Chuyện chưa bao giờ kể.
Nguyễn Nhân Chứng - Tâm Thức Việt Nam
Số phận của ghe vượt vượt biên đi tìm đời sống tự do, dân chủ, hạnh
phúc, ấm no. Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 130
đồng bào trên "ghe ông Cộ" trên đường vượt biển tìm tự do đã bị Việt
cộng tàn sát dã man vào tháng Tư năm 1979 ở đảo Trường Sa, và cũng
để gửi đến các con yêu quý của ba: Chí Dũng, Đông Nghi, Tì Tì.
Trước khi vào chuyện:
Thời gian gần đây, dư luận đồng bào trong và ngoài nước vô cùng phẫn
nộ trước nguồn tin Trung cộng đã xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam
đang săn bắt hải sản chung quanh khu vực đảo Trường Sa thuộc lãnh
hải Việt Nam, gây thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản cho ngư
dân Việt Nam, Đây không phải là lần thứ nhất Trung cộng xả súng bắn
vào ngư dân Việt Nam. Cách đây vài năm, Trung cộng cũng đã xả súng
bắn vào ngư thuyền Việt Nam khiến cho 8 người bị chết và nhiều khác
bị thương, sau đó Trung cộng còn ngang nhiên bắt giam nhiều ngư
thuyền và ngư dân Việt Nam một cách trái phép vô cùng ngang ngược,
bất chấp công pháp quốc tế về luật hàng hải. Đây là hai vụ điển hình
nhất mà dư luận quốc tế có đưa tin và đề cập đến. Dĩ nhiên, là còn
có nhiều vụ khác đã xảy ra nhưng không có người biết đến. Điều đáng
để nói là: nhà cầm quyền Việt cộng đã không có lấy một hành động
đáng kể nào được xem là để bảo vệ công dân của mình trước các hành
động man rợ của Trung cộng. Thái độ nhu nhược và bất lực của Việt
cộng trước việc Trung cộng bắn giết bừa bãi dân lành đã bị đồng bào
nguyền rủa.
Nhưng đâu có ai biết được một câu chuyện đã xảy ra cách đây 28 năm
về trước, cũng tại quần đảo Trường Sa này. Một cuộc tàn sát man rợ
khác đã diễn ra, máu đào loang thắm cả một vùng biển, xác người trôi
vất vưởng làm mồi cho muôn loài cá. Cuộc thảm sát man rợ này đã diễn
ra do chính bộ đội Việt cộng, lực lượng trú đóng trên đảo Trường Sa
ra tay thực hiện. Và..... nạn nhân là hơn 130 đồng bào vượt biển tìm
tự do trên một con thuyền xuất phát từ thành phố Nha Trang. Trung
cộng là giống dân ngoại chủng luôn luôn có ý đồ xâm chiếm Việt Nam
từ hàng ngàn năm nay. Trung cộng bắn giết ngư dân Việt Nam cũng do
bản chất xâm lăng, đồng thời muốn chứng tỏ thế nước lớn của mình đối
với Việt Nam. Thế nhưng, bộ đội Việt cộng xả súng hàng loạt bắn
thẳng vào chính những người cùng một dòng máu, cùng một màu da, cùng
một ngôn ngữ, mà họ gọi là đồng bào, chỉ vì những đồng bào này đã bỏ
nước ra đi vì không chấp nhận một chế độ độc tài cộng sản. Hành động
này của bộ đội Việt cộng đã vượt qua mức tưởng tượng bình thường của
con người. Hành vi tội ác này của chúng nó, ngày nay đã được đảng
cộng sản xóa bỏ để trở thành quá khứ, và những người sống sót trên
con tàu oan nghiệt đó trở thành những khúc ruột xa ngàn dậm theo chủ
trương của đảng, cho dù những người này không và sẽ không bao giờ
quên dược cái đêm kinh hoàng của tháng 4 năm 1979 của 28 năm về
trước. Bộ máy tuyên truyền của đảng Vc giờ đây đang cùng với những
cá nhân, đảng phái đón gió trở cờ đang cùng nhau diễn xuất kịch bản
"xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai " Người sĩ quan bộ đội cộng
sản, người đã trực tiếp ra lịnh thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội
trên đảo Trường Sa 28 năm về trước, nếu còn sống, có lẽ giờ đây đã
biến thành một tay tư bản đỏ giàu sang, và đang ngồi ở vị trí Ủy
viên Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Tác giả câu chuyện này xin được viết ra đây câu chuyện của 28 năm về
trước, như một nén hương lòng thắp muộn để tưởng nhớ đến hơn 130
đồng bào trên " ghe ông Cộ " những người bạn đồng hành của tác giả
đã bất hạnh gục ngã trước những họng súng oan nghiệt của những tên
Việt cộng cuồng sát. Những người còn may mắn sống sót sau cuộc thảm
sát trên, nếu có dịp được đọc những dòng chữ này xin hãy cùng nhau
dành một phút để cầu nguyện cho những bạn đồng hành xấu số của chúng
ta. Những kẻ theo cộng sản là những kẻ cuồng tín, cuồng sát. Cho nên
chúng mới xả súng bắn những người chạy đi, dù là đàn bà hay con trẻ,
trong tay không tấc sắt. Dù chúng đổi tên, thay áo bộ đội, vất nón
cối, bỏ dép râu....
Nguyễn Nhân Chứng.
Chúa ơi cứu con với !
Tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi,
cùng lúc với một dòng nước ấm văng vào mặt đã khiến cho tôi phải lấy
tay vuốt mặt mình và bàng hoàng nhận ra toàn là máu, máu nóng đã ập
vào mặt tôi từ người phụ nữ bên cạnh. Tôi ngẩng cao đầu lên một chút
để nhìn sang bên cạnh, người phụ nữ đang oằn oại với vết thương một
bên đùi vỡ toác do đạn xuyên phá, máu tuôn xối xả. Tôi xót xa nhìn
người phụ nữ đang lăn lộn vì đau đớn, nhưng cũng đành bất lực không
cứu giúp gì được, vì ngay bản thân tôi cũng đang nằm bẹp dí xuống
sàn tàu để tránh đạn.
Đạn vẫn tiếp tục nổ, tiếng rên xiết, la hét, kêu gào, của những
người bị trúng đạn quyện vào nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn
loạn đến rợn người, âm thanh giữa biên giới của sự sống và cái chết
chỉ diễn ra trong một cái nháy mắt, mới còn nghe rên la đó.... một
loạt đạn tiếp theo đã ghim chặt vào thân người, lập tức tiếng rên la
im bặt, một con người đã vĩnh viễn ra đi, những người khác tiếp tục
rên la, chờ đợi loạt đạn tiếp theo cướp lấy mạng sống của mình. Tôi
tự nhủ thầm, muốn sống còn phải rời bỏ con tàu ngay lập tức. Tôi
vùng dậy, và nhận ra con tàu đang chìm dần từ phía sau của thân tàu,
phía trước của con tàu đã bị đạn pháo bắn gãy, đang chổng lên trời.
Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt văng tung tóe, thây người
nằm la liệt, một cảnh tượng hãi hùng mà tôi chưa từng chứng kiến.
Thần kinh tôi tê cứng vì sợ hãi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản
năng sống còn của con người trong tôi bừng sống dậy, tôi lao mình ra
khỏi con tàu phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng biển chụp tới
cuốn tôi rời xa con tàu.. Thật là may mắn, tôi vừa rời xa con tàu
thì dường như cùng một lúc, một trái đạn pháo kích rớt chính xác
ngay giữa con tàu khiến con tàu gãy đôi và chìm xuống biển, mang
theo toàn bộ số người có mặt trên tàu lên tới trên 130 người.
Trên mặt biển bây giờ đã không còn thấy bóng dáng con tàu đâu nữa,
thay vào đó là những vật dụng bể nát của con tàu, những tấm ván bể
nổi trôi lềnh bềnh trên sóng nước. Xác người chết ! xác người chết
trôi nổi quanh tôi, phụ nữ, đàn ông, con nít, già có, trẻ có. Tất
cả, không một ai còn được toàn vẹn thân thể, không một ai còn sống
cả..... Có lẽ tôi là người sống sót duy nhất còn lại của con tàu,
ngoài tôi ra thì chỉ còn lại toàn rặt là xác của người chết. Máu, là
máu, từng vệt loang dài chảy ra từ vết thương của những xác chết,
theo dòng nước trôi quanh tôi. Thủy triều đang lên, tôi rùng mình
nghĩ đến đàn cá mập đói đang lẩn quẩn quanh đây chờ thủy triều lên
cao sẽ theo mùi máu mà kéo đến, thì cho dù tôi có còn sống thì vẫn
phải làm mồi cho đàn cá mập như những xác chết kia mà thôi! Tôi vươn
tay cố gắng chụp lấy một mảnh ván để bám vào, tôi bám chặt vào mãnh
ván, nhắm mắt lại cầu nguyện, dọn mình chờ chết, và trong cái khoảnh
khắc tuyệt vọng đó tôi đã nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những người
thân thương ruột thịt, đã không biết được rằng tôi đã bỏ thây giữa
biển cả và làm mồi cho cá mập. Vĩnh biệt tất cả.......
***
Câu chuyện bắt đầu: Chuẩn bị ra đi tìm tự do, dân
chủ, hạnh phúc, ấm no
3 giờ sáng thành phố Nha Trang vẫn còn chìm trong giấc ngủ, hàng trụ
điện bên đường Nguyễn Thái Học tỏa ánh sáng mờ mờ, soi bóng tôi trên
đường. Vai mang cái phao (loại ruột xe hơi được bơm căng lên) giả
làm dân đi tắm biển sớm (đối với người dân Nha Trang thì việc có
người đi tắm biển vào lúc 3- 4 giờ sáng là chuyện thường) tôi rảo
bước thật nhanh hướng về phía biển cho kịp giờ hẹn. Xuống tới bãi
cát, tôi đưa mắt nhìn quanh dò xét địa thế, bãi biển vắng lặng không
một bóng người, tôi yên tâm cởi bỏ áo ra chỉ mặc chiếc quần cụt, giả
vờ làm vài động tác thể dục trước khi bước xuống nước. Từ xa, về
phía biển có ánh sáng mù mờ của một chiếc thuyền câu đang tiến vào
bờ, tôi lại đảo mắt nhìn quanh kiểm soát lần cuối trước khi rời bãi
cát. Bước xuống nước, tôi nhoài người bơi nhanh về hướng chiếc
thuyền câu, trả lời đúng mật mã, một bàn tay vươn ra kéo tôi lên
chiếc thuyền. Thuyền lướt nhẹ trên mặt biển hướng về "Hòn Tre" cá
nhân tôi thì phải nằm sát xuống khoang thuyền không được ngồi dậy
cho đến khi tới chỗ ẩn nấp ngoài đảo Hòn Tre.
Hòn Tre là một hòn đảo lớn, nằm cách bờ biển và hải cảng Nha Trang
khoảng chừng 6 cây số, cư dân trên đảo này rất ít chỉ chừng vài chục
gia đình, hầu hết đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Nơi đây cũng là
nơi ẩn nấp của các tàu thuyền và ngư dân mỗi khi gặp gió bão. Con
thuyền chạy được chừng hơn tiếng đồng hồ thì tới một cửa động nằm
khuất sâu vào phía trong trên đảo Hòn Tre, rất khó mà tìm thấy nếu
không quen thuộc được địa hình nơi đây. Từ phía ngoài nhìn vào, tôi
chỉ nhìn thấy một màu tối đen, bằng ánh sáng của cái đèn (pin) do
người ngồi trước mũi soi sáng, chiếc thuyền câu từ từ lướt nhẹ vào
động. Tôi được bỏ xuống đây để ẩn trốn chờ đêm đến sẽ ra " tàu lớn
". Một tốp 5 người đàn ông chạy ra đón tôi, ai nấy đều trần như
nhộng, không mặc một thứ gì trên người ( sau này thì tôi cũng như họ
vì không khí trong động rất oi bức khó chịu ) họ là những người đã
đến trước tôi từ đêm hôm trước, cũng để chờ để ra tàu lớn. Trời đã
sáng tỏ, nhưng từ phía bên trong động, chúng tôi nhìn ra bên ngoài
cũng chỉ nhìn thấy được một vệt ánh sáng rất mờ, yếu ớt chiếu sáng
vào trong động. Lúc này trong động chúng tôi cũng đã lờ mờ nhìn thấy
được nhau, thật là một cảnh tượng sống động có một không hai mà
trong cuộc đời của tôi đã được tận mắt nhìn thấy, 5 ông Adam của
thời kỳ hồng hoang, ăn lông ở lỗ, trên người không một mảnh vải che
thân, đang đứng giữa một thạch động thiên nhiên thì thào to nhỏ với
nhau, vì cứ sợ bên ngoài nghe được. Nhưng thật ra thì có hét to lên
cũng chẳng có ai người ta nghe thấy. Không khí trong động đã bắt đầu
oi bức dần lên, tôi cũng phải lột bỏ cái quần cụt mang trên người để
trở thành người tiền sử như những người khác.
Qua câu chuyện, tôi được biết nơi đây là nơi cất giấu dầu chạy máy
dùng cho chuyến vượt biển, mỗi ngày một ít số dầu tồn trữ được tăng
dần lên theo với thời gian, và đây là giai đoạn chót cho nên 5 người
họ đã ở lại luôn trong thạch động, chờ tối nay thì sẽ chuyển sang
tàu lớn. Tôi được chia cho một ít cơm với muối mè đã được vắt cục
lại với nhau để đỡ đói chờ đêm đến ra tàu lớn, nằm ngả lưng trên mặt
đá lởm chởm, tôi liên tưởng đến chuyến vượt biển đêm nay và cầu
nguyện ơn trên cho mọi việc được thông suốt, nghĩ đến gia đình, nghĩ
đến tương lai không biết rồi sẽ đi về đâu, tôi bồi hồi tấc dạ. Đêm
đến, ánh đèn pin từ cửa động chiếu ánh sáng vào, cùng với tiếng
người nói chuyện với nhau. Rõ ràng là không phải những người trong
ban tổ chức, mọi người nín thở chờ đợi, mọi người đều nằm ép sát
mình xuống mặt đá, không dám cử động mạnh, cũng may là từ phía ngoài
nhìn vào thì chỉ thấy một màu tối đen, nên chúng tôi đã không bị
phát giác.
Thời gian chờ đợi tưởng chừng như vô tận, sau cùng thì nhóm người đó
cũng bỏ đi, chúng tôi thở ra nhẹ nhõm. Một anh trong nhóm chúng tôi
cho biết, đó là những người đi "soi mực" ban đêm và anh đoan chắc
rằng họ chỉ vô tình đi lạc vào đây mà thôi. Vào khoảng giữa đêm thì
chiếc thuyền câu liên lạc đã trở lại thông báo cho biết là: tối nay
không thể khởi hành được vì có sự trục trặc do lý do an ninh. Mọi
người lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng đành phải nhận lấy phần lương thực
cho ngày mai và tiếp tục chờ đợi. Thời gian chờ đợi trong thạch động
dường như dài vô tận, chúng tôi chỉ có việc ăn xong rồi nằm hoặc đi
lại cho giãn gân cốt, trò chuyện thì hạn chế tối đa vì lo sợ bị phát
giác. Một ngày một đêm đã trôi qua, mọi người nôn nóng chờ tin từ
con thuyền liên lạc, bóng đêm lại phủ đầy bên ngoài cửa động, con
thuyền liên lạc đã trở lại và tiếp tục báo tin buồn vẫn chưa thể
khởi hành được, chúng tôi nóng ruột thấy rõ, người đưa tin thì chỉ
làm nhiệm vụ đưa tin và chuyển lương thực cho chúng tôi xong thì rút
lui.. Đêm thứ ba, bóng con thuyền đưa tin đã trở lại, lần này có vẻ
hối hả hơn hai đêm trước, theo sau nó là ba chiếc thuyền câu khác
nối đuôi nhau tiến vào thạch động, tôi đoán là giờ khởi hành đã tới.
Quả đúng như tôi dự đoán, chúng tôi được lịnh "bốc" toàn bộ số dầu
chạy máy lên bốn chiếc thuyền câu cùng với mọi người rời thạch động
ra tàu lớn. Giây phút quan trọng đã đến, chúng tôi lần lượt chuyển
hết số dầu lên thuyền, còn chúng tôi thì nằm sát xuống thuyền bên
trên được phủ một tấm nylon để che kín.. Bốn chiếc thuyền câu theo
hàng dọc lặng lẽ rời thạch động hướng về tàu lớn. Khoảng nửa giờ
sau, chúng tôi đã cập được sát tàu lớn đang bỏ neo chờ chúng tôi.
"Tàu lớn" là một chiếc ghe đi biển của ngư dân, dài khoảng 15 thước,
rộng chừng 3 thước, mà dân trong nghề đi biển gọi là "3 lốc đầu
bạc", dầu được chuyển cấp tốc và nhanh chóng lên tàu lớn, chúng tôi
cũng đã lần lượt leo lên tàu lớn. Tàu nhổ neo, chạy ở vận tốc bình
thường như là một chiếc tàu đánh cá bình thường khác đang hoạt động
quanh đó. Tôi leo lên mui tàu tìm chỗ ngồi, tôi đã giật mình kinh
ngạc khi nhìn thấy toàn bộ số người có mặt trên tàu. Đông quá! Chỗ
nào cũng có người ngồi chen chúc, nhưng rồi tôi cũng không lấy làm
quan tâm cho lắm, miễn sao con tàu cứ tiếp tục hướng mũi ra khơi
hướng về Philippines. "Tháng ba bà già đi biển" câu thành ngữ của
những người hành nghề đánh cá, rất đúng trong trường hợp của chuyến
vượt biển đêm nay. Mặt biển phẳng như gương, bầu trời trong vắt với
muôn vì sao lấp lánh. Sau khi đã bỏ xa khu vực đánh cá trong vùng,
con tàu mở hết tốc lực hướng mũi ra khơi. Mặt trời đã ló dạng từ
phía chân trời, trời đã dần sáng tỏ, từ trên mui tàu tôi có dịp quan
sát rõ hơn toàn bộ khung cảnh trên tàu, điều khủng khiếp đập vào mắt
tôi đầu tiên là mặt nước biển chỉ cách bẹ tàu có chừng non 1 thước,
chứng tỏ con tàu đang bị khẳm vì chở quá nặng, con tàu như đang oằn
mình trườn tới phía trước với sức nặng vượt quá mức cho phép.
Trên khoang tàu la liệt là người, trước mũi, sau khoang, chỗ nào
cũng có người. Nắng đã lên cao, tuy mới sáng sớm nhưng nắng giữa đại
dương đã mang lại cái nóng khó chịu trong người rồi, vài người đã
cởi áo ra cũng như tận dụng hết tất cả những gì khả dĩ có thể che
nắng được để tránh cái nắng đã bắt đầu gay gắt. Chỗ duy nhất có thể
tránh nắng được là cabin tàu đã được dành riêng cho gia đình chủ
tàu, các hầm tàu bình thường dùng để làm nơi chứa cá sau khi thu
hoạch được, đã được gỡ bốc nắp hầm đi dùng làm nơi tránh nắng, nhưng
có lẽ dưới hầm tàu không khí quá ngột ngạt oi bức nên cứ chốc chốc
lại có người trồi lên để hứng lấy khoảng không khí trống trải trên
tàu, có người leo lên khỏi miệng hầm thì cũng có người lại chui
xuống dưới hầm tàu, cái quy trình "cắc cớ" này cứ thế mà tiếp diễn
trong suốt cuộc di hành. Vài tiếng khóc của trẻ em đã nổi lên vì
khát nước, chủ tàu ra lịnh cung cấp nước uống cho mọi người, người
lớn thì được ba nắp " bi đong ", con nít được gấp đôi trong ngày đầu
tiên, cứ cách khoảng chừng 1 giờ đồng hồ thì lại cấp tiếp cho con
nít, người lớn thì phải chịu nhịn lâu hơn. Vì ngồi trên mui cabin
nên tôi đã nói chuyện được với gia đình chủ tàu, theo như họ cho
biết thì chuyến đi đã bị gặp khó khăn do địa điểm bị tiết lộ ra bên
ngoài bởi những người chung vàng cho chuyến đi, do đó thân nhân của
những người này đã "canh me" rất sát chuyến đi. Đó cũng là lý do
khiến chúng tôi phải chờ đợi trong thạch động hết hai ngày đêm, đêm
thứ ba chủ tàu quyết định phải ra đi bằng mọi giá trước khi việc đổ
bể. Tàu cập sát bờ biển nơi "kho gạo" để bốc người, số người dự trù
chính thức là gần 60 người. Không ngờ, khi tàu cập vào bờ thì người
ở mọi ngõ ngách túa ra leo lên tàu, và vì không muốn bị lộ nên chủ
tàu đành phải chở hết số khách không có trong danh sách, sau khi
kiểm soát lại thì được biết là con số người đã lên đến hơn 130
người.
Trời đã vào chiều, gió thổi lạnh, một đàn cá heo "dolphin" bơi cập
theo hông tàu trông rất đẹp mắt, mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống
chân trời, bóng tối bắt đầu phủ xuống, con trăng thượng tuần treo lơ
lửng trên đầu, bóng con tàu trông thật cô đơn giữa biển cả mênh
mông, con người đã trở nên vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, đâu đó
văng vẳng tiếng cầu nguyện, lúc đầu nhỏ, sau to dần lên, và không
hẹn hầu như mọi người trên tàu đều cầu nguyện theo tôn giáo mình.
Biển hoàn toàn vắng lặng, không có bóng một con tàu nào qua lại,
không gian là một màu đen che phủ đến lạnh người, con tàu vẫn lầm
lũi lướt tới, tôi được anh tài công người của chủ tàu đưa cho một "
tấm bạt " loang đầy dầu mỡ để che lạnh, tôi cùng vài người khác quây
quần phía bên trong tấm bạt cho bớt lạnh. Một ngày một đêm đã trôi
qua trong an bình, mọi người thầm cảm tạ ơn trên đã che chở cho con
tàu. Ngày thứ hai, nắng dường như gay gắt hơn, nắng như đổ lửa xuống
những tấm thân đã rộp lên vì bị phỏng nắng, tiếng con nít khóc vang
trời. Nước ! Nước đã trở thành một thứ quan yếu bật nhất trên tàu,
chủ tàu đã cử bốn thanh niên lực lưỡng đứng canh gác khu vực để
nước. con nít được ưu tiên tăng lượng nước uống lên từ 6 nắp lên 8
nắp, nhưng người lớn thì bị giảm xuống chỉ còn có một nắp mà thôi.
Ngày qua đi, đêm lại xuống, tiếng kinh cầu lại vang lên, thỉnh
thoảng lại có tiếng nôn oẹ vang lên, đoàn lữ hành nằm dã dượi trân
mình hứng chịu khí hậu lạnh lẽo của đại dương về đêm. Ngày hứng chịu
cái nắng khủng khiếp, đêm về lại phải đón nhận cái lạnh, chỉ mới có
hai ngày mà những con người khốn khổ đã teo hóp lại, sức đề kháng
dường như đã không còn nữa. Ngày thứ hai cũng trôi qua bình an,
nhưng đoàn người thì đã hoàn toàn đuối sức, ai nằm chỗ đó, phó mặc
cho con tàu muốn đưa mình đi tới đâu thì đi. Trưa ngày thứ ba thì
sóng gió đã nổi lên, mặt biển đã không còn phẳng lặng nữa, gió đã
nổi lên kéo mạnh từng cơn, bầu trời vần vũ, mây đen kéo về đen kịt,
từ xa từng ngọn sóng bạc đầu đang kéo tới. Sóng to, gió mạnh, khiến
con tàu chao đảo liên tục, từng cơn sóng cao vời bốc con tàu lên
cao, nhìn xuống dưới là một hố sâu thẳm đến rợn người. Tôi cùng
những người khác trên mui phải leo xuống khoang tàu, vì quá nguy
hiểm nếu cứ tiếp tục ở lại trên mui tàu. Đang ở giữa trưa mà tôi cứ
ngỡ rằng là đang lúc chiều tối vì bầu trời tối đen, chủ tàu trấn an
mọi người rằng: "Đây là chuyện thường thôi, chỉ là "gió Nam", gió
Nam thì mấy người làm nghề biển coi như cơm bữa." Hư thật ra sao
không biết, nhưng mọi người đã quá hoảng sợ và trở nên nhốn nháo,
khiến con tàu đã bị sóng nhồi chao đảo lại thêm tròng trành như muốn
lật úp. Chủ tàu phải hét lớn ra lịnh, không được nhốn nháo, nếu
không muốn tàu bị lật thì ai ở đâu ngồi đó. Con tàu chuyển mình kêu
răng rắc như muốn vỡ ra từng mảnh nhỏ, khiến mọi người đang lúc
hoảng sợ càng thêm hoảng sợ, tiếng than khóc, tiếng gọi nhau vang
lên thảm thiết, người ta dồn cục vào với nhau như để tìm sự che chở
cho nhau.
Mưa đã bắt đầu trút xuống, ngày càng nặng hột hơn, mưa giăng trắng
xóa cả một khoảng không gian rộng lớn giữa đại dương, con tàu vẫn
trồi lên hụp xuống tưởng chừng như muốn hất văng những thuyền nhân
xuống biển. Con tàu đã phải chuyển hướng, không thể nào đi theo
hướng đã định mà phải cập theo sóng để tránh cho tàu khỏi bị lật úp,
người tài công chính của tàu, người nắm giữ sinh mạng của hơn 130
thuyền nhân, giờ đây đang gồng mình ôm chặt bánh lái với sự giúp sức
của hai người khác để giữ cho con tàu khỏi bị lật, giữ cho con tàu
khỏi bị lật đã là một việc vô cùng khó khăn lắm rồi, việc nhận rõ
phương hướng đã không còn được đặt ra nữa. Con tàu đã thật sự lạc
mất phương hướng, mặc cho sóng gió đưa đẩy, mọi người chỉ còn biết
cầu nguyện và phó mặc số mệnh vào sự may rủi mà thôi. Cơn bão vẫn
tiếp tục quần thảo từ trưa đến tối, nhồi con thuyền xoay vòng giữa
cơn bão dữ, những người trên tàu giờ đây đa số đã phải chui vào hầm
tàu để tránh khỏi bị hất văng xuống biển.
Đến tối thì cơn bão chấm dứt, mọi người ngoi ngóp bò dậy, may mắn
thay suốt cơn bão dữ mọi người vẫn được bình an dù đã phải trải qua
một ngày kinh hoàng khiến ai nấy không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc
tiếp tục di hành thêm nữa. Có ánh đèn ! Có ánh đèn ! Một người la
to, rồi nhiều người khác cùng la, cứ tưởng như là mơ. Nhưng quả
thật, từ hướng bên phải của con tàu có ánh đèn leo lét khi ẩn khi
hiện do sự trồi lên hụp xuống của con tàu. Tài công hướng mũi con
tàu chạy thẳng vào nơi có ánh đèn, trông thì gần, nhưng thật ra thì
tàu phải chạy gần hai giờ đồng hồ mới đến được. Càng đến gần thì mọi
người nhận ra đó là một hòn đảo, đảo nhưng có ánh đèn, nghĩa là có
người sinh sống trên đảo. Mọi người mừng rỡ quỳ tạ ơn trên đã dẫn
dắt con tàu đến nơi bình an. Con tàu đang ngon trớn, bỗng nghe
đánh..... ầm một tiếng lớn, tiếng máy tàu gầm rú liên hồi, anh tài
công la lớn "Ghe mắc rạng", anh tài công cố gắng bằng mọi cách để
xoay chuyển con tàu nhưng đành bó tay đứng nhìn, nhìn mũi tàu ghếch
cao ở phía trước, tôi đoán là con tàu đã "cưỡi" lên đá ngầm rồi.
Từng đợt sóng mạnh mẽ đánh vào mạng tàu như muốn phá vỡ con tàu ra
làm trăm mảnh. Nhìn vào phía trong đảo, thấy không còn xa lắm, từ
chỗ con tàu gặp nạn vào đất liền khoảng chừng vài trăm thước. Phải
rời tàu đi tìm phương tiện cấp cứu thôi, có người lên tiếng đề nghị.
Thế là một số trai tráng khỏang chừng 20 người trong đó có tôi, tình
nguyện rời tàu đi vào đảo tìm phương tiện cấp cứu, chúng tôi được
quấn dây thừng thật chặt rồi lần theo đó mà vào chỗ nông hơn để đi
vào bờ, thật may mắn là vào lúc đó thủy triều đang rút xuống cho nên
chúng tôi có thể đi bộ vào đảo được, dưới chân tôi là muôn ngàn
những con cầu gai cùng với các loại vỏ nghêu, vỏ ốc, mà tôi đã phải
giẫm lên khiến cho lòng đôi bàn chân bị cắt đứt ngang dọc, khiến đau
rát buốt óc. Chúng tôi lần mò, nối đuôi nhau tiến vào đảo, đặt chân
được lên bãi cát trên đảo, chúng tôi nằm nhoài ra nghỉ lấy sức. Hồi
tưởng lại cơn bão vừa qua, tôi vẫn còn hãi hùng và thầm cám ơn ơn
trên đã che chở, bằng không có lẽ giờ này chúng tôi đã vùi thây giữa
lòng biển cả rồi. Lấy lại được sức, đoàn người tiếp tục bước sâu vào
trong đảo, riêng tôi thì còn quá mệt nên cũng chẳng vội vã bước theo
họ. Vì lý do đó, cho nên tôi trở thành người cuối cùng ở sau chót
của đoàn người. Bất ngờ, hàng loạt đèn pha từ phía trong đảo bật
sáng chiếu thẳng vào chúng tôi. Có tiếng hô to...... ai đó, đứng
lại, vào đây làm gì? Lúc đầu chúng tôi nghe không rõ vì gió biển
thổi cùng với tiếng sóng, hơn nữa họ lại nói tiếng Việt phát âm
giọng Bắc khiến chúng tôi ngỡ là một thứ tiếng ngoại quốc, có thể là
tiếng Phi. Chúng tôi đã vô cùng mừng rỡ vì biết được mình đã tới nơi
chốn mà mình muốn.
Chúng tôi vừa đưa cả hai tay lên trời, vừa làm dấu cho họ biết rằng
chúng tôi đến đây là do thiện chí và cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng
càng đến gần thì chúng tôi nhận ra rõ ràng là tiếng Việt chứ không
phải là tiếng ngoại quốc. Có tiếng hô qua loa phóng thanh. Tất cả
đứng lại..... nếu không sẽ bị bắn bỏ. Trời ạ...... chúng tôi đã lạc
vào đảo của Việt Nam rồi! Chúng tôi lập tức đứng lại, hai tay vẫn
đưa thẳng khỏi đầu, chúng tôi hội ý với nhau là: để qua mặt được họ,
chúng tôi phải nói rằng tàu vượt biên do nhà nước tổ chức ra đi. Khi
nói như vậy, chúng tôi ngầm hai ngụ ý: Thứ nhất, khi biết là chúng
tôi ra đi do nhà nước tổ chức thì họ sẽ tìm phương tiện giúp chúng
tôi. Thứ hai, nếu không giúp được gì thì họ cũng sẽ không làm khó dễ
chúng tôi, trường hợp tệ lắm là họ sẽ bắt trở về đất liền để đi tù,
trong trường hợp này thì mọi người sẽ an toàn hơn cả. Giọng nói kia
tiếp tục vang lên: Tất cả đứng yên tại chỗ đợi lịnh......Thời gian
lặng lẽ trôi qua trong ngột ngạt. Khoảng chừng hơn 10 phút, thì đột
nhiên từ phía bờ cát một loạt lửa da cam tóe lên cùng lúc với những
tràng súng liên thanh nổ rền trời, tôi giật mình ngó về phía đoàn
người. Tôi như bị hoa mắt vì thấy máu từ các thây người phun ra khắp
nơi, thây người đổ ập xuống, tiếng rên la thảm thiết vang lên như
muốn xé tan màn đêm. Việt cộng giết người..... nghĩ thế xong là tôi
vội vàng bò hết tốc lực để tránh ra xa khỏi đoàn người và đứng lên
vùng chạy về phía biển, vài người khác trong đoàn người cũng cố gắng
mang thương tích vùng chạy ngược trở ra biển, một số chỉ chạy được
nửa chừng rồi thì ngã xuống nằm lại luôn. Bằng tất cả sức lực còn
lại trong người, tôi chạy thẳng và nhào người ra biển, giẫm lên cầu
gai, võ nghêu, võ ốc mà chạy càng xa, càng tốt, trong tôi bây giờ
không còn có cảm giác đau đớn do bị cầu gai đâm thủng chân nữa, tôi
hoàn toàn ở trong trạng thái vô cảm. Sau cùng thì tôi cùng vài người
khác cũng đã chạy ra được nơi con tàu mắc cạn. Mọi diễn biến trên
đảo đã được chúng tôi tường thuật lại, thực ra thì mọi người đã nghe
được tiếng súng nổ tuy không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng cũng
phần nào đoán ra được là đã có chuyện không lành. Khi nghe chúng tôi
báo cáo lại mọi chuyện, mọi người đã vô cùng hoảng sợ. Tất cả đàn
ông, trai tráng trên tàu, đều được huy động xuống để đẩy con tàu ra
khỏi vùng đá ngầm.
Trời đã phụ lòng người ! Sức của con người làm sao chống chọi lại
với sức mạnh của thiên nhiên, chúng tôi cố đẩy được con tàu xê dịch
đi một chút, thì lập tức các ngọn sóng lại đánh đẩy con tàu trở về
vị trí cũ. Đang lúc tất cả đang cố gắng đẩy con tàu thì súng lại nổ
vang rền, đạn bay như rải về phía con tàu. Có tiếng thét kinh hãi...
có người trúng đạn... có người trúng đạn, tiếp theo là những tiếng
khóc, tiếng kêu gào, khung cảnh rối loạn cả lên, mạnh ai người đó
chạy tìm chỗ nấp, nhưng nấp vào đâu bây giờ, giữa trời nước bao la
và con tàu khốn khổ đang phải hứng chịu những vết đạn từ những con
người tàn bạo? Súng đã thôi nổ liên hồi, nhưng vẫn tiếp tục nổ cầm
chừng, và thỉnh thoảng lại có người gào lên kêu cứu khi thân nhân
mình trúng đạn. Phải ở vào hoàn cảnh trên thì mới có thể cảm nhận
được hết cái không khí dã man, tàn bạo, đầy khủng bố mà không thể có
ngòi bút nào lột tả được hết. Súng vẫn nổ lai rai, đoàn người vẫn cố
gắng trong tuyệt vọng để đẩy con tàu. Nhưng bất lực! Hoàn toàn bất
lực! Mọi người đã kiệt sức vì đói lạnh, da thịt mọi người đã thâm
tím đi vì lạnh. Tất cả đều buông xuôi leo lại lên tàu phó mặc cho
trời. Suốt đêm đạn vẫn nỗ, người tiếp tục chết vì đạn, tiếng kêu
khóc vẫn cứ vang lên mỗi khi có người trúng đạn chết. Từ nơi xa xa,
có thấp thoáng ánh đèn chiếu sáng từ một hòn đảo khác bên cạnh.
..............
Trời sáng dần, tiếng kẻng buổi sáng phía trong đảo vang lên. Đoàn
người tội nghiệp dõi mắt về hướng đảo trông chờ phép lạ. Trên đảo
nhộn nhịp hẳn lên, bộ đội chạy tới chạy lui, gia đình thân nhân vợ
con của bộ đội cũng chạy ra đứng nhìn con tàu nghiêng ngả. Đàn bà,
con nít trên tàu được cho lên mui tàu hướng về trong đảo quỳ lạy xin
được cứu giúp. Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những con người
Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng
tay bắn giết đồng bào mình. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm
nay chưa bao giờ có những trang sử ô nhục như thế này. Ô kìa....
phép lạ xảy ra, có bóng của những bàn tay vẫy phất như báo cho
thuyền nhân biết là họ có thể vào bờ được rồi, những cái vẫy tay mời
gọi từ phía trong đảo đã làm mọi người như sống lại. Ưu tiên cho đàn
bà và con nít vào trước, dây thừng được lấy ra quấn chặt vào mình,
cùng với sự giúp sức của vài thanh niên, sợi dây thừng dài được nối
từ con tàu vào thân của những người xuống tàu lôi vào bờ. Đoàn người
rời con tàu xa dần dần tiến vào bờ, dây thừng vẫn được quấn chặt vào
người, cách bờ chừng 100 mét nhưng vẫn chưa thấy người từ trên bờ ra
cứu giúp. Bỗng nhiên súng lại nổ. Trời ơi! súng nổ nhắm vào những
người đang quấn chặt dây thừng ngang mình để vào bờ, thế là chỉ còn
có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi dây
oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai còn sống
sót qua trò chơi man rợ của lũ người không tim trên đảo. Tiếng kêu
gào thảm thiết lại vang lên của những người chồng, người cha, khi
nhìn thấy cảnh vợ con mình bị bắn giết vô cùng man rợ như trên. Đàn
bà con nít lại được đưa lên mui tàu chấp tay hướng vào đảo mà van
lạy xin được buông tha, đáp ứng lại những lời van xin thảm thiết này
là những tràng đạn lại nổ tiếp, bóng người đàn bà với tư thế hai tay
chấp vào nhau vì đang quỳ lạy ngã chúi xuống biển từ trên mui tàu,
cùng lúc với các em trẻ bật ngửa ra sau giẫy chết vì trúng đạn. Tàn
bạo, man rợ, không thể nào tả hết.
Tàu vướng đá ngầm rồi, phải rời tàu thật nhanh.
Nắng đã lên cao, từ trong đảo bóng dáng bộ đội Việt cộng chạy lại ụ
súng được mọi người trên tàu nhìn thấy rõ mồn một. Tấm phông che
súng được kéo xuống, nòng súng được hạ xuống. Trời ơi !..... Một cây
súng pháo với nòng súng dài có đến 10 thước đang hiện ra trước mắt
mọi người trên tàu. Kinh hãi…. hỗn loạn trên tàu đã diễn ra, chỉ cần
một trái đạn pháo từ khẩu súng đó mà trúng vào con tàu thì tất cả
chỉ còn là tro bụi. Cầu nguyện, và dọn mình chờ chết, vì sẽ không
còn ai sống sót sau khi trái đạn được khai hỏa bắn trực xạ vào một
mục tiêu cố định là con tàu. Nhưng không, tấm phông đã được kéo lại
che đậy khẩu súng, nòng súng đã được nâng lên cao, không còn ở vị
trí sẵn sàng nhả đạn nữa. Bóng dáng bộ đội lại chạy nhốn nháo, và họ
đang lấp ráp chân " đế " của cây súng cối. Dã man, tàn bạo, bộ đội
cộng sản Việt Nam vì tiếc một quả đạn súng pháo lớn, nên đang thay
vào đó là đạn súng pháo nhỏ hơn, và đó là trò chơi giết người của
họ.
Ầm.... quả đạn đầu tiên được bắn ra rớt xuống biển cách con tàu
chừng vài thước, mọi người chưa kịp hoàn hồn thì. Ầm.... quả đạn thứ
hai rớt chính xác ngay mũi tàu, thịt xương văng tung tóe, máu đổ
chan hoà, cùng lúc với hàng loạt đạn lớn nhỏ vang rền khắp nơi, tay
chân, máu thịt, vung vãi ở khắp mọi nơi trên tàu, con người lăn lộn,
vật vã với vết thương, khung cảnh của địa ngục trần gian đang phơi
bày trước mắt tôi. Sau tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ
nữ nằm bên cạnh tôi. Tôi vùng dậy, nhoài mình phóng ra khỏi con tàu,
một ngọn sóng cuốn tôi ra xa cùng lúc với một trái đạn khác rớt ngay
giữa thân tàu, con tàu gẫy đôi và chìm xuống biển. Tất cả sự kiện
xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ, sau khi tiếng kẻng buổi sáng trên
đảo vang lên.
Chung quanh tôi xác người chết trôi vất vưởng khắp nơi, những người
còn sống sót thì vẫn phải đang lặn hụp với từng cơn sóng biển, và từ
trong bờ đảo những tên bộ đội Việt cộng khát máu vẫn giương súng
nhắm bắn vào những người sống sót, rất may là nhờ sóng biển nhồi lên
hụp xuống mà cái đầu tôi trở thành một mục tiêu khó bắn trúng của
những kẻ sát nhân, có người đang cố gắng bơi ra xa khỏi tầm đạn,
nhưng nửa chừng thì tôi bỗng thấy nằm bất động trôi vật vờ trên
biển, tôi biết rằng họ đã trúng đạn hoặc chết vì vết thương quá
nặng. Thủy triều đã lên cao, sóng biển không còn đánh mạnh nữa, và
cũng chính vì vậy mà những người sống sót khó tránh khỏi tầm ngắm
của lũ sát nhân. Tất cả đã vĩnh viễn ra đi, tôi cũng đã trôi ra xa
khỏi tầm đạn và đang nằm chơi vơi giữa đại dương bao la, khung cảnh
hoàn toàn im lặng đến rợn người. Tôi nhắm mắt lại cầu nguyện, nghĩ
đến gia đình đang còn ở lại đất liền xa xôi, chỉ trong chốc lát nữa
thôi những con cá mập sẽ kéo tới và tôi sẽ chết vì bị cá mập ăn.
Nghĩ tới cá mập, tôi hoảng sợ mở mắt ra. Và kìa, từ hướng xa tôi
nhìn thấy một chiếc thuyền câu đang trôi về hướng tôi. Thoạt đầu,
tôi cứ tưởng bộ đội công sản Việt Nam hạ quyết tâm đuổi tận, giết
tuyệt, nên không dám bơi lại gần. Nhưng nhìn kỹ lại thì tôi nhận ra
trên chiếc thuyền đó hoàn toàn im lặng, không có một sự di động của
bất cứ người nào trên thuyền, tôi hơi vững tâm và cố gắng bơi lại
gần thuyền. Nắm được be thuyền và leo lên thì tôi trông thấy có
người trên thuyền, nhưng mọi người đang nằm ở tư thế ẩn nấp. Thấy
tôi leo lên thuyền họ bèn quay lại sụp lạy tôi và xin tha mạng, tôi
không có thời giờ giải thích gì cả, bật ngửa ra nằm bất động trên
sàn tàu. Sau khi đã hoàn hồn và hỏi chuyện nhau thì tôi mới vỡ lẽ ra
họ cũng trôi dạt vào đây và cũng bị bắn như chúng tôi. Thuyền của họ
xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà Rịa, trên tàu gồm 13 người gồm 11 người
đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị vào khoảng 9 tuổi, bé em trai khoảng 6
tuổi. Ba của hai em bé này đã bị bắn vỡ đầu nằm chết ở phía mũi
thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát mất phần vai hai bên, hai
cánh tay chỉ còn dính liền bởi phần da còn lại trên vai, đang nằm
thôi thóp thở dưới hầm máy, tình trạng cho thấy là anh này sẽ khó
thoát chết do vết thương quá nặng. Trong khi con thuyền đang trôi
vật vờ như thế thì cũng có được 4 người khác từ chiếc tàu bị bắn
chìm trước đó thoát chết, leo lên được con thuyền mà chúng tôi đang
có mặt. Như vậy là tổng cộng số người thoát chết của hai chiếc
thuyền là 16 người, con số trên 130 người đã bị bắn chết vùi thây
dưới lòng biển lạnh.
Sóng lớn quá, có người rơi xuống biển.
Con thuyền cứ tiếp tục trôi vật vờ trên biển, nhưng càng lúc càng
rời xa khu vực nguy hiểm, lúc này đã vào khoảng 10 giờ sáng, nhìn
sang bên trái của con thuyền, chúng tôi nhìn thấy một hòn đảo khác
cách chúng tôi không xa lắm. Nghĩa là con thuyền của chúng tôi đang
nằm giữa vị trí của hai hòn đảo. Hòn đảo này tôi đoán có lẽ là hòn
đảo mà chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh đèn từ đêm hôm trước, đêm
hôm bị bộ đội Việt cộng tàn sát. Chúng tôi quyết định phải rời xa
hai hòn đảo này càng sớm càng tốt nếu còn muốn sống. (Đây là một
quyết định sai lầm mà chúng tôi đã phải trả giá rất đắt, sẽ được nói
đến ở đoạn sau) chúng tôi dùng mái chèo cố gắng chèo con thuyền ra
khơi, vì bình xăng của con thuyền đã bị bắn vỡ chảy hết dầu. Gió đã
đổi chiều, thổi con tàu tội nghiệp của chúng tôi trôi vào cõi vô
định. Con thuyền này dài chừng 6 thước, rộng gần 2 thước, loại
thuyền dùng để đi câu ven bờ biển chứ không thể đi xa hơn. Vậy mà nó
cũng đã chở 13 con người vượt được hàng trăm hải lý để đến nơi đây
cùng chung số phận như chúng tôi.
Chiều xuống dần, không gian yên tĩnh, không có một bóng dáng của bất
cứ một con tàu nào khác ngoài con thuyền của chúng tôi lạc lõng giữa
đại dương. Tối đến, chúng tôi phát giác ra một chuyện chết người
khác, con thuyền đang bị vô nước từ phía dưới lườn tàu, thế là chúng
tôi tìm cách chặn nước không cho tràn vào, và cử người canh chừng để
tát nước liên tục. Cứ hai người cho mỗi phiên trực tát nước, số phận
của 16 người sống sót trên con thuyền này sẽ tùy thuộc vào hai người
có nhiệm vụ tát nước ra khỏi tàu, nếu chẳng may họ buồn ngủ, hoặc
mệt quá mà chểnh mảng thì con thuyền sẽ chìm và mọi người cũng sẽ
chìm theo con thuyền, nhưng biết làm sao hơn đây! khi mà tất cả mọi
người ai cũng còn mang nét mặt kinh hoàng vì mới vừa phải trải qua
một biến cố quá đau thương và..... phó mặc mọi việc cho Thượng Đế.
Một đêm kinh hoàng trôi qua, người sống phải sống cùng xác chết trên
một diện tích vô cùng chật hẹp của con thuyền, vấn đề vệ sinh chung
đã được đặt ra, là phải giải quyết cái xác chết vẫn còn ở trước mũi
thuyền. Thật là tội nghiệp cho hai đứa trẻ, chúng kêu khóc thảm
thiết không cho thủy táng người cha thân yêu của mình. Chúng tôi
cũng đành phải chìu lòng của hai em, nhưng sang đến ngày thứ ba thì
chúng tôi phải giấu lén hai em mà thủy táng người quá cố để bảo vệ
sức khỏe cho những người còn lại. Sau này biết được hai em đã lăn
lộn khóc lóc vô cùng bi thảm, chúng tôi chỉ còn biết rớt nước mắt dỗ
dành hai em. Tình trạng của anh thanh niên bị thương dưới hầm tàu đã
trở nên tồi tệ hơn vì không có thuốc men chạy chữa, vết thương đã
thối rữa, biết là anh cũng sẽ không qua khỏi, tối ngày thứ ba, sau
khi thủy táng người đàn ông ba của hai đứa trẻ, chúng tôi quyết định
nấu cho anh chút cháo trộn với đường cát như là bữa ăn tối cuối cùng
trước khi ra đi, tôi là người đã đút cháo cho anh ăn, suốt bữa ăn
anh cứ liên tục kêu cứu cầu sống, tôi chỉ còn biết gạt lệ an ủi với
anh là cố gắng chút cháo, rồi mọi người sẽ được cứu sống. Sáng hôm
sau, chúng tôi thấy anh đã nhắm mắt lìa đời, thân thể anh tái xanh
vì đã không còn máu. Chúng tôi cũng đã thủy táng anh và cầu nguyện
cho linh hồn anh sớm được siêu thoát.
Đã hơn một tuần lễ lênh đênh trên biển, có một điều thật lạ lùng là
chúng tôi không hề nhìn thấy bất cứ một thương thuyền nào qua lại
vùng biển này cả. Không lẽ chúng tôi đã lạc vào một vùng biển chết?
Lương thực còn được mấy kí gạo sau ngày bị bắn dùng để nấu cháo cầm
hơi cũng đã hết, nước uống thì đã hết từ trưa, cơn đói khát đang đốt
cháy ruột gan mọi người. Một ngày đói khát đã bắt đầu và sẽ còn tiếp
tục không biết kéo dài đến bao lâu. Cầu nguyện, chỉ còn có biết cầu
nguyện thôi, tất cả mọi việc đều đã được sắp đặt và an bài do Thượng
Đế, con người đã trở thành vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ.
Lại một ngày đói khát nữa, cái khát làm cho da thịt như muốn bốc
khói, môi nứt nẻ, đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thức ăn, nước
uống. Tội nghiệp hai đứa trẻ, suốt ngày chúng cứ nói đến miếng ăn mà
trước đây mẹ chúng làm cho chúng ăn, hoặc thứ nước uống mà chúng
thích. Mọi người như mê loạn đi vì đói và khát. Dường như lời cầu
nguyện của chúng tôi đã thấu tới trời xanh. Chiều hôm đó, trời đổ
cơn mưa, những hạt mưa như những nước cam lồ trong chuyện thần tiên,
tưới mát thân thể chúng tôi, chúng tôi say sưa ngửa mặt lên trời
hứng lấy nước mưa mà uống, lấy thêm "can nhựa" trên tàu hứng lấy
nước mưa dự trữ. Nhưng trời mưa lại dẫn đến một vấn đề khác. Thuyền
ngập nước, thế là mọi người xúm vào tát nước cho thuyền khỏi chìm,
rất may là cơn mưa không kéo dài, và còn may hơn nữa là từ đó cho
đến ngày được cứu, cứ vài ngày lại có một cơn mưa ngắn giúp chúng
tôi có đủ nước uống. Vấn đề nước uống đã được giải quyết, nhưng còn
thức ăn? Chúng tôi đã không còn được bất cứ một thứ gì để có thể ăn
được. Cơn đói cứ dày vò, ám ảnh chúng tôi liên tục, người chúng tôi
đã teo lại chỉ còn lớp da bọc lấy xương, hay nói cho đúng hơn là
những bộ xương biết bò, vì chúng tôi không thể nào đứng vững được
nữa. Một hôm tôi bò xuống hầm máy để cố gắng kiếm thử xem còn gì có
thể ăn được không, tôi trông thấy một chai " xá xị " mới nhìn tôi cứ
tưởng đó là một chai đựng dầu nhớt gì đó của mấy người thợ máy bỏ
quên, nhưng tôi cứ cầm lên và ngửi thử. Một mùi thơm ngào ngạt bốc
thẳng vào óc tôi, khứu giác tôi dường như mở ra tối đa để hít lấy
mùi thơm đó. Mùi thơm của mỡ heo, đúng vậy, chai xá xị kia là một
chai dùng để đựng mỡ heo dành để chiên đồ ăn của các ngư phủ. Tôi
thọc ngón tay vào miệng chai và đưa lên miệng mút. Trời ạ! Thật là
một thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa hề được thưởng thức qua bao giờ,
tôi cứ mút lấy mút để cái thứ nước sền sệt nhưng vô cùng tuyệt hảo
đó. Chợt nhớ lại những người ở trên, đặc biệt là hai đứa trẻ, tôi bò
trở lên với chai xá xị, không ai còn để ý đến tôi vì mọi người đều
đã nằm liệt. Tôi bò đến hai đứa trẻ, thò ngón tay tôi móc một ít mỡ
heo nhét vào miệng các em, như là một liều thuốc tiên các em bừng
tỉnh lại, tôi ra dấu cho các em cứ bình tĩnh mà mút mỡ heo, nhắm
chừng các em đã dần dần có chút sinh lực trở lại, tôi trút một ít mỡ
heo vào cái chén nhựa cho các em, còn lại tôi dùng một chiếc đũa
thọt vào chai xá xị có mỡ heo và kêu mọi người lại mút lấy chiếc đũa
thần kỳ diệu. Nhờ có chai xá xị mỡ heo mà chúng tôi có được một bữa
tiệc sang trọng nhất trong đời. Và cũng nhờ chút mỡ heo tuyệt vời đó
mà em bé trai có chút sinh lực ngồi nghịch phá cái máy radio nhỏ xíu
bất khiển dụng, cái radio bị vỡ lòi ra mấy sợi dây kẽm nhỏ, một bác
lớn tuổi trên thuyền có sáng kiến uốn mấy sợi kẽm nhỏ đó thành những
cái móc câu, dùng cước cột các móc câu đó lại, cạy các con ốc nhỏ
bám theo be thuyền làm mồi. Kết quả thật bất ngờ khích lệ, buổi đầu
tiên bác câu được hai con cá lớn độ bằng bàn tay người lớn. Cái cột
buồm vô dụng được bác ấy chẻ ra từng miếng nhỏ dùng để nhóm bếp.
Cũng may là trên thuyền còn có được cái hộp quẹt còn sử dụng được.
Hai con cá được bác nướng lên chia đều cho mỗi người. Từ đó chúng
tôi được chia ra làm công việc chẻ cột buồm để giữ lửa, bác ấy làm
công việc câu cá. Ngày nào có được vài con cá thì bác chia đều cho
mỗi người được một miếng bằng hai ngón tay, ngày nào không câu được
thì mọi người nhịn đói uống nước mưa cho qua cơn đói.
Chúng tôi đã trôi trên biển 20 ngày qua rồi, nhưng vẫn không nhìn
thấy bóng dáng của một chiếc thương thuyền nào, mỗi khi chiều xuống
tôi thường bò lên trước mũi thuyền nằm trông ngóng bóng dáng một con
thuyền. Nằm nhìn những con chim hải âu săn mồi trên biển mà lòng tôi
tan nát, không ngờ rằng cuộc đời của mình lại kết thúc trong bi thảm
như thế này. Sợ nhất là mỗi khi chiều về, màn đêm chuẩn bị buông
xuống, chung quanh là một màu tối đen, không khí chết chóc cứ như
lẩn quẩn đâu đây. Hoặc những khi trời nổi cơn giông, từng lượn sóng
cao như mái nhà bốc con thuyền lên cao, rồi nhận con thuyền xuống
đáy, rồi lại bốc lên, cứ như thế kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liền
khiến chúng tôi vô cùng sợ hãi. Tình trạng cô đơn giữa đại dương bao
la kéo dài cho đến tuần lễ thứ ba thì chúng tôi nhìn thấy con tàu
đầu tiên. Thật là không còn gì để diễn tả được nỗi vui mừng của
chúng tôi, chúng tôi reo mừng, reo la cầu cứu, vì nghĩ rằng chắc
chắn là mình sẽ được cứu. Nhưng, ô kìa ! Chiếc thương thuyền vẫn
lạnh lùng rẽ nước phăng phăng chẳng buồn ngó đến chúng tôi, mặc dù
khoảng cách của đôi bên quá gần, gần đến nỗi chúng tôi có thể nhìn
thấy thủy thủ trên chiếc tàu buôn đang tập trung trên bong tàu để
nhìn chúng tôi. Con tàu khuất dạng ở chân trời, chúng tôi ngỡ ngàng,
hụt hẫng, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy ? Sao lại có những người
vô lương tâm đến như vậy? Thấy người sắp chết sao không cứu? Ngần ấy
câu hỏi cứ quay trong đầu tôi cho tôi đến khi tôi lịm người đi vì
mệt mỏi và thất vọng.
Lại có thêm bóng dáng một chiếc tàu buôn từ đàng xa, như được tăng
thêm sức, tôi cùng vài người khác vùng dậy trèo lên mui ra dấu cầu
cứu, và cũng như chiếc tàu thứ nhất, họ lạnh lùng bỏ đi mặc cho
chúng tôi kêu gào đến kiệt sức. Từ đó trở đi, mỗi ngày chúng tôi
nhìn thấy hàng chục chiếc tàu buôn qua lại trong vùng nhưng không
một chiếc nào chịu cứu vớt chúng tôi. Thậm chí, có ngày chúng tôi
còn nhìn thấy hạm đội của Mỹ đang thao dượt trên biển với máy bay
phản lực lên xuống trên các chiến hạm. Từ dữ kiện này, tôi đoán là
chúng tôi đang ở đâu đó trong vùng vịnh Philipines. Chiều ngày thứ
30 trên biển, chúng tôi tuyệt vọng trong mòn mỏi, không còn hơi sức
để kêu cứu nữa, mặc cho các tàu buôn vẫn qua lại nhìn chúng tôi sắp
chết. Tôi nằm xoải trên mui con thuyền đưa mắt hững hờ nhìn chiếc
tàu buôn mang hàng chữ Nhật chở đầy những cây gỗ với đường kính hai
người ôm, chiếc tàu buôn đó, cũng như những chiếc khác trước đây,
cũng lạnh lùng băng qua trước mặt chúng tôi mà đi thẳng, tôi cũng
chẳng buồn ngó theo làm chi vì quá chán ngán với thế thái nhân tình.
Khoảng độ hai tiếng đồng hồ sau, tôi đang nằm nhìn mặt trời xuống
dần thì bỗng giật mình vì tiếng còi hụ ngân dài, tiếng còi hụ giữa
biển khơi nghe vang dội, tôi nhổm mình dậy nhìn thì trông thấy từ
đàng xa chiếc tàu buôn chở gỗ mà tôi nhìn thấy từ chiều đang tiến về
hướng chúng tôi. Và..... Trời ạ ! Thủy thủ trên tàu đang nhộn nhịp
với dây thừng và phao cấp cứu, và quan trọng hơn nữa là nó đang giảm
dần tốc độ để lựa thế lại gần thuyền chúng tôi mà tàu chúng tôi
không bị lật do sóng vỗ. Dùng thân tàu to lớn như ngọn núi, chiếc
tàu buôn chận lại các ngọn sóng đang vỗ về phía ghe chúng tôi như
một bà mẹ đang bảo vệ đứa con bé bỏng của mình, các thủy thủ đang cố
gắng quăng các sợi dây thừng sang phía chúng tôi. Họ đã cứu chúng
tôi, sau khi đã cột được dây thừng vào thuyền chúng tôi, họ đã kéo
được con thuyền cập sát hông chiếc tàu buôn, chiếc thang dây được
buông xuống, chúng tôi từng người một dưới sự phụ giúp của các thủy
thủ trên chiếc tàu buôn, chúng tôi đã lần lượt lên được chiếc tàu
buôn an toàn. Leo lên được bong tàu chúng tôi ngã sóng soài xuống và
nằm im không cử động gì được nữa, vì tất cả sinh lực còn lại đã được
dồn lại cho việc leo lên chiếc tàu buôn to lớn kia sau gần hai tiếng
đồng hồ cố gắng thực hiện.
Con thuyền nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi được kéo theo sau chiếc
tàu buôn, nhưng sau đó có lẽ vì lý do an toàn đã được cắt bỏ, nhìn
chiếc thuyền bé nhỏ tội nghiệp đã cưu mang chúng tôi một tháng trời
ròng rã trên biển đang từ từ chìm xuống biển, chúng tôi không hẹn mà
ai cũng bật lên tiếng khóc chào vĩnh biệt con thuyền.
Tối đến, chúng tôi được cho uống nước mát ướp lạnh, một loại nước
uống thông dụng của người Đại Hàn có pha đường. Thật là một cảm giác
khó tả, khi cầm ly nước trong tay nhưng chưa uống được vì quá vui
mừng vì đã được cứu sống, tất cả xảy ra như một giấc mơ. Sáng hôm
sau chúng tôi được cho ăn cháo loãng với nước tương (xì dầu) chúng
tôi ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng vì sợ chúng tôi bị bội thực,
thủy thủ trên tàu đã không cho chúng tôi ăn nhiều, vậy mà cũng có
người sau khi ăn xong bèn quay qua ói xối xả vì bội thực. Sau khi
tìm hiểu, chúng tôi được biết đây là một chiếc tàu chở mướn của một
công ty hàng hải Nhật Bản với thủy thủ đoàn và thuyền trưởng là
người Đại Hàn, chiếc thuyền đang trên đường chở gỗ từ Pakistan về
Okinawa, một hòn đảo nằm về phía cực Nam nước Nhật. Viên hoa tiêu
cho chúng tôi biết diễn biến của sự việc như sau: Lúc chiều (là lúc
mà tôi nhìn thấy chiếc thuyền) ông ta đã thấy con thuyền của chúng
tôi và đã báo cáo lên thuyền trưởng xin phép được tiếp cứu, nhưng
viên thuyền trưởng cho biết là ông ta không được phép làm vậy, nếu
không tất cả nhân viên kể cả ông sẽ bị mất việc và gặp rắc rối, vì
vậy mà chiếc tàu vẫn tiếp tục hải trình như tôi đã thấy. Tuy nhiên,
viên hoa tiêu vẫn cứ tiếp tục van nài thuyền trưởng với lý do là sẵn
sàng bị mất việc, chứ thấy người sắp chết mà không cứu là không
được. Hơn nữa, theo tin tức khí tượng cho biết thì tối nay bão sẽ
kéo tới và chắc chắn rằng con thuyền vượt biên sẽ bị nhận chìm xuống
biển. Viên thuyền trưởng đã khóc và chấp nhận vớt chúng tôi. Vị trí
mà chiếc tàu buôn đã cứu chúng tôi nằm cách đảo Lữ Tống (Luzon) của
Philippines khoảng 60 cây số. Và nếu chúng tôi có sống sót qua cơn
bão này thì chúng tôi sẽ trôi ra tới Ấn Độ Dương, vì gió đã đổi
chiều và chúng tôi sẽ khó có cơ hội được cứu thoát vì đó không phải
là hải trình của tàu buôn.
Chúng tôi cũng đã tường thuật lại chuyến vượt biên kinh hoàng của
chúng tôi cho thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ trên tàu được biết.
Sau khi nghe chúng tôi tường thuật, thuyền trưởng đã đánh điện vào
đất liền thông báo cấp tốc, vì trước đó qua tin tức ông cũng đã biết
được chuyến vượt biên kinh hoàng này do những người sống sót trước
đó tường thuật lại. Số là trong cái đêm kinh hoàng đó, khi chúng tôi
bị bộ đội Việt cộng tàn sát dã man, thì có 8 người đàn ông nhìn thấy
có ánh đèn trên một hòn đảo ở từ phía xa, cách nơi chiếc thuyền bị
nạn chừng vài hải lý, nên thay vì ở lại chờ chết, họ đã lặng lẽ dùng
các can nhựa có trên tàu để bơi về phía hòn đảo có ánh đèn đó để tìm
sinh lộ. Họ đã tìm đúng sinh lộ, vì đó là hòn đảo thuộc chủ quyền
của Philippines. Họ được cứu và đưa về đất liền ngay đêm hôm đó. Đêm
đó, quân trú phòng trên đảo được lệnh báo động và sẵn sàng để cứu
vớt các thuyền nhân mắc nạn, họ cho biết là có nghe tiếng súng nổ
suốt đêm, và súng pháo kích sáng hôm đó, nhưng không thể làm gì khác
hơn được là đứng nhìn, vì hòn đảo đang diễn ra cuộc tàn sát thuộc
chủ quyền của Việt Nam. Tóm lại, trong khi chúng tôi vẫn còn đang
lênh đênh trên biển đúng một tháng, thì đã có 8 người trên chiếc
"ghe ông Cộ" đã được cứu thoát do bơi sang đảo Phi.
Nhận được tin từ vị thuyền trưởng, Bộ Nội Vụ Nhật Bản đã đồng ý cho
chúng tôi cập bến Okinawa, thuyền trưởng hoan hỷ loan báo tin này
cho chúng tôi biết và chúc mừng chúng tôi thoát nạn. Ba ngày sau,
chúng tôi cập bến hải cảng Okinawa. Người đầu tiên bước lên tàu để
đón chúng tôi là một thông dịch viên tiếng Nhật, anh tên là Nguyễn
Gia Hùng, một sinh viên du học tại Nhật Bản trước năm 1975, hiện
đang phụ giúp với hội Caritas Nhật lo giúp đỡ những thuyền nhân Việt
Nam đang tị nạn tại Nhật Bản. Chúng tôi đã vô cùng xúc động vì nghĩ
mình đã được tái sinh lần thứ hai. Chúng tôi bịn rịn bắt tay từ giã
các vị ân nhân cứu mạng mình để lên đất liền làm thủ tục tị nạn,
những người này cũng đã khóc khi tiễn chúng tôi bước xuống cầu tàu.
Bước xuống tàu, chúng tôi đã nhìn thấy một rừng phóng viên báo chí,
các hãng thông tấn thế giới đang chờ sẵn để lấy tin tức, một cuộc
họp báo đã được tổ chức liền tại chỗ dưới sự hướng dẫn và thông dịch
của các anh thuộc tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật Bản. Sau đó
chúng tôi lên xe bus về trại tị nạn tại quận Motobucho, một trại tị
nạn dành cho người Việt tị nạn được coi là lớn nhất nước Nhật với
vỏn vẹn chừng 300 người Việt hiện đang tạm trú để chờ các quốc gia
đệ tam nhận đi định cư. Ngày hôm sau, tất cả các báo chí, đài truyền
hình Nhật Bản đều cho chạy đi bản tin đầu với hình ảnh và tin tức về
chuyến vượt biển kinh hoàng do tội ác Việt cộng gây nên, và 30 ngày
đói khát lênh đênh trên mặt biển của chúng tôi. Cầm trên tay tờ báo,
nhìn vào hình ảnh của chính mình, tôi đã rúng động không còn nhìn ra
được mình nữa, thay vào đó là một bộ xương với hộp sọ nhô cao lên.
Đôi dòng lệ đã âm thầm chảy xuống vì hạnh phúc. Tôi biết mình đã
thực sự sống sót.
Chủ nghĩa cộng sản đã là một thảm họa của nhân loại. Kể từ khi thứ
chủ nghĩa này xuất hiện trên thế giới, nó đã giết chết không biết là
bao nhiêu nạn nhân vô tội. Cuộc vượt biển tìm tự do đầy bi thảm và
kinh hoàng của tôi cũng chỉ là một sự đóng góp vào kho tàng tội ác
của chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng quan tâm là hiện nay đất nước và
dân tộc Việt Nam vẫn còn bị chìm đắm dưới sự độc tài, toàn trị của
đảng Việt cộng. Chỉ có một con đường duy nhất là phải chấm dứt cái
chế độ man rợ này, không thể nào nói chuyện hoà hợp hòa giải với
những con người với đầu óc chai cứng vì đặc quyền, đặc lợi, mà họ
đang thụ hưởng trên từng thân xác của những con người Việt Nam bất
hạnh.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển bão tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ
vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện tình
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người còn
nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
BÌNH-TUY,
những ngày cuối cùng...
Tình Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây
Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Trìu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một
Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người tình
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện tình
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
Tìm
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn còn đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương tình
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có
chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà
Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm
giòng đời...
Không cho phép mình
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại