Bên Những Bờ Rừng

Phan Minh

Nhân vội vă bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là một cô gái Huế, cô hay nh́n lên bộ áo bay đă ngả màu của anh. Trên hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đă vào ghế ngồi, và thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.
Nhân nh́n đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô gái hỏi anh trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để cất cánh, chàng không nghe rơ câu hỏi, nhưng nh́n theo cử chỉ của cô gái, chàng trả lời: " 3 giờ 02 phút thưa cô".
Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao độ, hành khách bị lôi theo độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị gió đưa về phiá sau, che một phần áo bay đă bạc màu của chàng, trông thật dễ thương. Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng. Cô gái quay lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong tiếng ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.
- Cô về đâu? ...
Cô gái đáp ngay như đă sẵn sàng từ lâu:
- Dạ em về Huế, thế c̣n anh?...
Tiếng cô gái thật tươi vui, Nhân nh́n kỹ hơn qua vai nàng, đôi mắt tṛn với hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi như những quả đào đang mùa.
Nhân trả lời:
- Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không c̣n xe để ra Huế, khi tàu về đến Đà Nẵng chiều nay.
Nàng trả lời nho nhỏ:
- Dạ ...

Nhân nh́n ra bên ngoài - nghĩ ngợi mông lung. Chàng nghĩ về những ngày ra Pleiku, nơi vùng đất đỏ, có đồi Cù-Hanh, có con phố nhỏ thật dịu hiền. Những chiều trong cơn lạnh của núi đồi cao nguyên, chúng bạn của Nhân thường hay ra phố, để t́m vui bên ly cà phê đen của quán "Dinh Điền", hay đi bách bộ trên con đường dốc đỏ, nh́n theo bóng của các cô gái vùng Tây Nguyên đang tha thướt với những chiếc áo dài. Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi c̣n ở Cần Thơ, phi trường B́nh Thủy, nơi chàng đă sống bốn năm, bên ḍng sông Hậu, với bao nhiêu vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang c̣n ngủ yên, để đến những điểm hẹn, trước lúc b́nh minh. Rồi những ngày ghé lại Tô Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau, U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước. Có một lần chàng đă thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất h́nh chử "S". Từ trên trời cao nh́n xuống một màu xanh tươi của vùng đồng bằng với những làn sương mai đang c̣n lảng vảng trên mặt đất.
Trong khung cảnh thanh b́nh đó, cũng đang ẩn dấu những trận chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.
Chợt cô gái quay lại hỏi:
-Anh đang nghĩ ǵ mà có vẽ đăm chiêu như thế?
Cô ta đang chăm chăm nh́n vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của Nhân, chàng trả lời:
-Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau, rồi chàng lên tiếng:
-Tôi tên Nhân, thế c̣n tên cô?
Cô gái có phần dạn dĩ hơn.
-Dạ em tên Hoá...
Nàng nói tên ḿnh một cách rất tự nhiên và đang theo dơi người đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nh́n nàng, Hoá tỏ vẻ thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về ḿnh, Hoá hỏi:
-Anh Nhân mới ra Pleiku?
Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:
-Vâng tôi ra Pleiku đă 3 tháng!... Thế c̣n Hoá?
Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân
Cảnh Tư Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương
Hữu Lạc trưởng pḥng QCTP Pleiku, Hoá nói:
-Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng; sau khi tan trường ở Huế.
Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng t́nh nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đă bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay qua hỏi Nhân:
-Anh Nhân có thường về thăm Huế không?
Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra ḿnh đă ít về Huế, hầu như mỗi năm chỉ một lần. Chàng đă về Huế trước khi thuyên chuyễn lên Pleiku, lần này với lư do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà 15 ngày trước khi trở lại đơn vị.
Trong tiếng ồn của con tàu chiều nay, Nhân im lặng nghĩ về một chuyến bay hai tuần trước đây (vào trung tuần tháng 6 năm 1974). Ngày đó chàng và Phương, một hoa tiêu về nước sau chàng nhưng đă lên Pleiku sau ngày về nước, c̣n chàng th́ về tŕnh diện Vùng IV, phục vụ nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Số giờ bay của chàng trội hơn Phương, nhưng v́ mới ra vùng cao nguyên nên Nhân phải ngồi ghế hoa tiêu phụ. Khi bay, Phương ngồi ghế hoa tiêu chính. Phương đă dí dỏm nói với Nhân khi ngồi vào ghế lái:
-Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.
Nhân mỉm cười, v́ ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot) của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đă trải qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều rất nghiêm trọng, v́ t́nh h́nh hai toán Lôi Hổ vào ḷng địch trước đây đă bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, th́ bị phát giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch; nằm sát biên giới Việt Lào. Phương và Nhân vào pḥng hành quân để tham dự buổi thuyết tŕnh của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, v́ sứ mạng hôm nay là bằng mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người này, sáng nay đă liên lạc về cho biết là họ đă hoàn thành nhiệm vụ, nhưng suốt đêm qua đă phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp cận biên giới.
Những tháng cuối năm 1971, Nhân đă có dịp bay những phi vụ với các toán Lôi Hổ từ căn cứ B-15 tại Quăng Lợi. Họ được đưa lên phi trường Lộc Ninh, để thả xuống vùng tiếp cận biên giới Việt Miên. Đây là lần đầu Út và Nhân tham dự vào việc thả toán. Út, một người đàn anh về phi đoàn trước chàng, trước đó Út và Nhân đă cùng bay với hợp đoàn của Mỹ, cho nên hai người không thấy có ǵ nghiêm trọng cả. Họ từng bay chung với một hoả lực hùng hậu, có hai chiếc Cobra, và hợp đoàn hai chiếc UH-1, với một OH-6 mà chàng thường gọi là máy bay hột vịt, đây là một loại máy bay rất hữu dụng trong môi trường, vừa có thể oanh kích và bắt sống. Trên ṿm trời lúc ấy, c̣n có một máy bay điều động C&C và một máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm. Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ v́ "điếc nên không sợ súng chăng" ?... Bây giờ Út đă ra đi, c̣n Nhân thuyên chuyển ra Pleiku.
Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt này, Nhân đă được một anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để pḥng hờ cho việc mưu sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn c̣n đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô thị, c̣n họ th́ lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có dịp để nghĩ về tương lai của chính ḿnh. Họ là những người lính âm thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp này để chuẩn bị đi vào ḷng đất địch.

Hợp đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào vùng biên giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán sáu người đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú đóng. Mọi người được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho biết: "Chắc đến 1 hay 2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người này ra đến gần băi đáp." Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa, sau đó Phương rủ anh em vào một quán nước nghèo nàn bên góc phố, uống cà phê để được tỉnh táo. Hôm ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đă tỏ bày những nỗi niềm của anh từ ngày anh xa vắng Sài G̣n, nơi người bạn gái anh hằng thư từ, và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về một mối t́nh của một cô nữ sinh, với anh. Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở mái trường Đại Học với nhiều lần hẹn ḥ. Giờ đây với nghiệp bay trên vai, anh hẹn với người bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Đô. Ngày ấy cũng là lúc em học xong Đại Học Sư Phạm. Họ đă ước hẹn một tương lai thật đẹp với nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với nàng sau mỗi chuyến bay. Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con của họ. Đó cũng chính là những h́nh ảnh Phương và người bạn gái từng mong đợi. Họ sẽ thực hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài G̣n vào dịp cuối năm này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một vóc dáng rất thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi, anh được bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của một nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.
Hôm nay Phương và Nhân nhận lănh phi vụ bay vào ḷng địch để bốc toán thám sát sáu người. Đáng lư ra, người bay chiếc số hai của phi vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa Huyên đă nhận lệnh cất cánh đi tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới phía Tây Bắc Kontum. Phương và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành đem theo: chiếc bản đồ có đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu. Tuần trước Nhân t́m cách đổi chiếc radio của ḿnh, v́ chỉ chiếc radio cũ chỉ có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Pḥng Tiếp Liệu Cấp Cứu Phi Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đă tiếp tục đi bay với radio không nhận được tín hiệu Đúng 3 giờ chiều, khi sĩ quan tiền sát báo cáo là, đă nhận được tin tức toán trinh sát đang trên đường tiến về phiá mục tiêu,
Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên ṿm trời ngoài chiếc C&C của Đại Úy Hoàng, c̣n có chiếc U-17 của sĩ quan tiền sát, hai chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi lead, chiếc của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum được 15 phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn Charlie nơi Tr/tá Nguyễn Đ́nh Bảo đă ở lại vào mùa hè đỏ lửøa 1972. Nhân tiến sâu vào những vùng núi cao của dăy Trường Sơn, bên dưới phi cơ là những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài cánh chim đang bay lượn trên ṿm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến dần đến tọa độ điểm hẹn, tiếng của Đại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:
-Số hai, vị trí băi đáp bên phải của anh.
Nhân trả lời:
-Số hai, nghe năm.
Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên băi đáp bên phải của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.
Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:
-Có ground fire!...
Bên kia vô tuyến Đ/uư Hoàng đáp lại:
-Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!
Phương trả lời:
-Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.
Tiếng đạn bắn lên đă ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm dần tốc độ. Băi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra trên băi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một thân cây mục giữa Băi đáp. Trong suốt đoạn đường vào băi đáp thật yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rất đáng lo , v́ lực lượng địch quân đang trú đóng quanh đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ. Con tàu chưa chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy lên. Phương đang giữ tàu ở vị thế
Hovering, và tiếp tục cất cánh. Nhân quan sát các đồng hồ, xong nh́n lên những thân cây cao trước con tàu. Đấy là những thân cây cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế nhấc thẳng vội vă, Nhân vừa thở xoà khi vừa ra được khỏi băi đáp.
Cùng lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn pḥng không đang bắn trực xạ vào tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương ngồi. Nhân thấy một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của Phương, con tàu như khựng lại.
Chàng nh́n thấy Phương đă buông cần lái và đầu cúi gục xuống. Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo cần lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không c̣n sức nâng, cần Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đă bị trúng đạn!... Con tàu tiếp tục lao
xuống, Nhân cố kéo cần lái để b́nh phi. Hệ thống thủy điều đă bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất khó điều khiển. Sau khi b́nh phi được rồi, con tàu lại đâm đầu xuống.
Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh hoàng.
Một thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào núi, bề mặt ṿng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ thế lao tới, và trước mặt là một thân cây to cao.
Hai cánh quạt chính chặt vào cây, cánh quạt trước đă nổ tan tành, thân tàu đă xen vào thân cây. Càng đáp bên trái vừa chạm đất, thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào thân cây, đồng thời là tiếng hú của máy thật lớn!...
Sáu anh Lôi Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Đại (cơ Phi) và Tài (xạ Thủ) theo họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân tiếp tục lo tắt máy để hy vọng tắt đi tiếng ồn.
Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật vào vị trí OFF, nhưng tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê rợn như một con thú bị cắt tiết.
Nhân nh́n qua Phương một lần nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay. Từ phiá đằng sau ghế ngồi của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương, cố gắng tháo dây nịt an toàn cho người bạn của ḿnh. Nhân dùng hai tay xốc nách Phương và rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng, nhưng không làm sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được. Nhân nh́n quanh để t́m người giúp, nhưng chung quanh chỉ c̣n lại mỗi ḿnh chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đă vội vàng đi theo các anh Lôi Hổ. Nhân đành bó tay, và có ư nghĩ rằng chính Phương đă không muốn chàng liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.
Nhân nh́n lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá cửa sau để ra khỏi tàu!...
Khi đă ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ t́nh trạng của con tàu, chiếc cánh quạt đuôi vẫn c̣n đang quay tít. Một cành cây đă đập vào phần sau máy cạnh ống khói, có lẽ đó là lư do tại sao tàu không tắt máy được. Nh́n ra bờ rừng th́ cây cối dày đặc, tầm nh́n không quá 10 mét. Nhân lần bước tiến lên t́m một lối đi, chợt chàng nh́n thấy một cây súng cá nhân AR-15 không có đạn. Ai đó đă bỏ lại trên lối đi, Nhân cũng không màng lượm lên. Đi được một khoảng thời gian, cái túi bay trên tay chàng trở nên nặng nề, v́ trong túi bay Nhân đă để dây nịt, dao, cây súng cá nhân P-38, cùng nón bay. Để khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc radio rồi dấu chiếc túi bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp tục bước lên dốc núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên người. Càng lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc. Nhân cố chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng hú vẫn c̣n ở bên dưới chân núi vọng lên. Chàng len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống thật rộng. Nhân nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại đây chính là băi đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đă bốc toán Lôi Hổ. Nhận ra vị trí này, Nhân vội nép ḿnh sau một bụi trúc tương đối rậm, và nh́n ra khoảng trống quan sát. Trên ṿm trời có tiếng của chiếc U-17 đang bay trên một độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio trong túi quần, Nhân lôi nó ra và mở máy liên lạc.
-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi Thiên-Sứ (danh hiệu của chiếc U-17 trên ṿm trời) - Nếu bạn nghe được tiếng của tôi, xin lắc cánh. ...
Nhân lập lại một lần nữa, th́ thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót màu trắng có loang vết máu của Phương văng vào người chàng, lúc Phương bị trúng đạn. Nhân vội mặc lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên một khoảng trống để cho chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên băi vừa đáp. Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu báo cáo t́nh trạng của chàng dưới đất:
-Phương đă chết trên ghế lái, và xác c̣n ở lại trên tàu - Sáu anh Lôi Hổ đă dẫn theo Đại và Tài, c̣n chỉ một ḿnh tôi đang nằm cạnh băi đáp. Khi chàng vừa nói tới đây th́ thấy bên kia bờ rừng có bóng bốn người bước ra, Nhân vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc U-17:
-Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và các người bên dưới.
Gọi xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe điều này, vội vă rời khỏi vùng. Bốn người lạ từ bên kia bờ rừng đang tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt đầu tṛ chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát từng người trong bọn họ, chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao như mái tóc của lính tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải kaki Nam Định. Trên tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn ṇng, dành cho những người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:
" Đám này chính là những người lính Bắc Việt!... " Chàng vội nằm sát xuống đất không động đậy, mắt vẫn theo dơi những bóng người giữa băi đáp. Không c̣n nghe tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ này vẫn ngồi chờ một hồi lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng dậy, và đi ngược dốc tiến về bờ cây để lùng t́m. Hai người này vừa đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi cây, họ đi cặp theo bià của trảng, và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân đang núp. Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn c̣n vọng lên, nghe thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi Nhân ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng không có vũ khí để tự vệ, th́ làm sao để đối phó đây? ... Những ư tưởng vút nhanh trong đầu Nhân:
" Chắc là không c̣n hy vọng gặp lại gia đ́nh nữa rồi!... Hoặc là bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán lính Lôi Hổ kia!... Có ai ngờ rằng chàng nằm lại nơi b́a rừng này!... Chắc là Mẹ chàng sẽ không c̣n nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân vẫn không quên mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nh́n ra sân, như chờ đợi bóng dáng đứa con đầu ḷng của Mẹ. Đôi mắt mẹ chàng nhạt nhoà lệ, đă khóc oà lên khi nh́n thấy chàng từ đầu ngơ. Hai người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng nằm. Phiá bên kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một gần. Nhân như điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt đất, mắt vẫn không rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi sát mặt xuống nghe ngóng và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng vọng lên:
-Các đồng chí chờ chúng tôi.
Hai tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập cùng với đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng người đang vội vă hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú lên v́ mất đi đôi cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn c̣n có một người đang quan sát họ từng giây, từng phút.


Chờ cho bốn người kia đi đă khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược lên về phía bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo các đọt trúc, cắn vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt nước hiếm hoi trong các đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm hướng Đông-Nam (hướng Kontum) tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đă học được từ kinh nghiệm Hướng Đạo, “dùng vết rêu trên thân cây để định hướng” bây giờ là lúc chàng áp dụng bài học mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Nhân nhớ lại ngày nào tại vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đă cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người cùng được ăn món cháo rắn do mấy anh Cán bộ đăi, sau một ngày tập dợt mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, c̣n rừng Trường-Sơn th́ dày đặc, 10 mét đă không c̣n thấy lối đi!...
Nhân ṃ mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện ǵ đang xảy ra cho số phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám rừng già. Có những khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng cách đưa lưng ra phiá trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ khắp lối đi này. Những cây gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải Nomex chàng mặc trên người, nhưng chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu đựng như ư chí kiên tŕ của chàng.
Nhân vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, th́ thấy ngay trước mặt một bờ rừng thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải nếu phải băng qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp theo bờ rừng viền bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại cây con nào có thể mọc, lá tre rụng trắng cả một b́a rừng. trong lúc đang tiến bước Nhân chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm, chàng rụt rè bước qua cửa hầm.

Nhân chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại gần, chàng nhận thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào đó đă chuồi trên các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên dưới. Nhân tiến lên thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này, chàng c̣n nhận ra có một dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái ǵ đó cạnh bên lối đi, không được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước, chàng càng nhận ra có nhiều dấu chân ngay hướng trước mặt ḿnh. Bất chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt phía trước, Nhân vội cúi thấp người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng nhận thấy có nhiều bóng người thấp thoáng phiá trước. Chàng đếm được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ đầu đến chân. Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải xanh kaki, trên lưng có mang túi ba-lô và nhiều b́nh biđông nước. Nh́n xuống đất, chàng nhận ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân quyết định nằm rạp xuống, và gọi vọng lên phiá trước:
-Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với. ...
Nhân nghe một loạt tiếng đạn lên ṇng, những bóng người phía trước chàng đều ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng hướng về phiá chàng, quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di động nào, là họ sẽ nổ súng ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy, chờ một giây lát, rồi chàng lại lên tiếng gọi một lần nữa:
-Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.
Trong rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi xuất phát của âm thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Đại và Tài nhận ra tiếng của Nhân, nên Đại đă la lên:
-Trung Úy Nhân đây rồi, ... Đừng bắn, đừng bắn. ..
Lúc ấy Đại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn gh́m súng hướng về phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp c̣ nếu có ǵ nguy hiểm.
Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Đại và Tài nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:
-Đừng bắn, đừng bắn. ..
Mọi người hú vía, v́ trong rừng già, bất cứ một vật ǵ nghi ngờ lay động, vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp c̣. Đại và Tài c̣n đeo cây Colt-45 của họ, c̣n Nhân th́ đă để cây súng P-38 của ḿnh trong tuí bay, cái tuí bay này đă nằm lại bên một b́a rừng!....
Trưởng toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất thân từ trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Gặp Nhân mọi người rất mừng, và tỏ bày ân hận là suưt nữa đă bóp c̣. Người Chuẩn Úy trưởng toán c̣n cho biết đây là chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn vị, anh lo lắng hỏi Nhân:
-Liệu có ai đến bốc ḿnh không Trung Úy?
Nhân nh́n đồng hồ, đă 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:
-Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ t́m cách bốc chúng ta ngay chiều nay.
Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực sẽ được như vậy hay không?
Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng b́nh bi-đông nước và dặn ḍ:
-Trung Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ bị ngất xỉu đó. Chàng nhận b́nh bi-đông nước và làm theo lời của người trưởng toán, chợt Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc năy chàng nghe khi c̣n ở trong rừng, chàng hỏi:
-Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các tiếng nổ này không? Người trưởng toán kể lại:
-Đó là tiếng lựu đạn do tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để t́m bốc Trung Úy, nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang đứng cạnh tàu, nên đă tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung Úy mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đă rút ra xa rồi. Nhân buột miệng:
-Th́ ra là thế!...
Mọi người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những giây leo chằng chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống dốc để đi qua một ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con đường ṃn trước mặt. Tất cả t́m cách băng qua con đường ṃn này, các anh trong toán thám sát chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán, Nhân, Tài và Đại cùng bám sát theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất, từ chỗ núp anh chọi một ḥn đá ra giữa đường và chờ đợi. Mọi người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con đường đất đỏ, do
xe Công Binh đă xén núi mở đường, bề ngang con lộ đủ để hai chiếc xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên bờ vách đất đỏ cao nghệu, c̣n bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi đá ḍ dẩm mà không thấy một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp, cùng leo lên con đường đất đỏ. Tài và Đại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân đi theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân c̣n đeo lủng lẳng cái b́nh bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo lên. Leo được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất b́nh bi-đông nước;!... Chiếc bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không c̣n ai bên dưới cả. Nhân nh́n qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng bận tâm nữa, Nhân gật đầu hiểu ư và tiếp tục leo lên theo người trưởng toán và anh cận vệ của anh.
Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Đông-Nam tiến bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại v́ cơn mưa lớn đang kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa trút nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh. Nhân nh́n những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt, chàng nghĩ bâng quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó. Người Chuẩn Úy trưởng toán ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao cho Nhân một nửa và cùng châm lửa hút. Chàng rít một hơi thật dài, như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét mướt của núi rừng. Tinh thần chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị mà chàng không thể nào quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro t́m hơi ấm qua nửa điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành. Bỗng dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra dấu hiệu cho cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để t́m sự che chắn. Bên dưới có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng lại. Nhân nghe có tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên vọng về phía bức tường đất nơi c̣n để lại các vết giày và chiếc bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn chàng ngồi co rút bên các gốc cây và không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn nặng hạt. Điếu thuốc đă tàn từ lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh người trưởng toán, chàng tin tưởng về sự đối phó của toán người trẻ này. Nhân chỉ biết sơ qua trong thời gian thụ huấn quân sự ở trường, và chưa bao giờ đụng trận để có những kinh nghiệm như các bạn trẻ này. Khi đi rừng họ rất giữ kỷ luật, và rất rành rẽ về bổn phận của ḿnh. Tài và Đại cũng bám sát theo các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của ḿnh. Mười phút sau có tiếng máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo lên, lần theo dấu vết để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu cho cả bọn tiếp tục hành tŕnh trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng rậm nên sự di chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc radio cấp cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút công tắc lên đă nghe tiếng:
- .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu không chúng tôi sẽ quay về.
Nhân vội đáp lời:
-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rơ.
Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:
-Liệu họ có bốc ḿnh ngay chiều nay không Trung Úy?...
Chàng gật đầu đáp:
-Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.
Chiếc máy bay L-19 đă nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi tiếp:
-Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân đáp lại:
-Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu mọi người:
-Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây để đánh dấu vị trí của ḿnh. Xong Nhân gọi:
-Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu không?
-OK... Chúng tôi đă nhận ra vị trí của bạn.
Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio t́m cứu, Nhân nói tiếp :
-Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...
Nh́n con tàu như cánh chuồn chuồn trên ṿm trời chiều ảm đạm dưới cơn mưa, Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi vào vùng binh lửa, để cứu vớt bạn đồng đội ḿnh.
-Lạc Long, yêu cầu các bạn tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy trời sắp tối rồi, nên vội đáp :
-Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi yêu cầu bạn bay thấp, và định hướng cho chúng tôi di chuyển th́ nhanh hơn. Bạn nghe rơ trả lời?... Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp qua đầu Nhân để chỉ hướng ra băi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng chỉ dẫn này. Băi bốc là một vùng đất khá rộng, chung quanh c̣n thấy các hố bom. Nhân và mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm băi đáp.
-Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn
-Lạc Long, nghe năm trên năm.
Người trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ, rồi một người nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực thăng tiến lại gần.
-L-19, chúng tôi đă đánh dấu khói đỏ tại băi đáp.
-Lạc Long, trực thăng đă thấy băi đáp. Chúc các bạn An Lành trở về.
-L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.
Nhân quay lại nh́n những người đồng hành với ḿnh, Đại và Tài bám sát kế bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác băi đáp. Nhân nh́n đồng hồ đă 7 giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ không c̣n sự an toàn để việc thực hiện việc t́m cứu như thế này. Nhân e ngại nh́n chiếc trực thăng đang tiến vào băi đáp chật hẹp, bên dưới nhiều cây con lô nhô chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng t́m cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở vị thế hovering, để cả chín người cùng leo lên: Nhân, Tài, Đại và sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng đă lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ trên tàu clear chung quanh để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn hằng loạt đạn M60 vào b́a rừng, để uy hiếp. Nhân nh́n qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Đ́nh Minh, trưởng phi cơ và Lâm Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn, Minh báo cáo trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nh́n mọi người tươi nụ cười hiền ḥa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và Chuẩn Úy Liêm trưởng toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi hướng đi thẳng về Pleiku thay v́ về đáp tại Kontum.

Miêng mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian và không gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến C47 chiều nay. Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm ḍ những cử chỉ và chờ đợi, rồi nàng cất tiếng:
- Anh đang miêng mang chuyện ǵ mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:
- Tôi đă nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia cách của những người t́nh của “Lính”, và gia-đ́nh của họ qua một phi vụ hai tuần trước đây.
- Anh kể lại cho Hoá nghe với.
Chàng gật đầu như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể trong những ngày ghé Huế, về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một chuyến bay với bao hiểm nguy, đă mất đi một người bạn - một chiến hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu giảm tốc độ và chuẩn bị để đáp, con tàu sau khi lượn một ṿng qua thành phố đă hạ cánh đáp nhẹ nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để vào đậu cạnh khu hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Đà Nẵng. Hành khách theo nhau xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh Không Quân chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá 7/68 Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:
- Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng ḿnh ra phố. Nàng gật đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay v́ đi theo những hành khách để đi vào trong. Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:
- Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:
- Nhân đây, Anh khoẻ không?
Kim gật đầu và nói:
- Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với phi hành đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài G̣n ngay.
Nhân ghé qua Hoá nói:
- Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Đà Nẵng.
Nàng cúi đầu chào:
- Hoá chào anh Kim.
Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi thăm nàng:
- Chiều nay em về đâu?
Hoá trả lời:
- Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và sáng mai em đón xe ra Huế, c̣n anh?... Chàng trả lời:
- Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết điạ chỉ của gia-đ́nh ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:
- Đây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:
- Ngày mốt anh (bổng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được không?
Nàng trả lời:
- Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:
- Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh bèo bên dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:
- Và nhớ kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh đó.Nhân gật đầu và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng đưa tay ra bắt và họ ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim tiến lại gần chào nói:
- Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...
Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:
- Anh ở lại làm việc trể quá vậy!
Kim đáp lại:
- Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm, chúng tôi tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và rời Đà Nẵng, để xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đ́nh.Kim nói tiếp:
- Tôi đă liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy một xe buưt chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến khi các hành khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất cánh lúc ấy Kim mới cho xe chạy, chàng quay qua:
- Xin lổi Nhân và chị nghe, tôi đă bắt hai người phải chờ, anh chàng cũng dí dỏm:
- Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:
- Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được không anh Kim?...Kim trả lời:
- Tôi sẽ đưa anh chị đi!...
Hoá xen vào:
- Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện tṛ lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:
- Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều theo ư của cô, sau đó chúng ta đi phố.
Kim Tiếp:
- Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...
Nhân tiếp lời cho Hoá:
- Không sao, c̣n nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ qua đường Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngă tư, Kim hiểu ư và tấp vào lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:
- Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh Kim...
Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay qua Nhân:
- Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...
Nhân gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và siết nhẹ với đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái khuất vào trong nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch Đằng và đậu bên một quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đă có dịp chuyện tṛ về những buồn vui của đời lính, về thân phận của ḿnh trong từng vị trí hiện hữu, Kim cũng kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là
những mất mát mà anh đă chứng kiến trong những trận pháo kích vào phi trường vào đơn vị của anh. Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đă vui tạm qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó ai nấy trở lại với thực tại, với bổn phận và trách nhiệm của ḿnh.

Trong hơi men Nhân nh́n ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn, chàng lại đắm vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây, nh́n qua bóng đêm nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố nhà nhà đă lên đèn. Trên trời cao những v́ sao đă lấp lánh, bên dưới là dăy Trường Sơn, với những bờ rừng âm u đang ch́m khuất trong bóng đêm đen như mực. Nhân vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật. Trung Úy Phan Văn Phương đă vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u kia. Ở Sàig̣n, vào lúc này, vẫn c̣n một cô giáo đang chờ đợi Phương trở về, với lời ước hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán chuyển cuối năm. Giờ đây người Không quân tác chiến này không bao giờ thực hiện được lời ước hẹn này với cô!... Chiến tranh và số mệnh đă lấy đi tất cả những ước hẹn của Phương và một cô giáo đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng đang thản nhiên lấy đi một người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang tóc oan nghiệt đến gia đ́nh Phan Văn Phương!.... Trung uư Phan Văn Phương b́nh thản, xuôi tay trong con tàu của ḿnh, sau một phi vụ không hề biết trước được lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của ḿnh ở chiến trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn Đ́nh Bảo, Nguyễn văn Đương, và nhiều người khác nữa ... Những anh hùng không tiếc một điều ǵ cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương sẽ hoá thành một loài chim trên ṿm trời xanh thật an b́nh. Nơi vùng trời này sẽ không c̣n hận thù, không c̣n những nổi niềm đau xót về đất nước, về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước chiến tranh và bom đạn điêu linh.

Phan Minh
 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại