bán cho hợp tác xă bên ngoài, trại chỉ cho
chúng tôi hưởng những loại rau cải hạng hai, hạng ba mà thôi để hàng
ngày nấu canh với cá thúi. Suốt năm này qua năm khác, họa hoằn lắm
chúng tôi mới thấy những tốp mỡ trôi dạt bồng bềnh trong nồi canh cả
đội. Một năm chỉ có 2 ngày: mùng 2 tháng 9 và Tết âm lịch, mỗi người
chúng tôi được 2 lát thịt mỡ bằng ngón tay út. Khi có dịp làm thịt
heo, ban giám thị trại chia lấy những phần thịt, c̣n xương và mỡ bố
thí cho chúng tôi ăn theo tiêu chuẩn quá thê thảm, nên những nơi nào
có trại tù mọc lên các loài côn trùng nơi đó sẽ bị diệt chủng như
rắn, ếch, nhái, ễnh ương, cóc, chuột, rắn mối, châu chấu, bọ cạp, ốc
sên, ốc lá và các loại rau, lá rừng, ǵ có thể ăn được đều bị chúng
tôi bắt sạch và hái sạch. Đó là những thức ăn phụ trội mà chúng tôi
cần phải có mới mong chống chọi lại những ngày tháng trong lao tù.
Trong thời gian này chúng tôi vẫn tiếp tục ăn ḿ lát, mỗi bữa chỉ
được 1 chén, không sao lấp lửng cái bao tử nghèo đói này, v́ thế
hàng ngày tại khu vực lao động, trong lúc không có "cán bộ quản
giáo" ở đó, tôi thường hay t́m đào những loại khoai mài, khoai mỡ
rừng, khoai chùm hay hái những loại lá dạng, lá cốc, lá lành ngạnh,
lá cánh bướm, hoặc rau cải trời, rau tàu bay v.v... đôi khi bắt được
những con tắc kè thường nằm trong các bẹ cây buông, đem về nấu những
món "hầm bà lằng" để ngốn cho đầy bụng vào những bữa ăn trưa hay ăn
tối. Trong vùng đất Mây Tàu có rất nhiều loại rắn độc như hổ đất, hổ
mèo, rắn lục, nẹp nia, hổ lửa....nhiều nhất là rắn chầm quặp, thân
h́nh chỉ bằng ngón tay cái, màu da đen như màu đất, có thể đổi màu
tùy theo vị trí nằm của nó. Nó hay nằm dưới những đống rác mục hay
dưới những gốc cây buông. Nếu những ai bị nó cắn phải th́ khó có thể
sống sót. Rắn và tắc kè là hai loại tôi thường thu hoạch được, thịt
của chúng đem nướng hoặc kho xả cho chúng ta mùi thơm hấp dẫn và ăn
rất ngon lại giúp cho cơ thể thêm chất proteine.
Cuối năm 1979, đội 10 chuyển qua khu B cách khu A (Z30C) trên 2 cây
số. Trại nằm sát khu rừng rậm Mây Tàu và suối nước lạnh. Suối này có
độ lạnh buốt như nước đá, nếu người nào không có sức khoẻ tốt không
thể nào dám xuống tắm.
Vào những ngày nghỉ lao động, chúng tôi hay nấu nướng ngoài trời ở
phía cuối những dăy buồng, có đắp những bếp cá nhân. Có người nấu ăn
một ḿnh, có nhóm năm, sáu người đậu gạo nấu chung, ăn uốn nói cười
vui vẻ hầu quên bớt những khổ cực trong những ngày lao động. Phần ăn
uống này đa số chúng tôi nhận được từ những bàn tay thăm nuôi của
gia đ́nh, mà người vợ, người mẹ, người chị, người em đă đổ ra bao mồ
hôi nước mắt chan ḥa với những ngày tháng vất vả, lặn lội, gom góp
để có một ít lương khô mang đến cho chúng tôi. Chúng tôi phải cám ơn
những bàn tay nhỏ bé ấy, bàn tay đầy t́nh thương, bàn tay đầy t́nh
người. Những bàn chân yếu đuối, những bàn tay run rẩy, đă băng rừng
lội suối từ miền Nam ra miền Trung hay ra tận miền Bắc, dù dài nắng
dầm mưa, c̣ng lưng mang những túi lương thực để tiếp tế cho người
thân và điều duy nhất chỉ mong được gặp mặt lại, để nghe được tiếng
nói, để nghe được nhừng hơi thở nồng ấm phát ra từn những con tim
yêu thương của người chồng, người con, người anh, người em đă xa
cách trong thời gain qua. Trong thời gian chưa có tin tức về gia
đ́nh, có những người vợ chân yếu tay mềm làm thân c̣ lặn lội nhiều
nơi để nghe ngóng, ḍ la tin tức của chồng và không chống chọi nỗi
với thời gian khắc nghiệt trong cuộc sống đầy nghiệt, nên ngă bệnh
và cuối cùng ĺa khỏi cơi đời mà không gặp được mặt chồng lần cuối!
Có những người đi không quay trở lại, những thân xác yếu mềm này đă
bi/ quên lăng ở tận rừng sâu hay dưới vực thẳm hoặc tận đáy sông.
Những người rủi ro gặp phải những cơn bệnh đọa đày hay những ḍng
nước cuốn trôi hoặc bị thú dữ phanh thây? Dù những người này chết
thế nào chúng ta vẫn khẳng định rằng: CHÍNH T̀NH YÊU THƯƠNG ĐĂ GIẾT
CHẾT HỌ TRONG MỘT XĂ HỘI ĐẦY MAN RỢ!!!
Vào những ngày Chủ nhật, chúng tôi thường ngồi nghe anh Lộc kể những
chuyện tiếu lâm thời đại với những đề tài "con người từ loài vượn
biến thể". Anh kể những chuyện làm cho chúng tôi không thể nhịn cười
được, cười nghiêng ngữa, cười đến nỗi đau bụng. Anh Xuân, c̣n rất
trẻ, chuyên kể chuyện kiếm hiệp Kim Dung, anh có biệt tài kể vanh
vách không sai hay thiếu một chi tiết nào. Từ giọng nói, điệu bộ,
anh thay đổi tùy theo nhân vật và thời gian. Mỗi lần được nghe anh
kể chuyện, anh em thường pha trà, góp bánh ngọt để thết đăi anh. Nhờ
anh Lộc, anh Xuân đă đem lại cho chúng tôi những nụ cười say mê làm
vơi bớt những nỗi buồn chán trong tù.
Vào giữa năm 1980, tôi có dịp quen biết Nguyễn Văn H, tuổi đời trên
60, da thịt hồng hào, trông người anh có vẻ bất cần đời. Tôi hỏi anh
tại sao da thịt anh tốt như vậy? Anh cho tôi biết ngày nào anh cũng
bẫy được vài con chuột, thỉnh thoảng c̣n bắt được cóc, nhái và tắc
kè nữa. Hôm tôi gặp anh lần đầu, thấy anh đang nấu nồi cháo cóc,
không biết anh đă làm ruột chưa, nhưng tôi thấy con cóc vẫn c̣n
nguyên đầu và da, bốn chân cóc dang ra chồi lên lặn xuống trong nồi
cháo đang sôi, giống như người sắp chết ch́m v́ không biết bơi lội.
Chúng tôi cười ngặt nghẽo, cười nức bụng, cười vỡ tung cả không gian
đang buồn thảm, thế nhưng anh H vẫn ngồi tỉnh bơ như không có việc
ǵ xảy ra, đôi mắt anh vẫn đăm đăm nh́n con cóc đang trôi nổi trong
nồi cháo. Có lẽ anh nh́n con cóc trong cháo cũng giống như số phận
con người đang trôi nổi theo ḍng đời.
Vào một ngày đầu tuần của tháng tư nắng ráo, năm 1980, trong lúc đội
đang giẫy cỏ, một "cán bộ bảo vệ" gọi tôi lại và hỏi rằng:
-Anh đă "an tâm cải tạo" chưa?
Tôi trả lời:
-Đă an tâm rồi.
Nhưng người "cán bộ" này cho rằng tôi nói "náo". "Cán bộ" cầm điếu
thuốc trên tay đưa cho tôi xem và nói:
-Đây là điếu thuốc "cáp ten", thuốc miền Nam của các anh đấy, trong
lúc tôi hút nó tôi cảm thấy chưa an tâm, có nhiều sự suy nghĩ, huống
chi là các anh....Tôi biết các anh phải trả lời như vậy, thôi ráng
lao động để chờ ngày về.
Trong lúc tôi quay lưng đi th́ "cán bộ" nói với theo:
-Các anh nhớ đừng trốn trại là tôi bị cúp phép một năm đấy.
Trong những ngày "cán bộ bảo vệ" này theo đội, tôi thường thấy "cậu
ta" ngồi lủi thủi một ḿnh, súng ít khi cầm trên tay, mặc kệ chúng
tôi làm hay chơi cũng không nói lời nào. Có lẽ những lời nói trên đă
biểu hiện sự suy nghĩ chân thật của một công an miền Bắc tuổi đời
c̣n rất trẻ, sau khi được đưa vào Nam để giữ tù. Họ cũng có những
suy tư, những trăn trở khi đă nh́n thấy tận mắt, nghe tận tai về đời
sống của nhân dân miền Nam trước đây và so sánh với đời sống của
nhân dân miền Bắc thời bấy giờ. Những cán binh và công an c̣n trẻ
tuổi này bị ràng buộc bởi những liên hệ gia đ́nh nên họ không dám
đột phá, bởi vậy họ đành chấp nhận làm công cụ cho tập đoàn Hà Nội
để đổi lấy những miếng ăn thức uống cho chính bản thân và cho cả gia
đ́nh.
Theo lời anh Du phụ trách nấu nước đội 10 kể lại, vào đầu năm 1978,
chuẩn uư Tám-cán bộ quản giáo đội 10- đă móc nối với 2 tù nhân: một
người trước đấy là giáo sư Anh văn, một người là thiếu uư phi công,
cả 3 đều trốn trại và đă vượt biên. Cán bộ Bạch Ngọc Phượng về thay
thế CB Tám. Cán bộ Phượng lúc nào cũng thấy đói khát, hắn thường hay
sai đội trưởng Công và đội phó Tú nhổ trộm ḿ, đào khoai, bẻ trộm
bắp để nấu cho hắn ăn tại nhà lô, nếu ngày nào không có ǵ cho hắn
ăn, trông mặt hắn cau có khó chịu, tính t́nh trở nên hung hăng và
kiếm chuyện chửi mắng chúng tôi. V́ không chịu nổi sự sai khiến để
làm những chuyện phi pháp, nên vào tháng 6 năm 1980, đội trưởng Công
đă họp đội tố cáo và lên án những hành vi xấu xa của cán bộ Phượng.
Cuộc họp đă kéo dài từ 7 giờ tối đến 2 giờ rưỡi sáng, biên bản được
viết trên 12 tờ giấy học tṛ. Trong đội có 9 anh em lên tiếng chỉ
trích cán bộ Phượng gắt gao, mà chúng tôi gọi là " nhóm 9 tên", gồm
đội trưởng Huỳnh Tấn Công, Bùi Văn Phi, Châu Tá Hải, Nguyễn Ngọc
Anh, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Văn Danh, Nguyễn Văn Ngân, anh Long (?)
và tôi. Trong biên bản, anh Phi là người có ư kiến táo bạo nhất: Yêu
cầu ban giám thị trại đưa cán bộ Phượng đi cải tạo. V́ thế trong giờ
lao động ngày hôm sau, cán bộ Phượng gọi anh Phi vào nhà lô một
ḿnh, dùng súng dí vào đầu anh và đánh anh tới ngất xỉu, đến trưa
chúng tôi phải cơng anh về trại. Bắt đầu từ trưa hôm ấy cả đội 10
chúng tôi tuyệt thực và không đi lao động để phản đối việc anh Phi
bị đánh và yêu cầu đổi "cán bộ quản giáo" mới. Đến hai ngày sau
chúng tôi mới chịu đi lao động trở lại khi cán bộ Phượng đă đổi đi
nơi khác. Khoảng 3 tuần lễ sau, cán bộ Quỳ, an ninh khu trại B, gọi
chúng tôi làm việc, mồi anh được gọi một ngày khác nhau, tôi là
người được gọi cuối cùng, hôm ấy tôi đă làm cán bộ Quỳ tức tối, v́
tôi đă phân tích cho hắn thấy về nền kinh tế của miền Nam Việt Nam
trước và sau ngày 30-4-75. Sau khi cán bộ Quỳ đă làm việc với 9
người chúng tôi, hắn thấy những sự việc chúng tôi chỉ trích cán bộ
Phượng là đúng sự thật, nên trại không có lư do ǵ để nhốt chúng
tôi, mà chỉ âm thầm cúp thăm nuôi mỗi người 2 lần. Đến tháng 7-1980,
tôi bị liệt vào danh sách A1 cùng với 127 anh em khác chuyển về lại
khu A (Z30C)
Cuối năm 1979, năm anh thuộc đội lâm sản khu B đă bị biệt giam về
tội liên hệ với tổ chức Phục Quốc bên ngoài, nhưng đó chẳng qua là
cái bẫy mà Cộng sản đă đặt ra để gài những người tù chúng tôi.
Thang10-1980, các anh này bị đưa ra toà xử tại huyện Hàm Tân, mỗi
anh lănh thêm từ 18 đến 20 năm khổ sai và bị đày đến trại trừng giới
A30 tại Phú Yên. Tháng 8-1980 anh H. đội rau xanh đă cướp súng của
"cán bộ bảo vệ" chạy vào khu rừng lá, một tuần lễ sau anh quay trở
lại khu vực mà đội anh đang làm và ba9'n xối xả vào hai công an bảo
vệ và chạy trở vào rừng. Tháng 10-1980, có 3 tù nhân trẻ lợi dụng
trong lúc hết giờ lao động buổi chiều, đă đánh công an bảo vệ, cướp
súng chạy vào rừng, sau khi bắn hết đạn chạy không thoát nên bị bắt
lại và bị cả trung đội Công an đánh găy xương sống, bể xương đầu,
găy xương bả vai, găy cả tay. Công an dùng dây cột tay ba anh và lôi
xồng xộc về trại, một anh đă chết c̣n hai anh kia có lẽ cũng khó
sống sót.
Trong thời gian từ năm 1979 đến cuối năm 1980 tại trại Z30C có rất
nhiều tù nhân đă trốn trại, phần đông đi được trót lọt, một số ít có
lẽ không biết t́m phương hướng hay mư sinh thoát hiểm, khi đói quá
ḅ ra các làng dân nên bị bắt lại. Như trường hợp anh Phạm Viết
Vinh, phó đốc sự hành chánh, người ốm yếu, thân cao lều khều, sau
khi anh ra khỏi khu vực trại không biết hướng đi, lẩn quẩn măi trong
rừng và bị công an bắn chết. Trường hợp hai anh Đại uư biệt kích Mai
Bá Trác và Trung Uư Trần Văn Thiện-hai anh ở hai khu khác nhau nhưng
hai anh đă liên lạc và cùng trốn trại một ngày, sau đó cả hai đă
vượt biên.
Toàn dân miền Nam sống trải qua dưới chế độ Cộng sản, dần dà nếm
được mùi vị sự lừa dối, láo khoét, tráo trở, tham lam, lưu manh, gạt
gẫm, cướp bóc, chiếm đoạt, độc ác, tàn bạo, chuyên chính.
Bên trong độc ác bạo tàn,
Bên ngoài lừa dối nhân dân cực h́nh!
Suốt 30 năm qua chúng ta thấy chế độ Cộng sản đă làm được những ǵ?
Chắc hẳn tất cả chúng ta đều đồng ư rằng: chúng ta chỉ có thấy:
"Không có ǵ!...KHÔNG CÓ G̀ QUƯ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO!!!, con đường BÁC
ĐI LÀ CON ĐƯỜNG BI ĐÁT!!!"
30 năm là một thời gian tạm đủ dài, nhưng chúng tôi không thể nào
quên được những chứng tích trong những trại lao động khổ sai của
Cộng sản. Chúng tôi xin đốt những nén hương mong được cắm trên những
nấm mộ của các chiến sĩ đă bỏ ḿnh trong các trại lao tù Cộng sản
trên khắp miền đất nước từ Cà Mau đến tận Nam Quan. Các anh đă chết
ngoài đồng ruộng, chết trên rừng xanh, chết bên bờ vực thẳm, chết
dưới ḍng sông, chết tận cùng ngơ hẻm, chết không miếng ăn, chết
không thuốc uống, chết v́ họng súng, chết v́ tra tấn, chết không
thấy người thân, chết không người vuốt mặt, chết không kẻ cầu kinh,
chết không nấm mồ, chết giữa những tiếng cười man rợ của loài quỷ đỏ
hút máu người!
Các anh đă nằm xuống ngàn thu trong những nấm mồ hoang lạnh trên
khắp miền của dăy đất h́nh cong chữ S. Các Anh đă chết nhưng hận thù
vẫn c̣n đó, vẫn c̣n hằn trên những vầng khăn tang của các người vợ
hiền và những đứa con thơ:
Xin trả cho tôi linh hồn người thiếu phụ
Tấm áo hàng tang chế nhuộm đơn cối
J.Nguyễn
Trích sách viết "Chuyện Người Tù Cải Tạo" trang 244-265 tập II/2007
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại