TRIỆU PHONG - CHỢ SĂI - SÔNG VĨNH ĐỊNH
Những người lính TQLC chúng tôi từ khắp miền đất nước, từ Cao Bằng,
Lạng Sơn tới Năm Căn, Cà Mau, từ Tây Nguyên Pleiku, Kontum đến miền
duyên hải Nha Trang, Đà Nẵng, những người dân Khmer Crôm vùng 4, tới
một chàng thanh niên trẻ yêu đời từ Paris. Chúng tôi được tập họp
tại Quảng Trị, để cùng với người dân vùng đất cày lên sỏi đá này,
đóng những vai thật trong một vở bi kịch thời chiến....
Tháng 3 năm 1973 đơn vị tôi rời cổ thành và tỉnh lỵ Quảng Trị, hoán
đổi vị trí đóng quân với tiểu đoàn 3 TQLC tại Triệu Phong, khu vực
Chợ Săi và sông Vĩnh Định.
Trên đường chuyển quân tôi gặp Bích, một người bạn cùng khóa thuộc
tiểu đoàn 3. Chúng tôi dừng lại đôi ba phút để hỏi thăm nhau, rồi
mạnh ai nấy tiếp tục đoạn đường.
Chợ Săi chiếm một khu vực thật đẹp mắt ở ngă ba sông Thạch Hăn, và
một nhánh nhỏ dẫn về sông Vĩnh Định, nằm ở phía Đông Bắc của Quảng
Trị và cổ thành Đinh Công Tráng, trên trục lộ đường thủy từ cửa Việt
đến Quảng Trị. V́ là một vị trí chiến lược quan trọng nên quân đội
của cả hai miền đều dồn sức vào đây. Bom, pháo liên tục, Chợ Săi chỉ
c̣n là một chiến địa hoang tàn.
Chúng tôi, những chiến binh miền Nam xa gia đ́nh đi chiến đấu, không
biết nhiều về những truyền tích xưa. Không hiểu là khu vực này được
xây dựng từ thời Chúa Săi, hoặc tự bao giờ?
Người dân Quảng Trị thường nhắc về Chợ Săi với món nem nướng thơm
ngon. Thế mà những người lính chúng tôi đóng quân ở nơi này lại
không có dịp thưởng thức được món đặc sản này, v́ Chợ Săi đă không
c̣n.
Ngay góc sông, tàn tích c̣n sót lại của một ngôi nhà to, xây bằng
gạch nung và đá vôi, mặt nhà nh́n về hướng cầu Thạch Hăn, lối bước
lên nhà là một bậc cấp 7 bước. Bên ngoài ở góc phía sau nhà là một
lối nhỏ dẫn vào chỗ kho chứa, chất đầy các dụng cụ linh tinh. Nơi
đây đă là chỗ trú ngụ trong suốt những ngày lửa đạn của ba cô cháu
gái, và cũng là chỗ tiếp tục kéo dài theo những mảnh đời của họ sau
này.
Băng qua nhánh sông, trên những khúc gỗ tạp chồng chất lên nhau để
nối liền hai bờ của chiếc cầu đă gẫy, con tỉnh lộ nối Triệu Phong
với tỉnh lỵ Quảng Trị không c̣n h́nh dạng, những đoạn đường nhựa bị
cắt quăng bởi hố bom và giao thông hào xen kẽ với nhau.
Tôi dừng lại đốt một điếu thuốc, kéo một hơi dài, nghe lồng ngực
căng ra với một cảm giác lâng lâng. Một người lính trẻ bước qua chỗ
tôi ngồi, lên tiếng chào:
- Thiếu úy ngồi nghỉ mệt hả?
Tôi cười và gật đầu trả lời, rồi hỏi:
- Em ở đâu?
Chỉ tay về phía khúc quanh của đoạn giao thông hào không xa phía
trước, anh nói:
- Dạ, trung đội em ở ngay trước mặt đó. Thiếu úy đi sau nghe Thiếu
úy...
Điếu thuốc c̣n dang dở trên tay, chưa kịp tiếp tục đoạn đường đến vị
trí đóng quân, tôi nghe tiếng nổ chát chúa của một quả lựu đạn M-67,
nhảy vội xuống giao thông hào, nh́n về hướng tiếng nổ phát ra, một
bóng người vừa ngă xuống.
- Chuyện ǵ vậy?
Tôi hỏi những người lính phía trước, một lúc sau có tiếng những
người lính nói chuyền xuống.
- Thằng... bị sút kíp lựu đạn khi nó nhảy xuống giao thông hào.
- Người tôi rởn da gà nhớ lại câu " Thiếu úy đi sau nghe Thiếu
úy...". Câu anh nói chưa tàn điếu thuốc, bây giờ anh đi rồi, chừng
nào tới phiên tôi đi... Tôi lặng người và không dám nghĩ tới.
Đại đội 3 đóng quân trải dài trên một đường tuyến ngoằn ngoèo khoảng
hơn nửa cây số, từ bên ngoài Chợ Săi kéo về phía quận đường Triệu
Phong, rồi lại uốn cong về hướng Vĩnh Định.
Thời gian này tôi c̣n đi bay, OJT (on job training) với huynh trưởng
Nguyễn Văn Huyền, trung đội 1 và huynh trưởng Nguyễn Lai, đại đội
phó, trước khi nhận trung đội 3.
Tôi được học về cách bố trí quân, điều động và kết hợp, chọn vị trí
chốt, các điểm chính yếu khi pḥng thủ, các hướng tấn công và các
đường xâm nhập của địch, trên thực tế, ngay tại chiến trường. Những
ngày đi bay, học nghề của những sĩ quan trung đội trưởng TQLC, đă
tiết kiệm được biết bao nhiêu xương máu của những người chiến sĩ mũ
xanh.
Ngay sau khi hiệp định Paris 27/01/73 được kư kết, thay v́ ḥa b́nh
chiến sự vẫn tiếp diễn ngày càng khốc liệt v́ cộng quân tiếp tục tấn
công để giành dân lấn đất sau ngày ngưng bắn. Thỉnh thoảng nghe được
tin tức vài bạn cùng khóa hoặc khác khóa từ trường Đồng Đế Nha Trang
đă hy sinh. Các bạn tôi ở cùng trung đội 1, đại đội 719, tiểu đoàn 1
khóa sinh, khóa 3/72 Nha Trang nhưng khi ra trường mỗi đứa một nơi
như Mă Quyền thuộc sư đoàn 23 bộ binh, Trần Như Phú thuộc Biệt Động
Quân cũng đă anh dũng đền nợ nước.
Hơn một tuần sau, đại đội 3 được giao cho công tác làm một hàng rào
chắn đạn trực xạ, dọc bờ sông Thạch Hăn trong khu vực Chợ Săi, và
tôi nhận nhiệm vụ thi hành công việc này.
Mỗi ngày chúng tôi bắt đầu làm việc từ 9 giờ đến 10 giờ rưỡi sáng
th́ nghỉ giải lao, sau đó tiếp tục làm đến 12 giờ trưa th́ về ăn
cơm. Buổi chiều làm từ 2 đến 5 giờ chiều.
Hàng ngày có khoảng từ 30 đến 40 người lính từ các trung đội được
giao cho tôi điều động để thi hành công tác. Nhờ công việc này nên
chỉ một thời gian ngắn, tôi đă có thể nhớ tên hầu hết các chiến binh
của toàn đại đội, biết tính t́nh và khả năng của họ, một điều rất
ích lợi cho tôi sau này.
Thường th́ vào giờ giải lao các chiến binh t́m chỗ mát nghỉ mệt, vài
anh vào các căn nhà sụp đổ, thơ thẩn t́m vài vật dụng cần thiết c̣n
có thể dùng được, số khác ngồi hút thuốc tán gẫu, hoặc tư lự nhớ
nhà.
Một hôm có một người lính trẻ, lôi ra một cuốn sách Cours de Langne
(Mauger Tome IV) ngồi đọc lẩm nhẩm, mỉm cười trầm tư.
Bước từ trên những bậc thềm của ngôi nhà xuống, nh́n thấy anh ta
đang ngồi đọc sách, tôi hỏi:
- Mày lấy cuốn sách tiếng Tây làm chi, mày đọc được không?
- Dạ được, Thiếu úy.
- Đọc thử một đoạn coi.
Anh cất giọng đọc một cách thoải mái tự tin, làm cho tôi sửng sốt.
Tôi đă được học một số bài trong sách này năm đệ Nhất, và tôi cũng
đă được học 3 khóa Pháp văn tại Centre Culturel Francaise vào năm 67
và 68, mà tôi c̣n phải giật ḿnh.
- Mày học tiếng Pháp ở đâu vậy?
- Em học ở Paris.
- Mẹ, mày giỡn hả?
- Nó ở bên Tây về đó Thiếu úy, người lính ngồi cạnh anh lên tiếng.
Tôi ngạc nhiên nh́n kỹ lại anh lính trẻ. Anh vào khoảng 18, 19 tuổi,
sống mũi cao, tóc vàng, mắt xanh lơ, mà ngạc nhiên không ít.
- Có thiệt mày ở bên Tây về không?
- Dạ phải, Thiếu úy.
Anh nói tiếng Việt lơ lớ. Tôi cũng muốn biết thêm, nhưng không có
nhiều th́ giờ để t́m hiểu về cuộc đời anh nên chờ khi khác có dịp
thuận tiện hơn.
Hơn một tháng sau, hàng rào được hoàn tất.
Một hôm huynh trưởng Tăng Bá Phụng mời các sĩ quan đại đội lên họp.
Anh là một đại đội trưởng giỏi, có đạo đức và tư cách. Tôi đă học
được từ anh rất nhiều về cung cách điều động và ứng xử với thuộc
cấp.
- Ông Minh, lệnh từ sư đoàn là phải tổ chức một lớp học Việt ngữ cho
những người lính mù chữ. Thượng sĩ Nam, thường vụ đại đội, sẽ phụ
trách lớp học nhưng cần sự cố vấn, giúp đỡ của một sĩ quan, tôi giao
cho anh chuyện này.
Sau đó anh em chúng tôi ngồi tâm sự, nói chuyện đời. Anh đưa cho tôi
mượn vài quyển tiểu thuyết, truyện dịch của Quỳnh Dao và Erich Maria
Remarque. Huynh trưởng Nguyễn Lai vừa cười vừa nói:
- Ê Minh, lính tác chiến không biết ngày về, cầm đọc cho đỡ quên
chữ.
Anh Lai là sĩ quan thâm niên và lớn tuổi nhất đại đội. Anh nhập ngũ
khóa hạ sĩ quan, sau đó được đi học sĩ quan đặc biệt khóa 1/70 và
cũng là sĩ quan độc nhất có gia đ́nh. Các anh em c̣n lại chúng tôi,
đại đội trưởng và các trung đội trưởng vẫn c̣n độc thân tại chỗ.
Lớp học Việt ngữ có khoảng 10 học sinh, ai cũng nói giỏi tiếng Việt
nhưng không biết viết. Chỉ trừ Binh II Nguyễn Văn Quang từ Paris về,
nói không rành và viết chữ cũng không có dấu.
Bắt đầu th́ học cho thuộc các mẫu tự, rồi tập ráp vần, ráp chữ, sau
đó th́ tập đọc và viết.
Một hôm có một anh lính tinh nghịch chỉ cho Quang đánh vần thơ lục
bát. Quang học nhanh v́ em có tŕnh độ.
Hai câu thơ lục bát như sau:
“M K M H U Ơ
M K M H M R Q N.”
Nh́n gương mặt hồn nhiên của một chàng trai mới lớn, hiếu học, ham
t́m hiểu tiếng mẹ đẻ mà thấy dễ thông cảm với em hơn.
Quang háo hức cất tiếng đọc chậm răi:
"Em ca em hát u ơ
Em ca em hát em rờ... cu anh."
Cả lớp học rộ lên cười, trong khi Quang trố mắt ngạc nhiên và mỉm
cười cất tiếng hỏi:
- Bộ vui lắm hả?
H́nh như em chưa hiểu hết ư nghĩa của câu thơ.
Giữa tháng Tư, tôi nhận trung đội 3 khi Bửu về tập dượt diễn hành
cho ngày Quân Lực 19/6. Tôi có một cuốn sổ bỏ túi để ghi tên tuổi,
cá tính, tŕnh độ học vấn của tất cả các chiến binh trung đội 3.
Những chi tiết cần thiết này giúp tôi biết rơ các chiến binh thuộc
quyền để dễ dàng điều động cho thích hợp với nhiệm vụ.
Trang viết về Binh II Nguyễn Văn Quang như sau:
Tên: NGUYỄN VĂN QUANG. Cấp bực: Binh II.
Ngày và nơi sinh: 1955 - Cần Thơ.
Tŕnh độ học vấn: Tú tài (Vỡ ḷng).
Hoàn cảnh gia đ́nh: Độc thân.
Sở thích: Đọc sách tiếng Pháp.
Vũ khí sử dụng: M-16.
Cá tính: Hay ngủ gật khi gác.
Quyển sổ tay nhỏ này giúp cho tôi rất nhiều trong thời gian ở đại
đội 3 và những ngày trong quân đội. Anh Lê Văn Xê, trung đội phó,
hỏi tôi:
- Sao ông viết Tú tài rồi c̣n vỡ ḷng nữa?
- Nó Tú tài Tây nhưng vỡ ḷng Việt ngữ.
Anh Xê cũng chiếm một trang trong sổ tay của tôi và chính anh cũng
có một sổ tay riêng của trung đội phó ghi chép về trang bị và vũ khí
của từng người trong trung đội.
Thời gian đi công tác làm hàng rào chống đạn trực xạ, tôi có nh́n
thấy một chiếc xương sọ người trong một ngôi nhà đổ nát. Một hôm
nh́n vào tôi thấy chiếc xương sọ biến mất. Ngạc nhiên tôi hỏi những
người lính:
- Ai lấy chiếc xương sọ ở đây?
Một anh ở trung đội 4 trả lời.
- Anh Tiền đó Thiếu úy.
Trung sĩ Tiền, trung đội phó trung đội 4 đă lấy chiếc xương sọ về.
Thảo nào tôi có nghe các người lính kể chuyện anh Tiền gửi hậu trạm,
mua nhang đèn, trái cây, giấy tờ vàng bạc, và đêm nào cũng thắp
nhang đèn vái lạy tứ phía.
Khoảng hơn một tuần sau, tôi lại thấy chiếc xương sọ trở về chỗ cũ
trong ngôi nhà. Lại nghe các người lính kháo nhau về chuyện này.
Tôi ghé hỏi thăm Dũng và Chắn, hai người lính ở ban chỉ huy trung
đội 4, Dũng trả lời:
- Ông không biết hả Thiếu úy, tối nào nó cũng về bóp cổ ổng, thở
không nổi nên ổng phải đem trả lại đó.
Một buổi trưa tôi đang ngồi đọc sách dưới bóng râm của những tấm tôn
vá víu dùng làm chỗ ngồi ăn của trung đội 3 th́ thấy một số người
lính đi nhận tiếp tế hàng tuần từ cánh B trở về đi ngang qua, trong
số có Trung sĩ Thật, trung đội phó trung đội 2, mang theo một ôm
thư, theo sau anh là Binh I Triết, hiệu thính viên của trung đội 2,
cũng khệ nệ ôm một đống thư.
Tôi lên tiếng hỏi:
- Thư của ai nhiều vậy anh Thật?
Chỉ vào thằng Triết, anh nói:
- Của thằng này đây nè, nó bốn phé bắn (t́m bạn bốn phương) trong
chương tŕnh Bạch Tuyết trên đài phát thanh Quân đội nên thư gửi tới
cả đống.
Sau ngày TQLC tái chiếm cổ thành Quảng Trị, trên các đài phát thanh
hàng ngày thường phát đi bài hát “Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị”.
Những người dân miền Nam lúc đó rất thương mến những chiến sĩ cọp
biển, nhất là các cô em gái hậu phương, h́nh ảnh người anh cọp biển
tiền tuyến là thần tượng khi nghe đọc trên đài phát thanh trong mục
t́m bạn bốn phương. Tôi c̣n nhớ lời t́m bạn bốn phương của Nguyễn
Văn Tân.
“Hơn 20 tuổi đời, tṛn 2 tuổi lính, ôm giấc mộng làm trai thời chinh
chiến, thèm ánh đèn đô thị với những buổi hẹn ḥ, thương chiếc áo
dài trắng trên sân trường ngập nắng, mà chưa một lần được ngỏ cùng
ai. Này cô em gái hậu phương, nếu có cảm thông niềm tâm sự, xin cho
cánh nhạn bay về:
Nguyễn văn Tân
Đại đội 3, Tiểu đoàn 7 TQLC
KBC 3359
Hứa hồi âm dù thư đến chậm."
Chắc các người trong chương tŕnh t́m bạn bốn phương đă sửa đổi ít
nhiều khiến cho lời rao t́m bạn của Nguyễn Văn Tân trở nên văn hoa
quá!
Tân và Triết là hai trong hàng trăm cọp biển độc thân của đại đội 3,
yêu đời lính, thích nhạc họ Trịnh (chú thích: Trịnh Lâm Ngân). Đoạn
này làm tôi nhớ đến thằng Mẫn, trung đội trưởng trung đội 4, mỗi lần
nghe đến câu thích nhạc họ TRỊNH là nó phá lên cười sằng sặc. Mẫn đă
hy sinh vào cuối năm 74 khi đơn vị đóng quân tại căn cứ Ḥa Mỹ, lúc
tiểu đoàn 7 tăng phái cho lữ đoàn 1 thiết kỵ trong khu dinh điền
Đông Lâm.
Các bản nhạc rất phổ thông trong đời lính xa nhà lúc bấy giờ là
"Xuân Này Con Không Về", "Giă Từ Vũ Khí", "Sương Trắng Miền Quê
Ngoại"...
Khoảng mười ngày sau khi nhận thư, tôi đang ngồi đọc sách th́ Triết
đến t́m tôi với vài lá thư trên tay.
- Thiếu úy à, ông đọc giùm tôi bức thư này được không?
Tôi gật đầu nhận bức thư và mở ra xem. Đó là một lá thư từ Saigon
gửi ra cho anh, nét chữ tṛn trịa, mềm mại của một cô gái. Nếu cứ
nh́n nét chữ mà đoán người th́ cô gái này chắc trông cũng "ph́
nhiêu" và có da có mỡ lắm!
Mở đầu thư cô nhắc về những tư tưởng của Hégel, Des Cartes,
Pythagore... Cô diễn tả về con đường Cường Đễ với những hàng Me và
những hàng cây Sao kéo dài tới bến Bạch Đằng...
Lá thư thứ nh́ nét chữ sắc sảo, thanh tú, cao và gầy như những búp
măng. Nh́n chữ tôi liên tưởng tới h́nh cô gái làm kiểu mẫu cho hăng
tăm tre hiệu "Hạnh Phúc".
Thư viết:
"Ông Triết,
Tôi viết lá thư này cho ông khi ngồi ở sân trường, dưới bóng mát của
những hàng me. Mùa này chưa có tiếng ve sầu v́ trời chưa vào hạ.
Trước khi đến trường, tôi ghé qua chiếc xe bán dừa tươi ở Công
Trường Chiến Sĩ để mua một ly nước dừa xiêm ướp đá mát lạnh.
Nghĩ đến ông và những người bạn cùng đơn vị, nơi Cổ Thành Quảng Trị
xa vời mà thầm cám ơn người lính Cộng Ḥa..."
Lời thư ngọt lịm của những cô em gái, từ thủ đô Saigon xa xôi gửi
tới người anh chưa từng biết mặt nơi tuyến đầu nắng cháy.
Tôi quay qua Triết hỏi đùa:
- Ê Triết, mày thích ngủ giường nệm mousse (mút) hay thích ngủ sạp
tre?
- Con gái Saigon viết cái ǵ khó hiểu vậy ông?
Triết hỏi lại tôi mà không trả lời.
Nh́n vào b́ thư tôi thấy tên người nhận là:
"Cao Hiền Triết
Đại đội 3 - Tiểu đoàn 7 TQLC“
Tôi chợt hiểu và không ngờ người lính TQLC này có cái tên nghe quá
hay và học thức như thế!
- Triết à, mày quê ở đâu?
- Năm Căn - Cà Mau, Thiếu úy ơi!
- Mày đi học ở đâu? Hết trung học chưa?
- Tui đi học trường ở dưới quận, chưa hết lớp Nhứt ông ơi!
Tôi nh́n vào mặt Binh I Triết, vẻ ngây thơ và nụ cười rụt rè của một
người con trai vùng quê mới lớn, khoảng 20 tuổi đời. Ḷng phân vân
tôi nói với Triết:
- Tao có thể viết thư trả lời giùm cho mày, nhưng chỉ một hai lần
thôi, sau đó mày có viết tiếp được không th́ tùy mày. Nhưng tao đề
nghị mày nên chọn một lá thư nào mà mày đọc và hiểu rơ ràng th́ mới
trả lời, thư nào thiệt dễ hiểu th́ tốt nhất.
Cái tên Cao Hiền Triết làm cho các cô gái nghĩ ngay tới một người
mẫu người nghiêm trang, học thức, lư tưởng cho các cô gái có học.
Nhưng Triết thực tế ngoài đời không phải là đối tượng như vậy cho
các cô sinh viên Văn Khoa và Luật Khoa đầy mơ mộng ở các giảng đường
đại học Saigon.
Triết là một người trai trẻ học ít nhưng yêu quê hương, yêu đời,
sinh ở miền tận cùng đất nước, vào lính theo tiếng gọi non sông và
đóng quân ở tuyến đầu cực Bắc... Vài tuần lễ sau thư tới tay Triết
thưa dần, gặp Triết tôi hỏi:
- Mày chọn được cô nào chưa Triết?
- Thôi ông thầy ơi, thư ǵ mà khó hiểu quá, mà tui cũng hổng đủ tiền
mua tem nên không dám trả lời. Thằng Tân nó nhận thư nào cũng dễ đọc
và dễ hiểu.
Cái tên thật b́nh thường và giản dị Nguyễn Văn Tân, đúng là cái tên
dành cho các cô gái quê chất phác miền Nam và vùng 4 một niềm tin
thành thật.
Một buổi sáng đang ngồi chơi với thằng Mẫn tôi thấy vài người lính
rủ nhau đi bắt tôm, họ mang theo một nắm cơm, cột một ḥn đá vào một
bên của cái nón sắt, rồi thả xuống giếng nước. Mỗi lần kéo lên là
lại được vài con tôm đỏ tươi, kéo cả tiếng đồng hồ th́ cũng đủ để
nấu một tô canh tập tàng (đủ các loại rau dại). Chuyện này làm tôi
nhớ lại một kỷ niệm vui tôi được nghe trong lúc đơn vị c̣n trên
đường tiến chiếm Cổ Thành. Khi những người lính đại đội chỉ huy đi
hái rau lẫn lộn trong cỏ dại để nấu canh, mong có chút rau tươi thay
v́ chỉ ăn Ration C, nóng và bón. Người sĩ quan cố vấn Mỹ nh́n thấy
và nói bập bẹ tiếng Việt: “Lính TQLC Việt Nam ăn cỏ”, nghe câu này
tôi thấy thêm thương đời lính tác chiến xa nhà. Lúc đóng quân ở vị
trí mới th́ đi t́m nước uống, những người lính t́m thấy giếng th́
múc nước uống, thấy có tôm trong giếng th́ múc nước bắt tôm. Ngày
hôm sau không có ai đi bắt tôm nữa, ṭ ṃ tôi hỏi thằng Chắn:
- Bộ hết tôm rồi hả Chắn?
- Không, tôm c̣n nhiều lắm, nhưng mà khi nước xuống thấp th́ thấy
nguyên một bộ xương người ngồi dưới đáy giếng. Không đứa nào dám bắt
tôm nữa ông ơi!
Thế rồi họ quay sang đi bẻ măng. Những người lính đôi mươi, tuổi mới
lớn đang khỏe ăn, lúc nào cũng mong có thêm một ít thức ăn tươi cho
bữa cơm đạm bạc của họ. Măi cho đến một hôm, một người lính trung
đội 1 của huynh trưởng Nguyễn Văn Huyền đi bẻ măng bị thất lạc, hỏi
thăm th́ thằng Xương ở trung đội 1 cho biết:
- Thằng Hội đi hái măng từ 11 giờ sáng cho tới bữa cơm trưa cũng
chưa về. Cả trung đội thay phiên đi t́m nó chung quanh mấy bụi tre
trong khu đại đội đóng quân mà không thấy. Măi đến 2 giờ chiều mới
có người trông thấy anh ta ngồi kẹt trong một bụi tre gai, miệng la
bài hăi kêu cứu. Mấy anh lính TQLC phải dùng dao đi rừng, phát cây,
chặt tre để mở đường cho anh ta thoát ra. Ra đến bên ngoài th́ thằng
Hội xây xát cả ḿnh mẩy.
Một người lính của trung đội 1 hỏi thằng Hội:
- Mày làm ǵ mà chui vô trong đó ngồi?
- Tao thấy măng trong bụi này, chui vô rồi bị kẹt cứng, loay hoay
hoài không thấy đường ra nên kêu la cầu cứu. Thật không hiểu nổi tại
sao!
Trên đường từ cánh B đi xuống cánh A phải băng qua một khu đồng
trống, nơi tiểu đoàn 1 Quái Điểu đă nhảy trực thăng vào Triệu Phong
tháng 7 năm 1972. Chỗ chiếc trực thăng bị bắn nổ tung là một cái
miếu với mấy chục cái nón sắt bị cháy sém, loang lổ...
Mỗi khi đi ngang qua đây, chúng tôi ghé vào đốt nhang khấn vái các
chiến hữu đă hy sinh. C̣n nếu đi một ḿnh th́ cắm đầu cắm cổ chạy
cho lẹ qua khỏi chỗ này. Có lần trên đường về, nh́n thấy một anh
lính ngồi bên vệ đường, tôi hỏi:
- Em làm ǵ ngồi đây, ở đại đội nào?
- Em ở đại đội 1. Em không dám đi một ḿnh, chờ có ai đi chung cho
đỡ sợ.
Nhớ lại câu chuyện mà một anh lính đại đội 3 kể lại. Một hôm trên
đường đi về, gần đến cái miếu th́ anh thấy có một người lính theo
sau. Khi vừa qua khỏi cái miếu th́ anh nghe có tiếng cười sau lưng,
quay lại th́ không thấy anh lính đi sau đâu nữa. Thế là anh vắt gị
lên cổ chạy bạt mạng. Từ đó về sau, không bao giờ anh dám đi qua nơi
này mà không có 2 hay 3 người đi cùng.
Quay qua nh́n anh lính, tôi hơi cảm thấy lo v́ không biết có phải
các anh khuất mặt trêu đùa hay không? Nh́n bảng tên anh trên ngực,
màu cam của tiểu đoàn 7, thế là có bạn đồng hành.
Trên đường đi anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện. Có lần đi qua ngôi
miếu anh nghe có tiếng cười bên trong, có khi nghe cả tiếng người
nói chuyện và căi vă nhau nữa...
Tháng 5/1972 đại đội 1 và 3 chuyển về cánh A trên hướng sông Vĩnh
Định và Hương lộ 555. Thời gian này trung đội 3 được tăng phái giữ
an ninh ṿng đai cho tiểu đoàn.
Tôi đến gặp huynh trưởng Ngô Kim Anh để nhận tuyến. Anh vừa được
thuyên chuyển từ TĐ5 qua TĐ7 TQLC trước đó một tháng. Trong dịp tăng
phái cho đại đội chỉ huy, tôi đă có dịp gặp anh và quen biết với hầu
hết các sĩ quan trong ban ngành và đại đội chỉ huy. Hai tuần sau hết
nhiệm vụ, trung đội 3 lại trở về đại đội bên bờ sông Vĩnh Định.
Mỗi đêm tôi thường đi kiểm soát tuyến đóng quân và các vọng gác của
trung đội 3 một lần khoảng giữa khuya và một lần khoảng gần sáng.
Trung đội có vài con chó được giao cho vài anh lính nuôi để gác đêm.
Có lần tôi thấy con chó của Hạ sĩ I Phấn, tiểu đội 3 được cột ngay
trước cửa hầm của anh. Tôi hỏi anh lính gác gần đó:
- Tại sao không để chó nằm ngoài vọng gác?
Anh trả lời:
- Tối nào anh Phấn cũng thấy hai người đàn bà, một người đang mang
thai dẫn theo một đứa bé vào thăm anh, làm cho anh sợ hăi không ngủ
được, mặt mày xanh lè xanh lét. Nếu cột con chó trước cửa, nó sủa,
họ sợ không dám vào th́ anh mới chợp mắt được; c̣n không th́ anh
phải thức làm việc cả đêm.
Cũng tại tuyến đóng quân này, Binh I Lên - Hiệu thính viên, đă từng
gặp ma một đêm khuya, làm cho tôi phải dời chỗ ở qua nhà khác.
Thời gian đóng quân ở sông Vĩnh Định là thời gian tương đối nhàn
nhă, rảnh rỗi. Ngoài các công việc thường xuyên hàng ngày, thời giờ
c̣n lại tôi và anh Huyền thường đàn hát, đôi khi các trung đội
trưởng ngồi chơi đố chữ. Cũng trong thời gian này, tôi có dịp ghé
thăm các đại đội khác và quen biết các sĩ quan đại đội 1, 2 và 4.
Cứ mỗi lần tiếp tế tôi lại ghé huynh trưởng Tăng Bá Phụng để mượn
một vài quyển sách anh đă đọc xong.
Thời gian này tôi bắt đầu t́m hiểu thêm về cuộc đời của Binh II
Nguyễn Văn Quang.
Một hôm tôi gọi Quang đến để hỏi thăm về hoàn cảnh của em.
- Lúc trước mày ở đâu bên Pháp?
- Em ở phía Nam của thủ đô Paris.
- Tại sao mày lại về Việt Nam đi lính?
- Hè năm 72 sau khi tốt nghiệp Trung học, ba má cho em về Việt Nam
thăm bà ngoại.
- Bà ngoại mày ở đâu?
- Dạ, ở Cần Thơ.
- Rồi tại sao hết hè mày không về Pháp mà lại ở đây?
- Em không biết, không nghe ba má nói ǵ hết.
- Mày làm ǵ ở nhà bà ngoại?
- Không có làm ǵ, chỉ đi chơi, đói th́ về nhà ăn, rồi ngủ.
- Tại sao mày lại đi lính TQLC?
- Một hôm em đi theo tụi bạn cùng xóm lên chợ, tụi nó t́nh nguyện
đăng lính. Một anh lính trong ban tuyển mộ hỏi em, "Ê, c̣n mày đi
không? Tao có giấy tờ cho mày nè!". Rồi anh làm hết thủ tục giấy tờ
cho em.
Sau vài ngày chờ đợi ở trung tâm 4 tuyển mộ và nhập ngũ, Quang và
các bạn được đưa về trung tâm huấn luyện TQLC ở rừng Cấm. Thế rồi
tiếp theo 9 tuần căn bản quân sự, một khóa học đổ bộ và leo lưới, em
đă trở thành một chiến binh TQLC tên Nguyễn Văn Quang. (Tôi không
c̣n nhớ tên Pháp của em).
Quang sống vô tư, không biết lo lắng, chưa ư thức được hiểm nguy,
nên khi gác em thường ngủ gật, hoặc mang theo ghế ngồi gác, dựa vào
tương vôi, hút thuốc tỉnh bơ. Tôi phạt Quang và giải thích cho em
rất nhiều lần về nhiệm vụ gác giặc, ngày và đêm phải luôn luôn thức
tỉnh, kín đáo phát giác kịp thời các hoạt động của địch để bảo vệ
sinh mạng của ḿnh và đồng đội.
Một hôm tôi hỏi Quang:
- Mày có thường coi cinéma không?
- Dạ có.
- Có biết tài tử Alain Delon không?
- Dạ, ở Pháp Alain Delon nổi tiếng như Hùng Cường ở đây vậy.
Quang là một người con lai, cha Pháp mẹ Việt. Tôi cố gắng t́m hiểu
kỹ càng th́ được biết về cuộc đời em như sau:
"Cha em là một người lính viễn chinh Pháp tại Việt Nam, yêu thương
mẹ em là một cô gái Việt nhưng bên nội ở Pháp không đồng ư. Hai
người muốn đặt bên nội trước t́nh thế đă rồi nên xin một đứa con
nuôi lai Pháp của một người bạn gái mẹ em đem về Pháp vào khoảng
1956 khi lực lượng viễn chinh Pháp cuối cùng rút về nước. Đứa bé
nuôi đó chính là em bây giờ".
- Ở Paris mày có chú thím, cô bác ǵ không?
- Chỉ có Grand père et Grande mère.
- Ông bà nội có thương mày không?
- Thương lắm nhưng bây giờ chết rồi.
- Mày có em không?
- Dạ có hai em gái. Hồi chưa có thêm em gái th́ ba má thương, sau đó
rồi th́ ba má không thương nữa.
- Có viết thư cho ba má mày không?
- Không.
- Cậu mợ d́ dượng mày ở đây có liên lạc với má mày ở bên Pháp không?
- Có, nhưng không thấy nói ǵ hết. Có lần họ nói em là con hoang,
muốn đi đâu th́ đi.
Tôi giật ḿnh v́ câu nói của em, không thể tin được ở tai ḿnh. Thật
tội cho em, nếu em ở lại Việt Nam th́ đáng thương cho một kiếp
người.
Khi tiểu đoàn ra dưỡng quân tại làng TQLC trước khi về Saigon, tôi
gọi em đến và bảo:
- Để dành tiền lương tháng này và tháng tới, chỉ xài chút đỉnh khi
nào cần thiết mà thôi.
Lấy một tờ giấy, tôi vẽ cho em một bản đồ nhỏ và ghi rơ chú thích:
Từ bến xe Phú Lâm gọi taxi hoặc xích lô đi đến ngă tư Hồng Thập Tự
và Hai Bà Trưng, vừa qua khỏi ngă tư bên tay phải là ṭa Tổng Lănh
Sự Pháp.
- Về nhà bà ngoại ở Cần Thơ, ráng t́m cho được các giấy tờ hồi mày ở
Pháp, đi xe đ̣ lên Phú Lâm, tới chỗ này, tôi chỉ tay vào bản đồ. Dù
có giấy tờ hay không cũng không cần thiết, vào nói với họ mày xin về
Pháp. Tên ba mày, địa chỉ ở Pháp, giọng nói và h́nh dáng mày th́
người ta sẽ cho mày về. Ở đây không phải là chỗ thích hợp cho mày
đâu.
Cuối tháng 7 năm 73 tiểu đoàn về hậu cứ. Đầu tháng 9 năm 73 tiểu
đoàn trở ra hành quân, và trong đoàn chiến binh TQLC trở lại Quảng
Trị lần này vắng mặt Binh II Nguyễn Văn Quang.
"Chúc em được nhiều may mắn nơi quê cha ở trời Tây!".
Suốt thời gian đóng quân ở Chợ Săi, mỗi chiều sau khi công tác xong,
chúng tôi thường xuống sông Thạch Hăn tắm và bơi. Một hôm trên đường
về, đi ngang qua một ngôi nhà, tôi gặp ba cô cháu đang ngồi ăn cơm
chiều nơi góc một căn nhà đổ nát.
Bước về phía họ tôi mở miệng:
- Mạ với mệ ăn ǵ đó, cho con ăn với?
- Ăn cơm eeng ơi!
Tôi ngồi xuống đất th́ bà cô trẻ nhất bới cho tôi một bát cơm. Nh́n
vào cái mâm đồng hoen rỉ trước mặt ba cô cháu th́ chỉ thấy một chén
muối ớt.
- Cám ơn mạ!
Đón lấy đôi đũa và bát cơm, tôi gắp một lát sắn bỏ vào miệng nhai,
cảm thấy bùi bùi. Gắp lát thứ nh́ và nhai kỹ hơn, tôi cảm thấy vị
đăng đắng và mùi ẩm mốc xông lên. Nh́n kỹ vào bát cơm độn tím ngắt,
tôi có thể nh́n thấy rơ những vết mốc trên những lát sắn phơi không
đủ khô, hoặc c̣n ẩm ướt khi dự trữ.
Bước đến chỗ một người lính đóng quân gần đó, tôi xin anh một bao
gạo sấy và đi về phía căn nhà đổ nát bên cạnh, trút bát cơm độn vào
một hố trống cạnh nhà, dùng chân đùa vội những mảnh gạch vụn quanh
đó để khỏa lấp bát cơm mốc. Tôi quay trở lại để trả bát đũa cho bà
cô trẻ và tặng bà một bao gạo sấy.
Ḷng xót xa nghĩ về ba cô cháu đă phải chịu đựng đạn bom trong suốt
cuộc chiến tranh ập xuống Quảng Trị trong những năm vừa qua. Bây giờ
không c̣n người thân, không c̣n nhà cửa, đất đai và phương tiện sinh
sống. Ba cô cháu sẽ phải nương tựa vào nhau cho đến hết cuộc đời.
Một hôm trên đường xuống sông tắm, tôi thấy bà cô trẻ ngồi khóc thút
thít bên ngoài căn hầm.
Bước đến cạnh bà tôi mở miệng hỏi thăm:
- Làm ǵ mà khóc đó mạ?
Tiếng bà cô già bên trong vọng ra:
- Cái ngữ biếng nhác đó th́ làm ăn ǵ eeng ơi!
À, th́ ra cô bị O mắng.
Tháng 6 năm 72, đại đội 3 đóng quân ở sông Vĩnh Định, tôi có ghé lại
khu Chợ Săi nhưng chỉ c̣n gặp một bà cô trẻ và bà cô già. Hỏi thăm
những người lính đóng quân gần đó th́ được biết bà cô trẻ ít nói đă
qua đời. Những người lính đă tiếp tay vùi nông thân xác bà ở một
mảnh đất trống cạnh đó.
Nh́n gương mặt hốc hác của hai cô cháu c̣n sót lại với vẻ âm thâm
chịu đựng, tôi không biết dùng chữ ǵ để diễn tả gương mặt hai bà
lúc đó. Một nỗi ray rức dấy lên trong hồn tôi, "Ngày nào th́ sẽ đến
phiên hai người này, ai sẽ là kẻ đi trước....?"
Một ư nghĩ mâu thuẫn chợt đến trong đầu tôi, vừa mong cho họ sống
lâu, vừa mong cho họ thoát nhanh ra khỏi cuộc đời đầy cay đắng này.
H́nh như không phải họ đang sống mà chỉ đang kéo dài cái chết...
Để chuẩn bị cho ngày Quân Lực, đại đội 3 được nhận một số lá cờ mới,
chia đều cho các trung đội để cắm xung quanh vị trí đóng quân và gắn
lên hàng rào ngăn cách giữa hai bên Nam Bắc.
Một người lính trong lúc bước tới hàng rào, xuyên qua một băi cát đă
đạp lộ ra một quả lựu đạn M-67 được gài từ trước, chốt lựu đạn đă
được rút, c̣n th́a th́ được dằn bên dưới một ḥn đất khô. Vừa nh́n
thấy, tôi bảo anh đứng yên tại chỗ và gọi các người lính khác trở
lại giao thông hào. Tôi ra hiệu cho anh rút bàn chân không giẫm lên
quả lựu đạn đưa về phía sau, kiếm một điểm tựa chắc chắn và từ từ
rút bàn chân đang đạp trên quả lựu đạn lên. Nếu th́a quả lựu đạn bật
th́ a lê hấp nhảy xuống giao thông hào... Khi anh rút chân ra khỏi
th́ quả lựu đạn vẫn c̣n nằm yên tại chỗ... Hú vía!!!
Tôi chỉ thị cho các người lính cắm những lá cờ c̣n lại chung quanh
vị trí đóng quân, không mạo hiểm nữa, và đóng một hàng cọc làm mốc
đánh dấu cho các người lính khác khỏi đạp nhầm.
Một anh lính xin tôi cho gỡ quả lựu đạn.
- Thiếu úy, em biết cách gỡ trái lựu đạn đó.
- Tao cấm mày bước tới đó, nếu tao biết được th́ mày coi chừng tao.
Tôi không muốn cho anh phiêu lưu, đem mạng sống của ḿnh ra đùa giỡn
với tử thần.
Mùa hè đến với những cơn gió Nam Lào khô khốc. Sông Thạch Hăn nước
xuống thấp, có những đoạn ta có thể lội bộ từ bờ bên này sang bên
kia mà không cần phải biết bơi. Giữa sông có những cồn cát mà chúng
tôi có thể ra ngồi chơi. Trời nóng bức đến nỗi chúng tôi phải xuống
sông tắm 2, 3 lần một ngày.
Những người lính TQLC suốt ngày trần trùng trục với mỗi một chiếc
quần lính cắt ngắn, ai nấy đều mồ hôi vă ra như tắm. Mặc quân phục
vào chừng mươi, mười lăm phút là ướt đẫm mồ hôi.
Các sĩ quan chúng tôi ai cũng mong đến ngày tiếp tế để ghé huynh
trưởng Tăng Bá Phụng, uống ké cà phê đá do hậu trạm mang ra.
Trung đội 4 có cây đàn guitar, nên những buổi trưa nóng bức không
nghỉ được, anh Huyền, Mẫn và tôi thường tụ họp lại để ca hát khuây
khỏa. Ngoài ra trung đội 1 lại có thêm cây lục huyền cầm, thế là khi
th́ cải lương, khi th́ tân nhạc, khi th́ tân cổ giao duyên cũng
nguôi bớt đi nỗi sầu chinh chiến.
Ca măi đâm chán, vài anh lính tinh nghịch thường đến bên hàng rào,
nói chuyện và cḥng ghẹo các anh lính miền Bắc.
- Anh bộ đội Bắc Việt ơi!
Không ai trả lời.
- Anh Việt Cộng ơi!
Cũng không ai trả lời.
- Anh Giải Phóng ơi!
Th́ có tiếng đáp ngay.
- Ǵ thế các anh?
Những anh bộ đội miền Bắc nói chuyện rập khuôn, h́nh như họ phải học
thuộc ḷng một số câu căn bản để nói chuyện mà thôi. Nếu nói hết
những câu này rồi th́ họ thường cáo lui xin hẹn ngày mai, rồi ngày
mai cũng lại toàn bổn cũ soạn lại.
Những người lính miền Nam thường hỏi:
- Anh ở đâu ngoài Bắc thế, Hà Nội à?
- Không, tôi ở Quảng Trị.
- C̣n anh này cũng ở Quảng Trị.
- Vâng, tôi cũng ở Quảng Trị.
Thế là các người lính miền Nam bắt đầu chọc ghẹo.
- Anh là người Quảng Trị mà sao nói giọng như "Bắc kỳ ăn cá rô cây"
vậy?
- Các anh hay trêu đùa quá!
- Thiệt mà, giọng anh đâu có giống mắm ruốc đâu, giọng anh là giọng
rặt thuốc lào.
- Thôi, chúng tôi không nói chuyện nữa.
Những người lính miền Nam đề nghị ca hát th́ hầu như các anh miền
Bắc chỉ thuộc mỗi một bài “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” mà
thôi.
Nếu không muốn ca hát chung nữa, những người lính TQLC chỉ cần ca
bài “Cờ bay trên Cổ Thành Quảng Trị” là các anh lính miền Bắc rút
lui ngay.
Một hôm, một anh lính TQLC hỏi một anh lính miền Bắc:
- Tôi thấy cái hàng chữ trên cổng của các anh là "Không Có Ǵ Quư
Hơn Độc Lập, Tự Do".
- Đó là lời chủ tịch Hồ Chí Minh đấy!
Thế là anh lính TQLC đề nghị cắc cớ.
- Nè anh giải phóng, tôi đề nghị một tṛ chơi mới.
- Tṛ chơi ǵ đấy anh?
- Tui hô "Đả đảo Nguyễn Văn Thiệu", c̣n anh hô "Đả đảo Hồ Chí Minh".
Anh bộ đội miền Bắc im lặng không trả lời, anh ta lặng lẽ rút lui.
Anh lính TQLC nói vói theo.
- Tự do th́ ḿnh muốn nói ǵ th́ nói, sao anh không dám hô "Đả đảo
Hồ Chí Minh"?
Đôi khi các người lính TQLC trêu chọc bằng cách gọi các anh lính
miền Bắc.
- Anh giải phóng ơi!
- Cái ǵ thế các anh?
Đợi các anh miền Bắc lên tiếng trả lời xong th́ anh lính TQLC đáp
ngay:
- Phỏng giái rồi anh giải phóng ơi!
- Các anh ăn nói ǵ linh tinh thế!
Giữa tháng 6/73 tiểu đoàn di chuyển về phía Tây của Quốc lộ 1, khu
vực mà chúng tôi đă đóng quân vào khoảng tháng 4 năm 72 “Trường
Phước” thay thế cho tiểu đoàn 2, và đầu tháng 7 năm 73 tiểu đoàn 7
ra làng TQLC chuẩn bị về hậu cứ.
Gần 2 năm rồi kể từ sau trận Hạ Lào, tiểu đoàn 7 đă phải lưu động ở
miền địa đầu giới tuyến. Có một chuyện khó tin là đa số những chiến
binh TQLC chẳng hề được biết hậu cứ của đơn vị ra sao. Ngôi nhà nghỉ
dưỡng quân của đơn vị mà các người con chẳng hề được biết.
Khi rời khỏi trung tâm huấn luyện hoặc quân trường, chúng tôi được
đưa thẳng đến đơn vị hành quân mà chẳng cần phải về hậu cứ, và rồi
từ đó rong ruổi theo “Hành tŕnh anh TQLC” hoặc “12 tháng anh đi”,
măi cho đến khi tiểu đoàn về hậu cứ.
Có nhiều anh em TQLC chúng tôi từ ngày đáo nhậm đến ngày rời đơn vị
vẫn không hề biết được hậu cứ ở đâu, v́ họ về trong những chiếc quan
tài!!!
Tháng Giêng xuôi quân ra Huế
Cố đô hoang vu điêu tàn
Băi học chiều em vắng bóng
Tóc thề đă quấn khăn tang
Tháng Hai về trấn ven đô
Chong mắt hỏa châu giữ cầu
Gió thoảng vào hơi rượu mạnh
Qua làn sương ánh đèn màu
Ba lô lên vai, đến miền Tây đô
Quê hương em xanh, xanh rợp bóng dừa
Đêm ngủ b́a rừng, thèm làn môi ấm
Ngọt trái sầu riêng, này lúc sang mùa
Bây giờ trời mây vào hạ
Mẹ em bận đi lễ chùa
Em nguyện cầu cho chiến sĩ
Trên đường sớm nắng chiều mưa
Tháng Năm theo v́ sao biếc
Hoa phượng nở quanh sân trường
Ngày xưa những ḍng lưu bút
Bây giờ phong thư gói quà
Tháng Sáu anh vẫn miệt mài
Hành quân chưa về thăm em
Đừng trách ve sầu mùa hạ
Xa th́ xa vẫn chưa quên
Sang thu mưa Ngâu
Nước mù giăng mau
Ô hay! Ta sao trong ḷng rưng sầu
Tráng sĩ xưa hề, vượt cầu sông ấy
Người đứng đầu sông, người cuối sông chờ
Bây giờ c̣n đâu huyền thoại
Hằng Nga của em bé thơ
Tất cả bầu trời thương nhớ
Ai làm tháng Tám cằn khô
Tháng Chín anh về Cửu Long
Vú sữa căng của mẹ hiền
Anh đi cho đồng tươi mát
Tặng em này chiến công vang
Về Cà Mau một phong thư gửi cho em
Lời gió thương mây, lời chim nhớ rừng (2)
Lời ta chờ nhau
Cuối năm mùa Đông đan áo
Cuối năm trời đă lạnh rồi
Thiên hạ th́ may áo cưới
Ta th́ hẹn tới năm sau
Hoa mai nở đầy, em đang đợi chờ
Mười hai tháng rồi, dài ước mơ say
Nhớ má cho hồng, nhớ môi cho ngọt
Anh về cùng em, vui đón mùa Xuân
Anh về cùng em, vui đón giao thừa...
Nhưng anh em chúng tôi không hề được về đón giao thừa. Ngồi hát bài
nhạc mà trong ḷng rộn ràng với niềm vui khi tiểu đoàn về hậu cứ.
Anh Xê, trung đội phó hỏi tôi:
- Ông hát bài “12 tháng anh đi” mà tiểu đoàn ḿnh đi tới 2 năm rồi
mà vẫn chưa về.
- Tại ông thi sĩ nhà ḿnh làm bài thơ “12 tháng anh đi” chứ đâu phải
là “12 tháng anh về”.
- Ờ há! Nói đi chứ đâu có nói về.
Đời người lính TQLC chúng tôi cứ tuần tự 12 tháng anh đi, rồi lại 12
tháng anh đi tiếp theo...
Thật thẹn cho thân nam nhi, đường đường trượng phu mà khi đi phép
chỉ có vài lư do quanh quẩn, hoặc là "cha mẹ đau nặng" hay "cha mẹ
mất". Người nào có gia đ́nh th́ có thêm phép "con đau" hoặc "vợ đẻ".
Phép kiểu này th́ hết ai ham.
Cuối tháng 7 năm 73, tiểu đoàn 7 về hậu cứ. Trong số gần 800 chiến
binh về đến nhà của đơn vị, chỉ có khoảng chưa được 1/4 là đă từng ở
hậu cứ của tiểu đoàn.
Cả đại đội 3 lọt thỏm trong chiếc C-130 của Không Quân Việt Nam.
Thời gian bay chỉ khoảng dưới 2 tiếng đồng hồ, mà sao chúng tôi cảm
thấy quá dài so với khi ra trận hành quân.
Lúc máy bay cất cánh là lúc tất cả những h́nh ảnh quá khứ bắt đầu
chạy qua trí nhớ. Từ lúc c̣n thơ ấu đến khi trưởng thành, gia nhập
quân đội, lao vào biển lửa...
Quay nh́n xung quanh, những người lính đại đội 3 trẻ tuổi, hồn nhiên
nói cười, chờ đợi. Khoảng nửa tiếng sau bắt đầu có tiếng ngáy. Nh́n
về phía anh lính trẻ đang ngủ ngon, trên gương mặt vô tư thoáng hiện
một nụ cười.
Có lẽ anh đă về đến nhà trong giấc mơ ngắn ngủi tuyệt đẹp, trong
ḷng chiếc phi cơ đang trực chỉ Sài Thành yêu dấu.
“Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi!”
Tôi dựa đầu trên ba-lô, thả hồn ḿnh phiêu lăng.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại