(Một câu chuyện hoàn toàn có thật. Tác giả xin được kể lại nhân dịp
30 năm từ ngày miền Nam thất thủ)
Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại.
Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng
Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là
một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đă có
hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban
chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lănh
miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày
ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe
đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50
thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ
"đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều
trước tiên chúng tôi nh́n thấy là anh ta chỉ c̣n một cánh tay. Một
nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống
và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột
ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có
cùng một suy nghĩ: - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như
thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở
nụ cười. Nh́n khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi
cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên ḿnh:
Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh
đưa cho anh đội trưởng một tập vở học tṛ, phát cho anh em mỗi người
một tờ giấy để làm bản "lư lịch trích ngang".
Tôi đang ngồi hư hoáy viết cái bản kê khai lư lịch ba đời với bao
nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đă thuộc ḷng từ lâu lắm
- bởi đă phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức
lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
Image
- Trong này có anh nào thuộc Sư 23 ?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng :
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Anh ở trung đoàn mấy.
- Trung Đoàn 44.
- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ c̣n cái tay áo đong
đưa, lên :
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nh́n qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy
lại b́nh tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động :
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nh́n quanh, rồi hạ giọng tiếp tục :
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi c̣n có
2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài,
nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
- Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi
được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi c̣n
sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có
hiệp định Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm.
Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh
em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh
quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng
thực ra anh chỉ tâm t́nh những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi
hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ ǵn sức
khỏe, đừng làm điều ǵ sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ
nặng lời. Anh thường nói:
- Tôi rất đau ḷng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi
biết các anh đều là những người có tŕnh độ văn hóa và ai cũng đă
từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù
chỉ có một miếng bánh ḿ đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát
bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh
em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo
dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả
thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố
nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nh́n ra cánh đồng phía trước,
thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy
lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp
lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
- Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào,
chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng.
Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài
đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một
buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một
đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xă nào đó. Sắn đầu mùa, củ c̣n
nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn c̣n nguyên;
đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luột sắn mà không ai phát hiện có
khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn
dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại
đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức
khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố đă đào sẵn.
Image
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no
-dù chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đă báo
cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đă phát được bao
nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra băi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ :
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt th́ ta nghỉ. Nhớ giữ ǵn sức
khỏe, v́ thời gian cải tạo c̣n dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về
nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lănh được, anh mua mấy
bánh thuốc lào, vài kư kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm
sự thật nhiều với anh em:
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đă chết. Vết
thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một ḿnh, không có thức
ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn
vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi
ăn uống, tận t́nh săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân
phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến
đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy
ṿng, th́ vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị
thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng
chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi,
rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người
chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần
ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện
chữa trị. Anh c̣n cho tôi nửa bao thuốc lá c̣n lại của anh, bảo tôi
hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi
được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù
tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận t́nh. Tất
cả đă đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến
ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi
tôi thật chân t́nh. Vết thương vừa lành, th́ tôi được lệnh trao trả
tù binh. Khi chia tay, bệnh viện c̣n cho tôi nhiều thuốc men và một
số đồ dùng. Ḷng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước t́nh
con người, t́nh dân tộc mà các anh đă dành cho tôi. T́nh cảm ấy tôi
chôn chặt tận đáy ḷng, không dám tâm sự cùng ai, v́ ḷng tôi lúc
nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80
đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ b́nh tĩnh, nhưng rơ ràng là giọng nói của anh sắp
nghẹn ngào.
- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có c̣n tin cậy anh không? - một anh
tù hỏi.
- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những
thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh pḥng nhiễm
trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải t́m cách vất đi. Trước khi
đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và
lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói
điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính
v́ vậy mà ḷng tôi cứ dằng vặt măi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ,
Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù c̣n vương trên thung lũng trại tù,
một người đạp chiếc xe đạp vội vă rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo
theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh
em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù
vừa mới thức dậy, c̣n ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà
không nh́n lại, đưa cánh tay chỉ c̣n một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến
dạng trước cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi
và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc
tế hai ngày th́ gặp băo. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên
chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore,
cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền
trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết ḷng săn sóc lo
lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn
Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả
thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy
đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi
những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại
sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng
tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh
em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ
để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không
cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết ḷng đùm bọc yêu thương.
Mang cái ân t́nh đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời c̣n
lại của ḿnh.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần
nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong
tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng
ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà c̣n có được
tấm ḷng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không
biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện
trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng
nghiệp c̣n trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân t́nh.
Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm
ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, th́ anh bạn Nauy này lại được
nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến
thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, v́
cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với
vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một
nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nh́n thấy tấm ảnh của tôi treo
trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái
ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự
nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai
người c̣n đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên
Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và
quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đă có chồng và một đứa con
trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một
cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực
tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh
chồng đă cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem
việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói
những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp
chương tŕnh Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND
Đức (Đông Đức) bỗng chốc không c̣n nữa. Cô không về nước mà t́m cách
trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn
liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lănh sang Nauy.
Biết cô thuộc gia đ́nh một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được
du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không
hỏi v́ sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô
trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp
đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa
nh́n ra được một điều ǵ đó. Trở về Việt Nam, ông không c̣n được nhà
nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất măn, cả ngày nằm nhà
không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam
thăm gia đ́nh, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin
mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn
văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số
tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh t́m và trao lại cho
anh, như để tỏ chút ḷng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong
đám bùn lầy nước đọng mà vẫn c̣n giữ sạch được tấm ḷng. Việc t́m
anh không phải dễ dàng, v́ chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong
mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "ông Nguyễn văn Thà, gốc
Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải
tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa
sẽ t́m đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là
cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc pḥng. Cô sẽ nhờ ông ta
t́m hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông
chú của cô không t́m thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ
quan. Ông đoán là anh ta đă bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đă đích
thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối
cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó
có ghi số điện thoại của tôi. Cô c̣n cho biết là nhân tiện có mặt ở
Nghệ Tĩnh th́ cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng ǵ, v́ chỉ
một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái,
để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không c̣n
ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật
ḿnh tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu,
nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai
gọi điện thoại th́ phải có điều ǵ khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe.
Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe.
Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại
tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là ḿnh đă
quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng :
- Bác có c̣n nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là ǵ của ông Thà, và
sao lại ở Ba-Lan?
- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn
cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự năo nề của cô gái. Cô và em trai, tên
Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả
chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo,
vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi
chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu,
chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi
sang lao động, đă không về nước, trốn ở lại. V́ sống bất hợp pháp,
nên không t́m được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán
thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc
hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người
Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở
các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận
thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm
được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đ́nh th́ bị cướp sạch. Một
hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát
hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. V́
vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, c̣n cô Hà th́ đang bị truy nă. Việc
xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
- Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa
cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, th́ bất ngờ nhớ đến lá thư
của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong
trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
- Ba cháu bây giờ làm ǵ?
- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu năo, liệt
nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. V́ vậy nên chị em cháu trốn ở lại
đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh,
em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một
ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen
khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi.
Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu
thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn
Đoàn Kết do ông Walesa lănh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy
bắt, anh đă lấy một chiếc trực thăng, chở gia đ́nh, gồm người vợ và
hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đ́nh
anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian
chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm
sau, th́ t́nh h́nh chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn
Đoàn Kết của ông Walesa lănh đạo đă thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu
làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người
bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn
trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi
thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của
anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm
thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang
giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đ́nh anh
vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi t́m lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng
khi nghe tôi báo tin sang thăm. V́ đi vội, nên tôi chỉ đi một ḿnh.
Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách).
Anh chị c̣n cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ
Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón
nồng hậu mà gia đ́nh anh đă dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám
nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi
cũng phải tâm t́nh cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại
tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện
đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh
ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết ḷng giúp tôi
về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đ́nh
anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lănh Tĩnh, em của Hà từ trại tù
về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đă thức trọn một đêm để tâm t́nh khuyên
lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và
chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra
phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em
Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận t́nh lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em
Hà đă được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại
Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, v́ lớn tuổi, nên
sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một
trường trung học.
* * *
"Các Anh thân quí, Khi ngồi viết nhừng ḍng này cho các anh, thực
t́nh tôi không c̣n nhớ mặt các anh, nhưng tôi c̣n nhớ rất rơ thời
gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các
anh c̣n nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với
số tiền của các anh gởi cho, ḷng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và
gia đ́nh xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói
của Các-Mác: "Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ
của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một
thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đă từ bỏ
Mác, chỉ c̣n một vài nơi lấy Mác làm bức b́nh phong để che đậy những
mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi,
vẫn măi măi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời
theo Mác đă luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác. Chúng tôi
mừng cho các anh đă đưa được gia đ́nh ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết
một người phải bỏ quê hương mà đi, c̣n đau đớn nào hơn. Ngay cả con
cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các
cháu phải ra đi để may ra c̣n t́m được một chút tương lai, giá trị
nào đó của kiếp con người. Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở
trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ
giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi
được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi
bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi
chỉ c̣n một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia
đ́nh. Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em
cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đ́nh, tôi mới c̣n sống được
đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó
khăn ghê lắm, nhưng vẫn c̣n hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày
cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết ḷng giúp hai cháu. Cái ơn
này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây. Tôi biết
ḿnh không c̣n sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rơ
được một điều: Chỉ có cái t́nh con người với nhau mới thực sự quí
giá và tồn tại măi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ,
cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta
được chút nắng, nhưng nhiều lúc đă trút bao cơn mưa lũ xuống để làm
khốn khổ cả nhân gian..."
* * *
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi
nhận được từ anh Thà. Anh đă qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà
kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh
được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh
thầm th́: xin hăy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ
đó lại. Chính nó đă gây biết bao chia ĺa, tang tóc, và sự thù hận
giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến
bao giờ?
Phạm Tín An Ninh
(Vương Quôc Na-Uy)
(1) :
- Người Quận Vạn Ninh,Tỉnh Khánh Ḥa .
- Cựu học sinh trường Trung Học Vơ Tánh, Nha Trang .
- hiện cư ngụ tại Na uy .
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại