NHỮNG NGÀY HỒI ĐÓ

Hết sức vui mừng và bất ngờ nhận một lần hai quư vật tưởng chừng như không có, không c̣n. Một là tấm h́nh chụp chung với Quang 3 Ca, Quang Bếp, Sết Cô Đơn nơi “băi vườn Thơm” thời học giai đoạn I ở trường Bộ binh Thủ đức. Một là Sự vụ lệnh bổ dụng 235 Biên tập viên vừa “măn khóa Đào-Tạo Biên-tập-viên ngày 28.10.1967 tại Học-Viện Cảnh-Sát Quốc-Gia” do Chuẩn tướng Nguyễn ngọc Loan kư ngày 11 tháng 11 năm 1967. Quư vật là v́, những ǵ “liên quan chế độ cũ”, bà má vợ đă tuồng hết xuống con kinh cầu Bông ở Tân định Sài g̣n năm xửa năm xưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 rồi và chính ḿnh th́ cũng đă để hết nó lại trên những xác chết dọc đường gió bụi làm kỷ niệm mà chạy lấy thân di tản chiều ngày 23 tháng 3 năm 1975 từ Quảng đức về Lâm đồng rồi Nha trang đến Sài g̣n.

Không c̣n ǵ! Hết sức vui mừng là v́, tấm h́nh đen trắng bạn Sết gởi cho đó, bản copy Sự vụ lệnh số:1205 - TCSQG/NHNV/SVL bạn Lợi gởi cho đó, nó c̣n mới tinh, y nguyên, cho ḿnh cảm giác như hiện tại, hiện thực, không phải đă dài 43 năm rồi mà vụn vỡ, mơ hồ. Tay cầm, mắt nh́n, ḷng bồi hồi, nhớ những ngày thời Học viện Cảnh sát Quốc gia, National Police Academy chi lạ! Ḿnh thấy ḿnh rất “cô hồn” ngày đó c̣n bây giờ ở đây, hai chân dang ngang xấc xược trong bộ đồ trận Thủy quân Lục chiến “giang hồ tứ chiếng”, tay cầm ṇng súng chống đất, lạc quan như đời “thư-sinh-cành-phượng-cánh-bướm-ve-sầu”. Và đây, ông Nguyễn kim Hạc, Nguyễn mạnh Thúy, Huỳnh văn Tho...về Nha Cảnh sát Quốc gia Đô thành; Nguyễn văn Nghi, Nguyễn thanh Tùng, Lê sỹ Tài...về Khối Cảnh sát Đặc biệt; Vũ khắc Cảnh, Phạm đức Hoàng, Đặng văn Thử... với Nguyễn văn Sáu là tôi đây, ra Nha Cảnh sát Quốc gia Vùng I. Những năm 1965, 1966, ...người sinh viên với đời lính trước mắt, cơ hội đũng quần mài ghế nhà trường không dài, nhiều trắc trỡ. Như những người anh em bạn, làm “đàn thú hoang đói ăn, thèm mồi” trong cơn dầu sôi lửa bỏng đó, tôi nộp đơn chỗ nầy, xin việc chỗ kia, riết rồi cũng được Bộ Quốc gia Giáo dục gọi dạy Anh văn dưới tỉnh Vĩnh b́nh, rồi đậu khóa I Đại học Chiến tranh Chính trị, rồi lại đậu khóa II Biên tập viên Cảnh sát Quốc gia. Bỏ làm giáo sư, bỏ học Chiến tranh Chính trị, tôi vào Học viện Cảnh sát Quốc gia mà trống trơn kiến thức Biên tập viên là ǵ! Từ lớp Năm trựng làng vào Trung học trường tỉnh đến Đại học thủ đô, tôi phải kinh qua biết bao nhiêu phen thi với cử. Dĩ nhiên, dễ cũng có, khó cũng có nhưng, không lần nào đáng cho ḿnh nhớ dai nhớ dài cả một đời người như kỳ thi tuyển Biên tập viên Cảnh sát Quốc gia để vào khóa II Học viện Cảnh sát Quốc gia. Tôi cả quyết, có những ông bạn tôi thi hồi đó, bây giờ không nhớ ǵ cả hay có nhớ th́ cũng mơ hồ như ánh trăng lung linh dưới gịng nước động mà thôi. Bài b́nh luận ngoắc ngoéo từ ngữ Việt hán như thách đố, như trêu ngươi: “Đương quan chi pháp hữu tam sự: viết thanh, viết thân, viết cần. Tri thức tam giả...”. C̣n mấy chữ nghĩa phía sau nữa, thằng tôi không nhớ hết. Bài dịch ra tiếng Anh “Người cày có ruộng” trời ơi đất hỡi. Toàn những danh từ mà những thằng “mọt sách”, “gạo” thời bấy giờ cũng đành “au revoir”. Nào “tá điền”, nào “điền chủ”, nào “người cày”, nào “trâu cày”, nào “ ruộng c̣ bay thẳng cánh”, nào “công chức là nô bộc của dân”. Bài sử vắn tắt, mù mờ cơn mê hồn trận. Đề thi vỏn vẹn chỉ có ba chữ ngắn, gọn mà bao la mịt mùng: “Phan bội Châu”. Người ta dễ không biết đâu mà ṃ. Bài địa “so sánh kinh tế hai miền Nam, Bắc Việt nam” như một cái bẫy c̣ ke ngày nhỏ tôi “sập” mấy con gà rừng ở núi Ba ḥn ngoài Phan thiết. Bởi thằng nhỏ nào không biết giới hạn vấn đề th́ “trớt quớt” như chơi. Hai miền Nam, Bắc Việt nam ở vào cái thời nào, trước hay sau năm 1954? Trước 1954 th́ quá cũ mà sau 1954 th́ bức màn sắt. Có phải vậy không mà nơi địa điểm thi Pétrus Kư ở Sài g̣n có nhiều anh em phải bỏ ra về. C̣n nữa, thi th́ đông, lấy th́ ít. Được đậu, một đứa ít nhất phải đá gị lái cho chết hơn mười lăm đứa khắp bốn Vùng Chiến thuật. Chưa nói đến nạn “xê ô xê xê” là con ông cháu cha dành phần chia chác “quota”, làm mỏng hy vọng mấy thằng b́nh dân như chúng tôi. Giỏi thiệt! Làm sao ông Lê văn Miêng thủ khoa? Tôi cũng khá lắm chớ, không th́ đố mà đậu được hạng 24 trong danh sách thi mấy ngàn người mà chỉ lấy chừng 150 mạng. Thằng Bùi B́nh, ai nói dỡ, đă đậu trường Việt nam Hàng hải, nằm trong khuôn viên Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú thọ cũng phải chịu dự khuyết. May có thằng đậu chính thức nào đó chết tiệt, nó mới được vào học, không th́, đă theo ông Phạm ngọc Lũy lái tàu Trường Xuân của ông Trần đ́nh Trường rồi?

Thong dong vào Học viện một cách vụng về thêm chút ngỗ ngáo, tôi như đứa trẻ con mộng mị, bay nhảy bị vướng víu, ràng buộc trong một tập thể lạ hoắc lạ huơ. Những ông bạn tôi, từ “mái gianh đầu đ́n” ngoài Bắc di cư tới “con cá gô bỏ chong gổ kêu gột gột” tận trong Nam đến “khôn răng, khôn răng chi mô” nơi miền Trung “nghèo lắm ai ơi” và ngay cái đất “Thầy g̣n” nầy “cái mái mai hiệu mái bai”. Rau muống, ớt, giá hầm bà làng thành món thập cẩm, xà bần làm tôi nhức đầu. Mấy cụ Tổng đoàn Thanh niên Trừ gian, đệ tử của ông Thủ tướng 37 tuổi Nguyễn cao Kỳ thất nghiệp nghề đánh gian thương, tham nhũng về đây vênh váo ta đây người lớn, vỗ ngực xưng tên. Mấy “khứa” trẻ măng, mới rời ghế nhà trường đầu hôm sớm mơi, xớ rớ, nhát gừng, thơ ngây. Học viện, vài căn nhà trại lính nghèo nàn trong Biệt khu Thủ đô đă trộn trạo đám hổ lốn chúng tôi lại với nhau. Thầy Viện trưởng Đàm trung Mộc, hàng Giảng sư, lớp Cán bộ, ngày theo ngày “nhào”, “nắn”, “nặn”, “dzợt” những thứ hổ lốn đó thành 2 đại đội, giao cho ông Nguyễn ngọc Thơ coi Đại đôi 101 và La văn Chung coi Đại đội 102. Tôi ở Đại đội của công tử dừa Kiến ḥa Nguyễn ngọc Thơ. Một hôm những ngày đầu, thầy Viện trưởng là Quận trưởng Thượng hạng Ngoại hạng Đàm trung Mộc cho “điểm danh” để biết mặt, biết tên mà gọi cho danh chính ngôn thuận. Một ông nhỏ con ngồi kế bên, mau mắn: “Phan thành Ngọc Điệp, Chủ sự pḥng...”. Tôi không biết ổng làm Chủ sự pḥng ǵ và Chủ sự là cái thá ǵ. Tôi đứng dậy, đứng nghiêm, chào một cái rụp: “Nguyễn văn Sáu”. Chưa kịp nói tiếp th́ ông Viện trưởng đă từ tốn: “sếp Cảnh sát của chúng ta là Đại tá Nguyễn ngọc Loan tự Sáu Lèo. Anh tên Sáu, hẳn là Sáu Lèo. Cám ơn. Mời sếp Sáu Lèo ngồi xuống”. Cái tên lôi thôi “Sáu Lèo” tôi, chắc phải mang xuống tuyền đài từ đó. Ở đây, hơn nơi nào hết, không biết từ đâu bay về nhiều bí danh quá sức. Dĩ nhiên là ông nào ông nấy cũng thành tích đầy ḿnh lắm mới nổi tiếng chớ! Và cũng dĩ nhiên có những ông được đặt những cái tên kỳ dị, kỳ lạ đến kỳ cục, chẳng biết ư nghĩa, nguồn gốc ra răng! Một ít thôi, tôi viết ra đây chuyện xưa mà không giải thích, bởi có nói rơ ra ngọn ngành th́ dài lê thê, lại mích ḷng bởi ngày xưa mới vừa dứt sửa mẹ, mấy ổng c̣n dễ chịu, bây giờ ngày nay già khú đế, mấy ổng khó tính thấy mẹ! Có ǵ, xin quư “Kụ” xí xóa cho: Minh Mộng Du, Nam Cà Cộ, Nê Vẽ Bản Đồ c̣n gọi là Nê Bắn Máy Bay, Quang 3 Ca, Quang Bếp, Quang Khều, Sết Cô Đơn, Thành De Gaulle, Sơn Sửa, Tài Thương, Hạc Thối c̣n gọi là Hạc Chích, Tâm Osawa, Thanh Bốc Khói, Thanh Cổ C̣, Thơ Khùng c̣n gọi là Thơ Quận Trưởng, Hạnh Commissaire Adjoint c̣n gọi là Hạnh Phó Quận Trưởng , Chín Đen, Châu Xe Cán, Châu Đầu Bạc, Hạnh Hột Xoài, Điệp Tề Thiên, Đức Fulro, Hoàng Khổng Tử, Huỳnh Tùng Lâm, Trường Tam Tạng, Lâm Babylac, Lư Tông Đơ, Lân Pháo Binh, Lộc Lạp Xưởng, Kính X́ Dầu c̣n gọi là Kính Voi, Thành Nùng, Thuận B́nh Điền c̣n gọi là Thuận Nhà Quê, Thiều Ù, Tư Bắt Gôn, Tài Ngưu Ma Vương, Thân Hộc Máu, Vinh Thổ Huyết, Hợi Heo, Sơn Đen, Chị On, Cô Lựu, Trân Công Lộ, Viễn Vương Ngao, Nghi Già, Linh Lác, ... nhiều lắm, làm sao kể cho hết.

Quân trường nào cũng ác nghiệt một cách thô bỉ y hệt nhau là đầy đọa, giam cùm, giết chết “cái tôi đáng ghét”, “le moi est haïsable” của Blaise Pascal cả. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến cái riêng, rất riêng của Học viện Cảnh sát Quốc gia, nếu không muốn nói là đặc biệt của những anh em khóa II Biên tập viên Cảnh sát Quốc gia. “Nhàn cư vi bất thiện”, người ta nói đúng lắm. Những buổi chiều rảnh một chút, lóng ngóng rồi cũng rủ nhau “dzọt” ra ngoài kia con đường Lê văn Duyệt rập ŕnh âm nhạc, dập d́u ngựa xe. Bạn bè vài đứa băng “Đường Ṃn Đàm Trung Mộc” âm u, tối tăm đầy bóng ma như đang lầm lũi vào chín từng địa ngục, mắt lấm lấm lét lét, miệng lâm râm “án ma ni bát nhị hồng” rồi “úm ba la” chạy. Tôi, Quang 3 Ca, Thuận B́nh Điền, Thành Nùng ĺ lợm, đường bệ, can trường từ bên trong Đông đức bị áp bức, leo, trèo, trườn, ḅ...lên “Bức Tường Bá Linh” cao cỡ 3 thước, rớt xuống ngoài kia bên Tây đức tự do, con đường độc đạo Biệt khu Thủ đô dẫn ra chốn phồn hoa. Sửa lại cái béret, sợi dây nịt, đôi giày bố, bộ treillis để thiên hạ “nh́n quân phục, biết tư cách” không chê ḿnh thứ dân bagaille. Bốn thằng đường hoàng ra cổng, có khi anh lính gát đứng nghiêm, chào tay. Đi ḷng ṿng rồi cũng vào quán cháo ḷng của bà mẹ cô nữ sinh Gia Long đầu đường Yên Đỗ, kế Công trường Dân chủ mà chọc ghẹo năm ba lời cho đời “c̣n một chút ǵ để nhớ để thương”. Lạ ǵ trai tơ gặp gái non, chùng chùng lén lén tôi gởi cho cô con gái của bả một tờ giấy nhỏ chút xíu chút xiu, viết gọn mấy chữ “em dễ thương lắm”. Nhỏ chút xíu chút xiu cuộn tṛn bằng ngón tay út, ông “Hạc Chích” đúng là “Hạc Thối” không biết làm sao lại bắt được. Đêm vào Đại đội, ổng tru tréo giọng hề Tùng Lâm, lê thê: “em.. dễ ..thương... lắm! Em..dễ.. thương.. .lắm...lắm...lắm ..”. Tôi “cứng” họng nhưng chắc không “cứng đơ” được cái thằng ba trợn Sáu Lèo tôi. Tôi muốn bảo ổng “fermez la bouche” đi cha nội, “femez le pot”, cái miệng thối lại đi cha nội, nhưng đếch cần. Việc nầy, không ai nhớ, ít ai biết, tưởng cũng nên nói ra cho vui thời Học viện Cảnh sát Quốc gia. Tài liệu mật của Mỹ, 50 năm c̣n giải mă, huống ǵ chuyện ḿnh “ba cái lẻ tẻ”. “Đi đêm, lâu ngày gặp ma” là chuyện phải xẩy ra. Mấy lần, chúng tôi những thằng giỏi nghề “bích hổ du tường”, đứa th́ đang ngốc đầu lên tường, đứa th́ đang ḷ ṃ trên tường, đứa th́ đang giong tay cao để được kéo lên...th́ ông C̣ Thơ đang đứng chờ từ hồi nào ở dưới, đợi hốt mấy thằng quỷ sứ, yêu ma, tinh quái!. Có lần bị tóm mà cũng có lần chạy thoát. Những sáng thứ Bày, thường có thêm thằng Đức Fulro lập thành bọn “Ngũ Quỷ”, 3 giờ rưỡi hay 4 giờ sáng tinh mơ, trời đất lồng lộng, im phăng phắc, bọn “chằn ăn trăn quấn” nhanh như ánh sao xẹt, đột kích “Cục R” của mấy anh lính gác cổng, “chẩu” mau hơn thiên thạch bay trên Cung trời Đao lỵ. Cũng tại “ăn quen, nhịn không quen”, chúng tôi bốn đứa Sáu Lèo, Quang 3 Ca, Thuận Nhà Quê, Thành Nùng không bị bắt tại “Cục R” mà thường bị “dính” tại “Bức Tường Bá Linh” vào chạng vạng những đêm tối trời hay mưa vần gió vũ. Một lần bị cúp phép cuối tuần, lương bốn thằng mới lảnh, giao hết cho thằng Đoàn long Thể không dại đi phép, ở lại nuốt trọn lỏn tiền của mấy thằng “gà mở cửa mả” ngu như ḅ. Đoàn long Thể bây giờ ở đâu, trả tiền lại cho tụi tao mầy. Mầy đánh lận, đánh gian, đánh “mo”, đánh điếm? Lại c̣n bị ông C̣ Thơ bắt tại phạm trường về tội cờ bạc. Mấy nhóc con cứ mồm loa mép giải, chối dữ lắm, chối miết. Ổng đứng bên ngoài ghi tên từng thằng, từng vị trí, tiền, bài, lời qua tiếng lại...mấy thằng bạt mạng say máu đỏ đen đâu có biết ǵ, hết cải. “Chạy”. Thằng sưng tay, thằng u đầu, thằng té sấp, thằng học thói Từ Hải, đứng như trời tṛng bị ổng nắm cổ. Xui tận mạng! “Cà chớn” như vậy đó, ra trường thằng Huỳnh hồng Quang tức Quang 3 Ca đi Cảnh sát Dă chiến; Thằng Nguyễn văn Sáu tự Sáu Lèo là tôi đây ra Quảng ngăi ngoài Vùng I, thằng Huỳnh ngọc Thuận là Thuận B́nh Điền ra Phú bổn ở Vùng II là công bằng lắm! Than trời thở đất với ai!? Điểm hạnh kiểm hệ số 25, không bị đá đít ra ŕa là may. Tôi đến Quảng Ngăi với tụi thằng Vũ khắc Cảnh, Phạm đức Hoàng biệt danh Hoàng Khổng Tử, Đặng văn Thử là Thử Chuột và Trần hữu Hạnh là Hạnh Commissaire Adjoint, Hạnh Phó Quận Trưởng. Đất miền Trung cho người miền Trung, nhất là Huế. Ḿnh không phải người ở ngoải, “đếch” có ǵ mà làm. Tuổi th́ già, giấy tờ th́ nhỏ, ông Lê đ́nh Phát bắt lên xe, chở vào Quang trung cho học khóa 6/70 Sĩ quan Trừ bị Thủ đức 11 tháng chơi cho bỏ ghét. Cuối năm 1971 lên làm Phụ tá Đặc biệt ở Quảng đức đến “bể dĩa”. Công cũng có, tội cũng có. Công là bắt trọn ổ Ủy ban Hành chánh và Hội đồng Nhân dân xă Đạo nghĩa hoạt động Cộng sản; Bắt 7 thằng “cán ngố” với súng AK, lựu đạn, phóng lựu B-40, radio transistor.. . định “chiếm đất giành dân” ngay sau một ngày kư Hiệp định Paris ở Nghi xuân, được Anh dũng Bội tinh của Trung tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Nguyễn hữu Thiên; Phục kích bắn hạ 2 thằng Việt cộng và rượt chạy chết cha mấy thằng bị thương, đem về 3 súng AK và “lôi xác tụi nó ra bỏ ở ngả ba Đức xuyên”, theo lệnh Đại tá Tỉnh trưởng Phạm văn Ngh́n. Tội là “không hợp tác với Phối trí viên Mỹ”, “đánh một Trung sĩ Trung tâm Hành chánh Tiếp vận giữa chợ đông Gia nghĩa” và nhất là “để cả 7 thằng tù mới bắt mấy tháng trước vượt ngục”. Trung tá Nguyễn hữu Hải đề nghị lên Thiếu tá. Chuẩn tướng Huỳnh thới Tây đang cơn đau bao tử hành hạ, chữi tháo lên: “Đụ má! Thằng đó chưa dzô tù là mai, c̣n Tá với Tướng. Dẹp”. Phải rồi! Xếp “dẹp” là đúng quá trời đất ơi. Cũng ở đây, một lần bị phục kích nơi cùi chỏ ấp Nghĩa chánh, tôi nhờ số trời không chết nhưng Thiếu tá Tư, Trưởng pḥng 2 Tiểu khu bị Chúa đ̣i về chầu sớm quá với vài anh lính bị thương nặng theo hầu. Đêm đó, vợ tôi hỏi “sao anh buồn!?” “ông Tư nầy chết một cách oan uổng, tức tưởi, vô lư bởi cái ông “Tỉnh Trưởng Một Tháng” bất tài, cố chấp là Trung tá Cao văn Chơn”, tôi trả lời. Tôi thương ông bạn Tư già c̣n bà xă trẻ ở Đức lập và những chiều họp trong Tiểu khu. Đầu tháng Giêng năm 1975, ông bạn đồng khóa Nguyễn văn Tư, tự là Tư Bắt Gôn, đương là Thiếu tá Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia tỉnh Phước long dắt bầy con te tua chạy lên Gia nghĩa tỵ nạn di tản. Phước long giáp ranh phía Nam tỉnh Quảng đức đă mất. Một tỉnh đầu tiên của Việt nam Cộng ḥa lọt vào tay Cộng sản Bắc việt. Sáng ngày 8 tháng 3 năm 1975, tôi qua cầu 14 trên sông Sérépok giữa hai tỉnh Darlac và Quảng đức lần cuối. Ban mê thuột bị đánh ngay vào đêm hôm đó và bị chiếm. “Tang điền thương hải”! Ông bạn Quang, khóa I Biên tập viên, Thiếu tá Trưởng F Đặc biệt Darlac mới nói chuyện với nhau ở Trung tâm Thẩm vấn “Provincial Interrogation Center” ngày hôm qua đó, bây giờ đă ra người thiên cổ? Chiến tranh! Dẫu là thằng ngỗ ngáo nhưng cũng là đứa rạt rào nội tâm, tôi không dấu được long lanh giọt nước mắt nỗi đau, nỗi buồn. Quảng đức nằm trọn lỏn tứ bề thọ địch: Tây, tỉnh Mondolkiri của Kampuchia; Bắc, tỉnh Darlac và Nam, tỉnh Phước long đă lọt vào tay Cộng sản. Đông bắc, tỉnh Tuyên đức, Đông nam, tỉnh Lâm đồng đang chộn rộn, kiếm đường chạy. Thị xă Gia nghĩa lớn không bằng một cái nghĩa địa tỉnh nhỏ đă bắt đầu xục xịch, nhúc nhích, t́m đường “tẩu vi thượng sách”. Mấy bà lớn không c̣n thấy ai. Ông Đại tá đầu tỉnh lấm la lấm lét cưỡi trực thăng “biến” về Lâm đồng đắp chăn rung đùi ở bển. Ông Trung tá Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia đi công tác về Sài g̣n, không ngu lên lại cái xứ người ta đang t́m đường “quất ngựa truy phong”. Mấy ông Trưởng ty nội, ngoại ṭa Hành chánh tỉnh đă “thăng” từ thuở khai thiên lập địa, đâu c̣n một ai. Một chiều, đài BBC đọc tin “thị xă Gia nghĩa đă bị Quân đội Bắc việt tấn công” khi chúng tôi đang ngồi uống nước trà, tán gẫu trên “lô cốt” mới làm xong buổi sáng và tụi Việt cộng th́ c̣n đang nằm ngủ trong rừng sâu thăm thẳm, xa lắc xa lơ tận đâu đâu. Ông Mục sư Hồ hiếu Hạ dắt con chiên bán mạng chạy trốn rồi chạy về. Dân chúng ơi ới ngược xuôi ḍ đường chui khỏi thị xă đang cơn hấp hối. Loạn! Sáng 23 tháng 3 năm 1975, sau buổi họp bất thường, Tiểu khu và Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia đồng ḷng “bỏ” Quảng đức, quyết chạy lấy thân gọi là “di tản” lúc 1giờ 30 chiều. Cái thằng “quậy” ngày xưa Sáu Lèo ở Học viện, bây giờ Đại úy, Phụ tá Đặc biệt hay Trưởng F Đặc biệt hay Chánh sở Cảnh sát Đặc biệt cũng “chạy”. Chạy xuống Lâm đồng, chạy về Nha trang, chạy vào Sài g̣n và chạy vô tù gọi là “học tập cải tạo” 9 năm trong rừng, ăn ”bo bo”, “sắn dui”, “mắm chượp”...nh́n nhau chết dần chết ṃn, vẫn ngâm câu “ninh thọ tử bất ninh thọ nhục”! Suối máu, An dưỡng, Yên bái, Hoàng liên sơn, Lào cai, Vĩnh phú, Thanh hóa, tôi được thả, gọi là “ra trại” ở trại tù Z.30C Hàm tân năm 1984. Bởi thương cũng có, ghét cũng có và ḿnh cũng đặc biệt quá, nên trong tù c̣n mang thêm nhiều biệt danh ngồ ngộ “Sáu Franc”, nghe sao “Pháp thuộ” quá trời của cái ông bạn Bắc kỳ 54, ông Đại úy Luật sư Khiếu hữu Điển ở ngả ba ông Tạ tặng cho với cái nghĩa ổng giải thích là “Sáu Thẳng Thắng”, thời ở tù chung đội Gạch của tên cán bộ ḅ vàng Giới nghênh nghếch, ngọng nghịu làm “Quản giáo” ở trại Trung ương số 1 Lào Kai ngoài Bắc đói chết cha mà lạnh cũng chết cha. Bọn cán bộ “ba đời bần cố nông” dốt thấy mẹ, bắt chước đọc cà lăm cà cặp Việt không ra Việt mà Pháp không ra Pháp là anh “Sáu Phờ Phờ Răng”. C̣n “Sáu Suyễn” là Sáu cứ chán “lao động là vinh quang” th́ lên cơn suyễn, cái bệnh thâm niên cố đế tưởng mấy lần đă chết ở Yên bái, Vĩnh phú rồi. Và Sáu Đầu Ḅ, theo tên cán bộ Tuấn có biệt danh là Tuấn Lé coi đội Lâm sản ở trại tù Thanh lâm thuộc tỉnh Thanh hóa giải thích rằng: “Anh là kẻ đầu sỏ, là đại bàng, là đại ca... xúi giục, sách động ”. Sau ngày “ra trại”, mấy ông bà Khu phố, mấy ông bà Công an khu vực, Công an phường, Phường đội, Xă đội, Mặt trận Tổ quốc...kềm kẹp riết 8 năm trời phó thường dân đời “Ngụy”, ḿnh không có đất sống! Ḿnh, bạn bè ḿnh là những đứa bị vợ bỏ, vợ khinh thường, vợ sai vặt, xóm làng chê, Việt cộng ghét, thượng vàng hạ cám đủ nghề: bán cà rem, đạp xích lô, đánh xe ḅ, làm thuê, vác mướn, bán giấy số, bán thuốc lẻ, vá xe đạp, thổi bong bóng, bán cốc kẽng, lượm rác, mua ve chai lông vịt, mài dao kéo, lang thang cơ cầu nơi “vùng kinh tế mới” sống đời không thấy đâu bóng dáng tương lai. Đau biết là bao nhiêu! Ê chề biết là bao nhiêu! Người Việt ta th́ “Sau cơn mưa, trời lại sáng” có phải dịch từ tiếng Pháp “ Après la pluie, le beau temps”, những ông già HO được qua Mỹ đỡ khổ, tự do, sống c̣n một chút ư nghĩa cuối đời?

Hồi kư là viết lại sự thật đời ḿnh, đời người, sự việc một cách ngay thẳng, đúng đắn, vô t́nh. Mấy ai b́nh tỉnh viết cho đúng nó như vậy là như vậy? Phần v́ quá nhiều chuyện xưa không nhớ hết, phần th́ trí nhớ bị đẽo gọt bởi thời gian mà mù mờ, phần v́ tính “nhân chi hoạn tại hiếu vi nhân sư”, “con người có cái bệnh là hay làm thầy đời”, hồi kư dễ trở thành những ngoa ngôn, huyễn hoặc, viễn vong, tếu. Bài viết nầy, tôi nhớ đâu nói đó như là mớ ḅng bong gió thổi bềnh bồng c̣n sót lại nỗi niềm cố cựu như Saint Rémi nói “Hăy đốt đi những ǵ ngươi tôn thờ và hăy tôn thờ những ǵ ngươi đă đốt đi”, “BrÛle ce que tu sadoré et adore ce que tu as brÛlé” mà thầy Lương dạy Anh văn đệ Nhất C trường Trung học Chu văn An, Sài g̣n lại thích nói tiếng Pháp, nhất là những tư tưởng của những triết gia, thi sĩ...nhắc tới nhắc lui cho tôi nhập tâm mà thuộc ḷng đến bây giờ có quên được đâu. Dẫu không coi như một hồi kư nhưng “cái tôi” đă để thằng tôi viết thực chừng nào hay chừng nấy, không xen vô. Đời người ngắn ngủi chừng “thất thập cổ lai hi”, đâu dễ “ba vạn sáu ngàn ngày”. Bạn bè thuở đó, người mất nằm im thin thít ră rời theo bóng trăng sao, muôn thuở cô đơn, heo hút, mịt mùng! Kẻ c̣n, già cả khấp kha khấp khểnh, ngậm ngùi nhớ chút dĩ văng vàng son rong rêu như thể hoài niệm một thời đáng nhớ một đời thoáng qua bức tranh vân cẩu. Xin mượn bài thơ Ngă tích Vị sinh thời của Vương phạm Chí thời Sơ Đường mà kết luận:

“Tích ngă vị sinh thời
Minh minh vô sở tri
Thiên công hốt sinh ngă
Sinh ngă phục hà vi
Vô y sử ngă hàn
Vô phạn sử ngă cơ
Hoàn nhĩ thiên sinh ngă
Hoàn ngă vị sinh thời”.
Và mạo muội, xin được thoáng dịch như sau:
“Xưa, thời tôi chưa sinh ra
Âm âm u u có biết ǵ đâu
Ông trời bổng sinh tôi ra.
Sinh tôi ra để làm ǵ?
Không có áo quần mặc, bị lạnh
Không có cơm ăn, bị đói.
Xin trả lại ông trời cái ông trời sinh tôi ra
Và ông trời trả lại tôi cái thời tôi chưa sinh ra”

NGUYỄN THỪA B̀NH
Kansas City, Missouri
tàn Đông năm 2010


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại