TẢN MẠN NHỮNG GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG

Giai thoại ( beautiful story, anecdote ) là sự việc, là câu chuyện lạ, vui, hay… ít nhiều có liên quan đến nhân vật có thật . Văn chương ( literature ) là văn tự tốt đẹp viết ra thành câu văn, thành tác phẩm văn học nói chung. Như vậy, Giai thoại văn chương là chuyện kể lại những văn thi sĩ với những câu chuyện, những thơ, văn hay, đẹp, mới lạ, độc đáo, thâm trầm, ư nhị, châm chích, trêu cợt… biểu thị được qua sự cọ xát thế giới ngoại tại, khác với huyền thoại ( legendary story ) là những sự thể, và con người mù mờ huyễn hoặc có có, không không. Cùng với chuyện cổ tích ( legend ), ca dao ( popular song ), tục ngữ ( proverb ), phong dao ( local folk song ), đồng giao ( children’s song ), tiếu lâm ( funny story )…, giai thoại văn chương ( literary beautiful story ) là sản phẩm nghệ thuật văn học, tô điểm kho tàng văn hóa nước nhà, phản ảnh được đặc trưng vốn liếng t́nh tự dân tộc. Đọc Tam quốc chí, chúng ta thấy Tào Thực là, một cự phách thi ca, đi bảy bước làm xong bài thơ. Chuyện kể, Tào Phi nối ngôi Tào Tháo, băt em là Tào Thực phải ứng khẩu bài thơ ( nhưng không được dùng hai chữ anh em ), không xong sẽ bị tội chết. Tào Thực đọc ngay : “Chử đậu nhiên đậu cơ. Đậu tại phủ trung khấp. Bản thị đồng căn sinh. Tương tiểu hà thái cấp” ( lấy củi đậu mà nấu đậu. Đậu trong nồi xót đau. Bởi cùng gốc rể mà ra. Sao hại nhau quá quắc ). Tào Phi động ḷng, ôm Tào Thực mà khóc, không c̣n ghét bỏ nữa. Đó là chuyện bên Tàu. Bài viết nầy nhằm “tản mạn những giai thoại văn chương” Việt Nam mà thôi. Những giá thoại văn chương Việt Nam quá đổi dồi dào, trác tuyệt, không dễ kể hết được, nên chỉ có thể tản mạn phần nào thô lậu có tính cách tượng trưng mà người viết như muốn nhắn nhủ với bà con rằng “ nguồn văn hóa của người Việt chúng ta vô cùng to lớn đáng tự hào và trân quư”, chứ không dám ôm đồm mà khảo với luận bởi làm sao nói cho cùng, kể cho hết, viết cho đủ mà phê với phán, hơn nữa, khả năng người viết hạn hẹp, thô thiển th́ có muốn cũng không kham nổi.

Bắt đầu, xin được nói đến Ông Nguyễn hàm Ninh ( mà chúng tôi đươc thân phụ kể lại từ hồi c̣n tấm bé ). Ông Ninh đỗ Giải nguyên năm Tân măo ( năm 1831), cùng năm với nhà thơ Cao bá Quát, làm quan trong triều đ́nh Tự Đức ( 1847- 1883 ). V́ dư luận cho là, vua Tự Đức đă giết anh là Hồng Bảo ( nguyên Hồng Bảo không được vua Thiệu Trị truyền ngôi, nổi loạn, bị bắt nhốt và chết trong ngục tù ). Một hôm, nhà vua ngự thiện (ăn cơm ), cắn phải lưởi, bảo các quan làm bài thơ “răng cắn lưởi” nhưng không được dùng chữ “răng” và chữ “lưởi”. Ông Nguyễn hàm Ninh ứng khẩu :

“Ngă sinh chi sơ, nhữ vị sinh
Nhữ sinh chi hậu, ngă vi huynh
Bất tư cộng hưởng chân cam vị
Hà nhẫn tương vong cốt nhục t́nh”.

Tạm dịch :
Thời tao sinh ra, mầy chưa sinh
Mầy sinh ra sau, tao là anh
Chưa cùng nhau chia sẻ ngọt bùi
Sao đành tâm dứt t́nh cốt nhục ).

Nhà vua khen hay, ban cho mỗi chữ một nén vàng và phạt mỗi chữ đánh một trương v́ có ư châm chích, xỏ xiêng.
Ông Cao bá Quát ( 1809 – 1854 ), đậu Á Nguyên năm Tân măo ( năm 1831, đậu thứ nh́, sau ông Nguyễn hàm Ninh ). Năm 1841 vua Thiệu Trị ( 1847-1883 ) cho ông làm Hành tẩu bộ Lễ ( một chức quan nhỏ ). Năm 1854 ông bị đầy lên Sơn tây làm Giáo thụ Quốc oai, bất măn, ông theo Lê duy Cự ( Giặc Châu Chấu ) nổi loạn, thất bại vụ khởi nghĩa ở Mỹ lương, ông bị bắt và bị xử chết cùng năm ( 1854 ). Khi làm loạn cùng Lê Duy Cự ở Sơn tây th́, nêu chính nghĩa “B́nh dương, Bồ bản vô Nghiêu Thuấn; Mục dă, Minh điền hữu Vơ Thang”. Khi bị tù th́, “Một chiếc cùm lim, chân có đế. Ba ṿng xích sắt, bước th́ vương”. Khi chờ máy chém chặt đầu th́,“Ba hồi trống giục đù cha kiếp. Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời”. Tục có tục “đù” với “đéo”. Sá ǵ người cao ngạo, bất phùng thởi, sắp chết! Người ta không cùng tâm trạng ngút trời u uất đă sửa lại “đù” với “bỏ” cho dễ nghe chăng? Có lần,  Vua Tự Đức ( 1847-1883 ), biết Cao Bá Đạt và Cao Bá Quát là anh em sinh đôi bèn ra câu đối :

“Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đê”
( Một bọc sinh đôi, khó biết ai là anh, khó biết ai là em )
Ông trả lời đầy vẻ tự đắc, trịch thượng:
“Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thị thần”
( Ngh́n năm gặp một lần, có vua ấy, có tôi ấy )
Và một câu đối của vua Tự Đức, các quan trầm trồ khen hay hết sức là hay (có thể là hay mà cũng có thể là nịnh ):
“Tử năng thừa sự nghiệp ( Con nối nghiệp cha )
Thần khả báo thiên ân” ( Tôi đền ơn chúa )
Nhưng Cao Bá Quát đă chê :
“Hảo hề! Hảo hề! Phụ tử quân thần điên đảo” ( Hay thiệt! Hay thiệt! Cha con vua tôi đăo ngược ). Ư ông ta cho rằng, theo đạo thần tử : vua trước, tôi sau mới phải và sửa lại :
“Quân ân thần khả báo ( Ân vua tôi phải trả )
Phụ nghiệp tử năng thừa” ( Nghiệp cha con phải theo ).

Không ai lạ ǵ “ Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán…” mà vua Tự Đức đă thốt lời ban khen cộng vào tính khí cuồng ngạo, coi đời không ai bằng ḿnh của ông đă làm cho Cao bá Quát hư cả một đời tài danh .. Khi đang làm tại Viện hàn lâm, một hôm vua Tự Đức đến bảo, đêm qua được hai câu thơ chữ Hán lại kèm theo tiếng Nôm rất hay : “Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ, dă ngoại đào hoa lấm tấm khai”. Ông trả lời rằng: “Hai câu thơ đó, nằm trong bài thơ mà hạ thần đă đọc từ lâu lắm rồi, không c̣n nhớ hồi nào, hạ thần xin đọc cho bệ hạ nghe”

“Bảo mă Tây phong huếch hoác lai
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dă ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp.
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khù khờ thi tứ đa nhân thức.
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.

Tạm dịch :
( Ngựa hay huếch hoác theo gió Tây về
Huênh hoang người cũng theo về
Trong vườn , chim oanh giọng khề khà.
Ngoài đồng, hoa đào nở lấm tấm.
Ngày Xuân không thấy sương rơi lộp bộp
Trời Thu chỉ thấy mưa bài nhài
Khù khờ, câu thơ ai cũng biết.
Đem hỏi chi những người học thức.

Vua Tự Đức biết Cao bá Quát đă bịa ra, hàm ư chê bai, dè biễu ḿnh, nhưng rơ ràng ràng là có căn có cớ …cho nên nhà vua đă không chấp nê ǵ mà c̣n khen thưởng, trọng vọng. Hiếm hoi biết mấy đức độ một quân vương thi nhân biết thương tài một nhà thơ ngông. Tưởng cũng nên nói thêm rằng, thời c̣n bé thơ, một lần Cao bá Quát đang tắm, xịch kiệu vua Minh Mạng ngang qua không kịp chạy trốn, bị quan quân bắt trói, dẫn đến trước mặt nhà vua để tra hỏi. Sau khi ngọn ngành và được biết là kẻ học tṛ. Nh́n xuống nước hồ trong vắt, có đàn cá lớn đang đuổi bắt đàn cá con, nhà Vua liền ra câu đối như sau bảo rằng, đối được th́ tha, không th́ bị đánh đ̣n :

“Nước trong leo lẻo, cá đớp cá”
Đang khi ḿnh bị trói thúc ké, nóng nực, nhanh nhẩu ông đáp ngay:
“Trời nắng chang chang, người trói người”

Nhà vua ngợi khen tài năng của một cậu bé và như đă hứa, ông được thả ra. Có lần, nhân đọc những bài thơ xướng họa của Thi xă Mặc vân ( một thi đàn nổi danh “thi đáo Tùng,Tuy thất thịnh Đường” do Tùng quốc công Miên Thẩm làm chủ súy gồm những ông Hoàng bà Chúa: Tuy quốc công Miên Trinh, Công chúa Mai Am, Công chúa Diệu Liên…và những quan chức đầu triều uyên bác, giỏi thi phú: Phan thanh Giản, Trương đăng Quế, Hà tôn Quyền… ), ông đă lắc đầu, bịt mũi chê bai :

“Ngán cho cái mũi vô duyên
Câu thơ Thi xă, con thuyền Nghệ an”.

Ông đă cho thơ Thi xă cũng khăm khắm mùi như con thuyền bán nước mắm Nghệ an. Rất may, Tùng thiện Vương và Tuy lư Vương đă không bắt tội, v́ thương mến thiên tài mà c̣n cho vào Thi xă. Lúc là quan nhỏ Hành tẩu bộ Lễ trong viện Hàn lâm chuyên lo việc biên soạn thơ văn, ngự chế cho triều đ́nh, v́ nghĩ là bất xứng với tài và chức cùng bản chất nghêng ngang rần rần trong huyết quản, sôi máu cuồng giận, ông tỏ vẻ ngạo mạn, khinh đời, khinh người ( bất kể là ai ). Khi vua Tự Đức hỏi cớ sự hai quan trong triều căi vă nhau, đánh lộn nhau, Cao bá Quát không e dè, tâu :

“Bất tri ư hà ?
Lưỡng tương đấu khẩu.
Bỉ viết cẩu,
Thử diệc viết cẩu.
Bỉ thử giai cẩu.
Dĩ tương đấu ẩu.
Nguy tai, nguy tai
Thần cụ thần tẩu”
Tạm dịch :
( Không biết tại làm sao?
Hai ổng căi nhau.
Ông nầy bảo chó
Ông kia bảo chó
Hai bên đều chó
Rồi hai ổng đánh nhau
Nguy quá nguy quá
Thần sợ thần chạy ).

Có lần ông Nguyễn văn Siêu ngồi trên cái chơng xiêu vẹo dạy học. Cao bá Quát lấm lét muốn vào thụ giáo. Để thử sức, thầy Nguyễn văn Siêu ra đối:

“Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két”
( Ông thầy ngồi trên chơng, ( chơng kêu ) cót két, két cót, cót cót két két )
Ông Cao bá Quát đáp ngay:
“Tiểu tử nhập đ́nh trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ”
( Thằng nhỏ vào trong đ́nh, thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ )
Ông Nguyễn văn Siêu đậu Phó bảng kỳ thi Mậu tuất ( 1854 ), làm đến Án sát, sau về dạy học, có công xây dựng các cộng tŕnh kiến trúc ở Hà nội. Ông nổi tiếng về thơ văn ( “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường” )

Trong những lễ lược khánh hỷ, người xưa thường chúc nhau chữ nghĩa, thi, phú, liễng, đối hoặc đại tự…Đại tự biểu thị chữ viết lớn, ít chữ ( có khi chỉ hai, ba, bốn…thậm chí chỉ có một chữ nhưng, hàm ư th́ bao la, quăng diễn. Trường hợp các nhân sĩ Bắc hà tặng bức hoành phi sơn son thếp vàng bốn chữ “Đại Điểm Quần Thần” cho Thủ tướng Nguyễn văn Tâm vào năm 1952, có nghĩa là, “bầy tôi lớn nhất”. Nhưng ở đây có ư chửi xéo, lăng nhục Thủ tướng Tâm như là kẻ gian tà, phản quốc ( v́ theo Tây ). Nghĩa các chữ “đại điểm” là “chấm to”; “quần thần” là “bầy tôi” Đơn giản là, “chấm to bầy tôi”. Đọc lái ra, nghĩa rất độc địa : “chó Tâm bồi Tây”. Ai bảo các cụ ta ngày xưa hiền? Một trường hợp khác, nhân dịp Xuân về, ông có nhận được một bức đại tự rất đẹp đề bốn chữ “hồ hải quy tâm” do thân hào nhân sĩ đất Sài g̣n-Chợ lớn biếu tặng. Ai cũng trầm trồ khen ngợi cả nội dung lẫn h́nh thức. “Hồ hải quy tâm” rơ ràng là, “sông hồ biển cả thuộc về tâm” hay “thiên hạ dốc tâm theo về”. Chữ tâm cũng là tên Thủ tướng Nguyễn văn Tâm. Nhưng không, bức đại tự nầy nhằm kết án, buộc tội một đời Nguyễn văn Tâm theo Pháp, rơ ràng là, chửi chứ không khen chút nào. “Hồ hải quy tâm” xuất sứ từ câu nói của nhà sư Từ Đạo Hạnh ( 1072-1116, đời nhà Lư ): “Hồ hải tích ác đồng quy vu tâm”, có nghĩa là, tội ác trong sông hồ biển cả cũng do cái tâm mà ra”. Ở đây, được hiểu theo nghĩa thâm độc, sâu sắc của những bậc thâm nho: “ Tội ác đầy khắp trong sông hồ biển cả thẩy đều do tên Tâm nầy mà ra”

Chúng ta, không ai không nghe nhắc đến ông Lê quư Đôn, từ c̣n bé đă nổi tiếng là thần đồng, đỗ Bảng nhăn thời vua Lê hiến Tông ( 1497-1504 ) lúc mới 19 tuổi, tính khí cao ngạo . Trước cửa nhà, ông huyênh hoang treo một tấm bảng: “Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn” ( Người nào có một chữ ǵ không biết, cứ việc đến mà hỏi ) Vào một ngày ông đang bận bịu lo đám ma thân sinh, có một cụ già bước vào nói là, bạn của ông Tiến sĩ Lê phú Thứ ( là th6an phụ của ông ) v́ thi cử hoài không đỗ đạt ǵ cả, nhà lại nghèo, đường th́ xa xôi, phải tội t́nh đến trể. Ông cụ bảo ông Lê quư Đôn đem bút, nghiêng ra ông đọc cho viết hai câu đối phúng bạn.
Cụ già chậm rải đọc:
- “Chi”
Ông Lê quư Đôn ngần ngừ, không biết chữ “chi” nằm trong nghĩa nào. “Chi” là tay chân? “Chi” là cành cây? “Chi” là chưng? “Chi” là một v́ sao trong nhị thập bát tú? “Chi” là nhánh sông? v..v…nên, chờ chữ sau biết nghĩa mà viết. Cụ ǵà thung dung lại đọc tiếp:
- “Chi”
Ông Lê quư Đôn suy nghĩ, lúng túng, không biết sao mà viết ra được chữ chi. Thắc mắc, hơi thẹn, ông bèn hỏi :
- Bẩm cụ, thưa “chi” ǵ ạ ?.
Cụ già tỏ vẻ thất vọng, nói;
- Cháu đỗ đến Bảng nhăn, chữ “chi” cũng không biết viết, liệu có ai đến hỏi, cháu làm sao mà trả lới!?. Quan viên hiện diện lăng thinh, ông Lê quư Đôn tái cả mặt, trong lúc cụ già từ từ đọc :
- “Chi chi tam thâp niên dư, Xích huyện Hồng châu kim thượng tại. Tại tại sổ thiên lư ngoại, Đào hoa Lưu thủy tử hà chi?”
Tạm dịch :
( Đă hơn ba chục năm qua đi rồi, Xích huyện, Hồng châu nay vẫn c̣n đây
Ơi hởi ngoài xa ngàn dặm kia, Đào hoa, Lưu thủy, bác thác về đâu? )

Đọc xong, cụ già van vái trước linh sàng mà than: “Anh ơi là anh, sao con anh đỗ đến Bảng nhăn, Thám hoa mà chữ “chi” là “chưng” nó cũng không viết được! Xong, cụ già chống gậy ra về mặc cho ai hỏi han, mời mọc. Tương tự, nhân một buổi hội làng, một cụ lăo nho nhờ ông viết giùm một câu. Ông cụ đọc “tri”. Bảng nhăn Lê quư Đôn chờ. Cụ lăo đọc tiếp “tri”. Người hay chữ Lê quư Đôn cắn bút chờ nữa. Chữ “tri” rất nhiều đồng âm dị nghĩa mà viết th́ lại không giống nhau. Ông già chơi ác, phạng thêm một chữ “tri” nữa. Thần đồng Lê quư Đôn ngẩn ṭ te. Lăo nho đọc; “tri chi dĩ vi tri, bất tri dĩ bất tri, thị tri” ( biết th́ nói là biết, không biết th́ nói là không biết, như vậy mới là biết ). Rơ ràng, đây là những bài học cho riêng thần đồng Lê quư Đôn và cho chung những ai tự đắc, hợm hĩnh vậy. Ngang đây cũng xin nêu ra trường hợp hai câu thơ của Vương an Thạch, Tể tướng đời Tống thần tông ( 1066-1078 ) bên Tàu: “Minh nguyệt sơn đầu khiếu, Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”. Nhà thơ nức tiếng đương thời là Tô đông Pha giải lư như sau: “Minh nguyệt” là “trăng sáng”, “sơn đầu khiếu” là “kêu trên đầu núi”, “Hoàng khuyễn” là “con Chó vàng” và “ngọa hoa tâm” là “nằm trong ruột cái hoa”. Ông cho rằng, trăng làm sao kêu, chó làm sao nằm được trong ruột cái hoa. Thấy vô lư quá và cho rằng Tể tướng Vương an Thạch kiến thức hẹp ḥi, rồi sửa lại như sau: “Minh nguyệt sơn đầu chiếu. Hoàng khuyển ngọa hoa âm”, có nghĩa là, “Trăng sáng soi đầu núi. Chó vàng nằm ở dưới bông hoa”. Sau v́ phạm tội, Tô đông Pha bị đầy ra vùng đất mà Vương an Thạch cảm ứng làm thơ, Tô đông Pha mới biết ḿnh đă lầm và nông nổi quá sức. Ở nơi đây, có con chim Minh nguyệt và con sâu Hoàng khuyển. Đâu đó cũng là một bài học để đơi cho những người có tài mà tự phụ, khoác lác, khoe khoang.

Bà Sương nguyệt Ánh, con cụ đồ Nguyễn đ́nh Chiểu ở Ba tri, nổi tiếng văn thơ, thủ tiết thờ chồng. Một hôm, có ông cử Phạm đ́nh Chi, người Mỹ tho đến chơi, hậu ư chọc ghẹo, đề nghị bà ra câu đối. Không thể từ chối được, Bà đọc:

“Đ́nh làng tôi không dám phạm, thưa ông tôi phạm đ́nh chi ?”

Câu nầy giải theo lối văn xuôi là, tôi không dám phạm đến cái đ́nh của làng, vậy th́ thưa ông, tôi phạm vào cái đ́nh ǵ đây? Cái lắc léo của người ra đối nầy ở chỗ, cả họ và tên của ông cử Phạm đ́nh Chi đều gọn lỏn ở trong đó. Cắc cớ đến thế, oái oăm đến thế là cùng, làm sao cụ Cử chúng ta đối lại cho được!? Thua. Rút êm.

Đến đây xin nói đến bà Huyện Thanh quan ( có lẻ sinh năm 1805 và mất 1848 ), tên Nguyễn thị Hinh, người Hà đông, vợ ông Lưu nguyên Ổn ( Lưu Nghi ) làm Tri huyện Thanh quan, nên người ta gọi bà là bà Huyện Thanh quan. Bà được mời vào cung giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy các công chúa và những hậu phi. Bà để lại những bài thơ hay như : Qua Đèo Ngang, Thăng Long Thành Hoài Cổ, Cảnh Chiều Hôm…Người ta không quên những giai thoại rất là thơ của bà. Bà phán cho người đàn bà Nguyễn thị Đào được bỏ chồng:

“Phê cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: “Xuân bất tái lai”
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già”

Một trường hợp khác, một ông Hương cống xin mổ trâu giỗ cha vào thời có lệnh cấm giết trâu, bà thản nhiên phê mà nghĩa lời phê, ai nghĩ sao th́ nghĩ:

“Người ta th́ chẳng được đâu
“Ừ”. Th́ ông Cống làm trâu th́ làm”.

Câu nầy vừa có nghĩa cho phép ông Cống được giết trâu mà cũng có nghĩa “thâm” là, “:Ừ!, th́ ông muốn làm ( thân ) con trâu th́ cứ mà làm ( thân ) con trâu”. Có lần vua Minh Mạng phóng bút đề hai chữ “Phúc, Thọ” để khen thưởng một đại thần và hỏi bà Huyện Thanh quan. Bà “bẩm: phúc tối hậu. Thọ tối trường” ( viết chữ phúc quá to béo mà chữ thọ quá dài, ốm. Ư chê vua viết chữ xấu quá. Nhà vua không nói ǵ, có vẻ giận lắm.
Chúng ta ai cũng biết, bộ môn “Hát Bội” ( mà người ta thường gọi là Hát Bộ ) nổi tiếng ở Qui nhơn, B́nh định là do công xây dựng và vun trồng của cụ Đào Tấn ( c̣n gọi là cụ Đào vĩnh Thạnh ). Cụ học cao, đỗ đạt thành tài ( làm đến chức quan Tổng đốc Nghệ tĩnh ), vẫn bị các nhà Nho thủ cựu chê bai “xướng ca vô loại”, bất phục như thường. Chuyện kể lại rằng, khi c̣n làm quan Tri huyện Quăng ngăi, vào một sáng nọ, nhàn cư ngắm cảnh trời mây, bổng cụ thấy trên hai cột cổng ngoài, ai đề bốn chữ “hát hay”, “học dỡ”. B́nh tỉnh cụ bảo kẻ mang bút nghiên đến, mĩm cười, thong dong viết hai câu đối treo lên:
-“Hát hay vốn kép Qui nhơn thật
- Học dỡ làm quan Quăng ngăi chơi”.

Ai trót dại hàm hồ, tưởng để “chơi” cụ, không dè bị “đá gị lái”, cụ “chơi” lại cả làng nước Quăng ngăi ( hai câu đối trên, có người cho là của con cụ là, Đào vĩnh Thuyên )

Chúng ta cũng biết, Hồ quư Ly vốn ḍng dơi Hồ hưng Dật, người Chiết giang bên Tàu. Năm 1400, phế Trần thiếu Đế, tự xưng làm vua, lập nên nhà Hồ, cai trị được 7 năm (1400-1407 ). Ở đây, xin không nói về thủ đoạn gian hùng của bầy tôi phản nghịch Hồ quư Ly mà, kể về cách Hồ quư Ly nhường ngôi lại cho con. Rằng, ông ta đă không chọn con trai trưởng Hồ nguyên Trừng ( nghĩ rằng kém tài, thiếu đức ) mà lập trai thứ Hồ hán Thương ( cho là văn vơ song toàn ) lên làm vua ( 1401-1407 ). Sợ con bất phục mà làm loạn, Ông Hồ quư Ly bèn ra câu đối cho Hồ nguyên Trừng, nhằm dọ ư:

“Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân vi vũ, dĩ nhuận sinh dân”
( Một nắm đá lạ nầy, có lúc làm mây làm mưa, đem tưới sinh dân )
Hồ nguyên Trừng biết ư cha, không buồn, đáp ngay:
“Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương pḥ tŕ xă tắc”
( Ba tấc gổ thông kia, ngày sau làm cột làm nhà, pḥ tŕ xă tắc )

Ai trong chúng ta lại không biết nữ thi sĩ Hồ xuân Hương, người Nghệ an, sống cuối đời nhà Lê đầu triều Nguyễn, con cụ Tú nghèo Đỗ phi Diễn, hai lần làm vợ bé cho hai ông Tổng Cốc và Phủ vĩnh Tường. Bà được biết như nhà thơ Nôm thông minh, tài t́nh, nổi tiếng về cách dùng chữ thơ và ư thơ lắc léo, ỡm ờ vừa thanh, vừa tục đến nỗi người đời cho rằng “bất khả vi huấn” ( không thể đem ra dạy đời được ). Xin chép ra đây một bài tiêu biểu, bài “Đánh đu”

“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người th́ lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa ḷng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân đă biết xuân chăng tá?
Cọc nhổ đi rồi, lổ bỏ không!”

Và Bài “Cái quạt”
“Một lổ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dán tự ngàn xưa
Chành ra ba góc, da c̣n thiếu
Khép lại đôi bên, thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Ph́ phạch trong ḷng đă sướng chưa?”

Lỗ xâu : Cái lỗ để xâu các nan quạt lại với nhau, không phải sâu
Dính dán: Cái chốt đóng ( dán ) các nan quạt lại không cho rớt ra, không phải dính dáng.
Ngoài tài thơ tả chân súc tích, thời bấy giờ không ai mà không công nhận khả năng ứng biến vô cùng linh hoạt của bà. Một lần bị trợt chân sảy té, bà ứng xử tài t́nh bằng hai câu thơ hết sức dí dỏm :

“Giơ tay với thử trời cao thấp
xoạc cẳng đo xem đất vắn dài”
Xướng , họa, đối, đáp…Bà cũng là một nữ tài nhân vô tiền khoáng hậu. Xin ghi lại đây vài bài xướng họa với thi sĩ Chiêu Hồ ( lư lịch chưa được xác minh ).
Hồ xuân Hương :
“Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Nầy nầy chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”

Chiêu Hồ :
“Nầy ông tỉnh,nầy ông say
Nầy ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng không ai mó
Sao có hùm con bỗng tróc tay?”

Hồ xuân Hương :
“Sao nói rằng năm lại có ba
Trách người quân tử hẹn sai ra
Bao giờ thông thả lên chơi nguyệt
Nhớ hái cho xin nắm lá đa”

Chiêu Hổ :
“Rằng gián th́ năm, quư có ba
Bởi người thục nữ tính không ra
Ừ rồi thông thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa”

Đồng tiền gián: = 36 đồng tiền kẽm. Đồng tiền quư: = 60 đồng tiền kẽm
Vậy th́, gián có năm = quư có ba = 180 đồng tiền kẽm
Một giai thoại về nhị vị đại quan, trước là bạn thân, sau là tử thù : Ngô th́ Nhiệm giúp vua Quang Trung ( 1788- 1892 ), làm Lại bộ Tả thị lang và Đặng trần Thường pḥ vua Gia Long ( 1802-1819 ), làm Binh bộ Thượng thư. Ngô th́ Nhiệm khinh Đặng trần Thường kém cỏi, ương hèn, không tiến cử về giúp Nguyễn Huệ. Đặng trần Thường trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Chuyện kể khi hai người c̣n là bạn bè thuở hàn vi, một hôm Đặng trần Thường lè nhè đến nhà Ngô th́ Nhiệm làm thơ mượn tiền:

“Ngất ngưỡng đồ Thường đă đến đây
Có tiền xin mượn lấy năm chầy
Năm chầy không được, ba chầy vậy.
Phiếu Mẫu đền ơn cũng có ngày”

Cung cách “ngất ngưỡng” của kẻ cầu cạnh không làm Ngô th́ Nhiệm cám cảnh, đă bị từ chối. Sau khi vua Quang Trung mất, Triều chính vào tay Bùi đắc Tuyên và suy vi, tạo thời cơ Nguyễn Ánh phục quốc, lên ngôi vua năm 1802 và giao cho Đặng trần Thường xử tôi những cựu thần Tây sơn tại Văn miếu. Trước khi đàn hịch, là kẻ thắng trận đầy tâm cao khí ngạo, Đặng trần Thường mỉa mai ra câu đối cho kẻ thua trận Ngô th́ Nhiệm đang bị căng nọc :

“Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?”
“Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”

Ngô th́ Nhiệm cay đắng trả lời như vậy và đă bị Đặng trần Thường quyết tâm đánh chết ( 1803 ) v́ tư thù. Về sau, Đặng trần Thường lại bị hiềm nhân Lê Chất cáo “ẩn lậu dinh điền”, tố chiếm đoạt ao hồ lúc coi việc “tào binh” ở Bắc thành, nên bị tội “xử giảo” ( thắt cổ chết ).
Một giai thoại văn chương khác, vừa đẹp lại vừa bi ai: Nguyễn Trăi và Nguyễn thị Lô. Nguyễn Trăi ( 1380-1442 ), đỗ Thái học sinh năm 1400, là đại thần Hậu Lê và Nguyễn thị Lộ ( 1390-1442 ), người làng chiếu Hải triều, Ngự thiên, Thái b́nh, có tài lại có sắc, vợ thứ của Nguyễn Trăi. Chuyện kể rằng, vào năm 1406 lúc Nguyễn Trăi mới 26 tuổi đang làm quan nhà Hồ th́ gặp thị Lộ mới 16 tuổi ở Vũ lăng. Ông liền ỡm ờ ứng khẩu:

“Ả ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay c̣n
Xuân xanh nay được bao nhiêu tuổi
Đă có chồng chưa được mấy con?”
Bà Nguyễn thị Lộ vốn con nhà có học lại có tài thơ, liền đáp lại:
“Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon
Can chi ông hỏi hết hay c̣n?
Xuân xanh nay được trăng tṛn bóng
Chồng c̣n chưa có, có chi con!”

Rồi hai người lấy nhau và vụ án “Lệ Chi Viên” xẩy ra, khiến người đời bàng hoàng thương cảm. Một cách vắn tắt vụ án như sau: năm 1442 nhân ngự kiến duyệt binh ở Chí linh, vua Lê Thái tông ghé thăm cựu thần Nguyễn Trăi lúc bấy giờ đă về trí sĩ ở Côn sơn, thuộc huyện Chí linh, gặp bà Nguyễn thị Lộ và bắt theo hầu. Đến huyện Gia b́nh, Bắc ninh th́ vua băng hà. Triều đ́nh bắt tội bà cùng chồng rắp tâm ám hại nhà vua nên phải tội “tru di tam tộc”.

Một câu đối hay giữa hai thầy tṛ Đàm thuận Huy và Nguyễn giản Thanh ( lúc c̣n bé ). Trời mưa to, Nguyễn giản Thanh không về được, thầy Đàm thuận Huy bèn ra câu đối thử tṛ :

“Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”
( Mưa không then khóa mà có thể giữ được khách )
Ông Nguyễn giản Thanh bèn trả lời ngay :
“Sắc bất ba đào dị nịch nhân”
( Cái sắc đẹp của phụ nữ không phải là làn sóng lớn nhưng dễ nhận ch́m người )

Nguyễn giản Thanh đỗ Trạng nguyên khoa thi Đoan Khánh thứ tư ( 1508 ) đời vua Lê Uy Mục. Làm Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ ( đời nhà Lê ) và Thượng thư Bộ Lễ ( đời nhà Mạc ).
Ông Lê văn Hưu ( 1230-1322 ), người Đông sơn, Thanh hóa, đỗ Bảng nhăn năm 17 tuổi ( 1247 ), làm đến Binh bộ Thượng thơ. Ông viết quyển “Đại Việt Sử Kư” ghi lại những sự kiện lịch sử từ thời Triệu Đà ( 207-136 trước Tây lịch ) cho tới Lư chiêu Hoàng ( 1224-1115 ), làm cơ sở cho ông Ngô sĩ Liên đời Hậu Lê ( đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm tuất 1442 ) viết quyển “Đại Việt Sử Kư Toàn Thư”. Ông nổi tiếng thông minh, một hôm thuở thiếu thời, nhân ngang qua một ḷ rèn, thấy bác thợ rèn đang rèn những dùi sắt ( để dùi lổ sách, vở… ), ông ṭ ṃ đứng xem, muốn xin một cái. Bác thợ rèn biết vậy, bèn ra vế đối, nếu “đối” thông, bác sẽ cho một cái. Bác đọc:

“Than trong ḷ, sắt trong ḷ, lửa trong ḷ, thổi ph́ pḥ đúc nên dùi sắt”.
Rất nhanh nhẹn, cậu học tṛ c̣n măng sửa “đối” ngay:
“Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu Khôi nguyên”.

Cũng nên biết, năm Đinh Mùi ( 1247 ) là năm đầu tiên ở Việt Nam có danh hiệu Tam Khôi ( Trạng Nguyên, Thám Hoa, Bảng Nhăn . Năm thi đó toàn những thần đồng: ông Nguyễn Hiền 12 tuổi đậu Trạng Nguyên; Ông Đặng ma La 14 tuổi đậu Thám Hoa và ông Lê văn Hưu 17 tuổi đậu Bảng Nhăn ).

Một giai thoại khá ly kỳ: Nguyễn hữu Cầu và Phạm đ́nh Trọng, nguyên là bạn học cùng thầy nhưng thù nghịch “ bất cộng đái thiên” với nhau. Về sau, Phạm đ́nh Trọng làm quan đi bắt giặc Nguyễn hữu Cầu. Sơ lược : Nguyễn hữu Cầu ( ? - 1751 ), người Thanh hà, Hải dương, có lúc nhà nghèo làm cướp, năm 1731 theo Nguyễn Tuyến, Nguyễn Cừ nổi lên chống Triều đ́nh, bị Phạm đ́nh Trọng bắt ở Nghệ an và tử h́nh vào tháng 3 năm 1751 cùng với loạn quân Nguyễn danh Phương ( Quân Hẻo ). Ông giỏi vơ, có sức mạnh, được mệnh danh Hạng Vơ Việt Nam và có tài bơi lội giỏi, người đương thời gọi ông là Quận He ( He là tên một loại cá ngoài biển ). Phạm đ́nh Trọng ( 1714 – 1754 ) làm đến chức Binh bộ Thượng thư, gốc Kim môn Hải dương, đỗ Tiến sĩ năm 1739, đánh và bắt được giặc Nguyễn hữu Cầu. Ông mất năm 1754 ( vừa tṛn 40 tuổi ). Lúc nhỏ, thầy ra vế đối cho Nguyễn hữu Cầu và đă đoán biết được rằng, sau nầy Nguyễn hữu Cầu sẽ làm loạn :

“Túng sử như B́nh tác tể”
( Giả như Trần B́nh được làm Tể tướng ). Túng: phỏng như, giả khiến
Ông đáp:
“Năng ninh cấm Tín tự vương “
( Cấm sao được Hàn Tín tự xưng vương ). Ninh: sao?.

Tương truyền, khi đối chiến ngoài mặt trận, ông Phạm đ́nh Trọng có đưa thư dụ hàng cho ông Nguyễn hữu Cầu, trong đó có ra câu đối :
“Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ”
( Chữ thổ cắt đi nửa nét ngang, trông xuôi là chữ thượng, trông ngược là chữ hạ ). Ông Phạm Đ́nh Trọng nhận được thâm ư của người bạn đồng song mà ân oán ngút trời:
“Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương”
( Chữ ngọc có một nét chấm, đem lên th́ thành chữ chúa, mà dấu đi th́ thành chữ vương ).
Bài thơ “Chim trong lồng” nói lên khí phách một nhà văn, một nhà vơ tham vọng, ngang tàng, chí lớn của ông Nguyễn hữu Cầu, dù trong phút giây chờ hành h́nh nhưng vẫn khẳng khái, bất khuất, b́nh tĩnh mà làm thơ. Có mấy ai?:

“Nhất lung thiên địa tàn thân tiểu
Vạn lư phong vân cử mục tần
Hỏi sao sao lụy cơ trần?
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót câu thiên túng trong ṿng lao lung
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu Bắc
Đàn loan kia túc tắc cành Nam
Mặc bay đông ngữ tây đàm
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung
Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán
Phá ṿng vây làm bạn kim ô
Giang san khách diệc tri hồ?”

Riêng trường hợp của hai nhà thơ cũng trước bạn sau thù nhưng, không sắt máu như trường hợp của các ông Đặng trần Thường - Ngô thời Nhiệm hay Phạm đ́nh Trọng - Nguyễn hữu Cầu ở trên nhưng, bút chiến cũng nặng lời qua lại. Một người theo Pháp; Một người theo Triều đ́nh. Hai ông bênh vực thái độ của ḿnh qua thơ văn một cách tài t́nh, hy hữu.

Ông Tôn thọ Tường ( 1825 – 1877 ), người Tân b́nh, Gia định. Học ở Huế, nổi tiếng văn hay chữ tốt.V́ túng thiếu, làm bài thi mướn bị bắt nhưng được tha. Buồn thân, bèn về quê chờ thời. Ông lập ra “Bạch mai Thi xă” xướng, vịnh với bạn thơ, có Phan văn Trị, Bùi hữu Nghĩa, Nguyễn Thông, Huỳnh mẫn Đạt…Năm 1862 theo Pháp, làm Tri phủ Tân b́nh. Năm 1871 thăng chức Đốc phủ sứ và sau về dạy Hán văn trường Hâu bổ ( Collège des Stagiaires ) ở Nam kỳ. Năm 1877 theo Tổng lảnh sự Pháp de Kergaradec thị sát vùng thượng du Băc kỳ, bị sốt rét mà chết.

Ông Phan văn Trị ( 1830 – 1910 ), người Giồng trôm, Bến tre, đỗ Cử nhân năm 1849, không ra làm quan, ở nhà dạy học, làm thầy thuốc và làm thơ. Như nói ở trên, ông trong nhóm “Bạch mai Thi xă” với ông Tôn thọ Tường những lúc ban đầu. Từ khi ông Tôn thọ Tường ra làm quan cho Pháp, hai ông trở nên thâm thù và những trận bút chiến kịch liệt, gây gắt. Cũng từ đó, văn học sử của chúng ta c̣n để lại vết tích những giai thoại hiếm hoi quư giá và những bài thơ liên hoàn tuyệt tác: xướng ( Tôn thọ Tường ), họa ( Phan văn Trị ). Xin được chép ra một bài tiêu biểu :
Tôn phu nhân quy Thục ( của Tôn thọ Tường, nhằm giải bày tâm sự, nỗi ḷng phải đành ḷng hợp tác với Pháp )

“Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ ṭng
Ngh́n thu rạng tiết gái Giang đông
Ĺa Ngô bịn rịn cḥm mây bạc
Về Hán trau tria mănh má hồng
Son phấn thà đem dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Chu công Cẩn
Thà mất ḷng anh, đặng bụng chồng”
Bài họa ( của Phan văn Tri, để đả kích hành động hợp tác với Pháp của Tôn thọ Tường )
“Cài trâm, sửa áo vẹn câu ṭng
Mặt ngả trời chiều biệt cơi Đông
Ngút tỏa đồi ngô un sắc trắng
Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Anh hởi Tôn Quyền, anh có biết!?
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng”

Hai bài thơ trên của hai ông Tôn thọ Tường và Phan văn Trị dựa trên câu chuyện t́nh có tính cách chính trị thời “Tam Quốc” ( Bắc Nguỵ, Đông Ngô, Tây Thục ) cách đây gần 1800 năm ( 220 – 280 ). Tôn phu Nhân là con gái Tôn Kiên (cùng cha khác mẹ với Tôn Quyền, Tôn Sách ), theo kế hoạch của Chu Du, tự là Công Cẩn ( 175 – 210 ), một danh tướng cũng là một quân sư ( Đông Ngô ), giả gả Tôn phu Nhân ( c̣n gọi là Tôn thượng Hương, Tôn Nhân ) cho Lưu Bị ( Tây Thục ), mà thật t́nh là t́m cách khử đi. Được bảo vệ bởi dơng tướng Triệu Vân theo sự sắp xếp của Gia cát Lượng, tự là Khổng Minh ( 181 –231 ), Chu công Cẩn đă không thành. Lưu Bị thoát hiểm, được vợ. Ông Tôn thọ Tường đă ví ḿnh v́ bắt buộc phải ra làm quan cho Pháp như Tôn phu Nhân trong t́nh thế chẳng đặng đừng lấy chồng th́ phải theo chồng “…Ai về nhắn với Chu công Cẩn, thà mất ḷng anh, đặng bụng chồng”. Nhưng ông Phan văn Trị cho rằng, đó là thói ngụy biện. Ừ, th́ cho, “tam ṭng” là đạo đàn bà đi, nhưng ông Tôn thọ Tường quên ḿnh là một sĩ phu mà “tam cương” là giềng mối “…Anh hởi Tôn Quyền, anh có biết!?, trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng”.

Chúng ta, ai lại không nghe nói đến Trạng Tŕnh Nguyễn bỉnh Khiêm ( 1491 – 1585 ). Câu sấm thường bàn bạc rất nhiều “Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh. Can qua xứ xứ khổ đao binh. Mă đề dương cước, anh hùng tận. Thân dậu niên lai kiến thái b́nh” ( câu 185-188 trong “Cảm Đề” ). Ông đậu Trạng nguyên năm 44 tuổi ( 1535 ), được bổ làm Tả thị lang Đông các Học sĩ, tước Tŕnh tuyền hầu ( nên gọi là Trạng Tŕnh ). V́ dâng sớ hạch tội 18 lộng thần không thành ( 1542 ), ông cáo quan, về dạy học. Học tṛ của ông có Trạng Bùng Phùng khắc Khoan, Nguyễn Dữ ( tác giả “Truyền kỳ mạn lục” ), Lương hữu Khánh ( Thượng thư ). Ông để lại “Bạch vân thi tập”, “Tŕnh quốc công Nguyễn bỉnh Khiêm thi tập”. Ông giỏi về thuật số, được người đời ca tụng là “nhà tiên tri” và người Tàu khen ông là “An nam lư số hữu Tŕnh tuyền” ( Chu Xán, sứ giả nhà Thanh ). Giai thoại cho rằng, ông đă khuyên Nguyễn Hoàng lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn với câu: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” ( một dăi Hoành sơn, dung thân đời đời ). Và đương những ngày sắp lâm chung ( 1585 ) c̣n cho Mạc mậu Hợp ư kiến, rằng: “Cao bằng tuy tiểu, khả dung sổ thế ( Cao bằng tuy nhỏ, cũng được vài đời ), đă giúp nhà Mạc trị v́ thêm gần 80 năm nữa. Khi Lê trung tông mất, Trịnh Kiểm muốn tiếm ngôi nhưng c̣n e, ông đă chỉ: “giữ chùa thờ Phật th́ ăn oản” hay “nên t́m thóc cũ mà gieo th́ tốt” ( ư rằng, giữ phận bề tôi th́ hay hơn ). Biết ư, Trịnh Kiểm đă lập Lê duy Bang ( gịng giỏi nhà Lê ) lên làm vua là vua Lê anh Tôn, từ đó vua Lê, chúa Trịnh đă tồn tại được gần 200 năm ( “Lê tồn Trịnh tại” ). Tiếng đồn mẹ ông là bà Nhữ thị Thục ( con Thượng thư Nhữ văn Lân ) có hoài bảo rất to tát là, mong ông sau nầy sẽ làm vua: “bồng bồng bang bang, ngày sau con lớn, con tựa ngai vàng”. Dĩ nhiên là không thành cũng như đứa con chồng sau là Trạng Bùng Phùng khắc Khoan. Bà nh́n ra, nh́n thấy anh làng chài Mạc đăng Dung sẽ là vua tương lai, tiếc rằng ḿnh đă luống tuổi.

Bây giờ xin đến ông Mạc đỉnh Chi ( 1280 – 1346 ) có tướng mạo xấu xí, người Nam sách, Hải dương, đỗ Trạng nguyên năm 1304 ( đời Trần anh Tông ), làm đến chức Thượng thư. Ông có tài ứng xử, đối đáp tài t́nh, sắc bén, được người Tàu xưng tụng và mệnh danh là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Năm 1308 đi sứ nhà Nguyên trể, bị quan giữ thành giữ lại không cho vào. Họ đ̣i ra câu đối, đối thông mới mở cửa thành cho vào:

“Quá quan tŕ, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”
( Tới cửa ải trể, cửa quan đóng, xin mời khách qua đường cứ qua ). Tŕ: trể. Quá khách: khách qua đường. Câu đối ra khó, ông đối lại như kiểu đối “chạy làng” thật tài t́nh:
“Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”
( Ra đối dễ, đối câu đối khó, xin mời tiên sinh đối trước )

Đối hay, quan giữ thành mở cửa cho vào. Đến kinh thành, vua Nguyên vừa muốn thử tài quan trạng phía nước Nam vừa có vẻ tự đắc kẻ cả:

“Nhật: hỏa; Vân: yên; Bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ”
( Mặt trời là lửa; mây là khói; ban ngày đốt cháy vầng trăng )
Thông thả, không chịu thua, ông ứng ngay:
“Nguyệt: cung; tinh: đạn; hoàng hôn xạ lạc kim ô”
( Trăng là cung; sao là tên; chiều tối bắn rơi mặt trời ). Đạn: ḥn đạn, nghĩa ở đây là mũi tên. Khi vào phủ Thừa tướng nhà Nguyên, có bức trướng thêu h́nh con chim sẻ đậu trên cành trúc y như thật, quan trạng nhà ta chạy tới định bắt, mọi người cười ồ chế diễu, ông b́nh tỉnh, vừa xé bức trướng đi, vừa nói là, ḿnh chỉ thấy người ta vẽ cành mai với chim sẻ, chứ ai đời vẽ chim sẻ đậu trên cành trúc !? Trúc biểu tượng quân tử. Chim sẻ tượng trưng tiểu nhân. Tại sao tiểu nhân lại trên quân tử, e là đạo tiểu nhân mạnh, đạo quân tử yếu, v́ thánh triều mà ta phải trừ đi. Dù biết là gượng gạo nhưng người nhà Nguyên cũng “chịu” cái lư của ông ta. Một lần đi dạo với phái bộ nhà Nguyên, qua cầu bị sa hố, để đùa vui,một người họ ra câu đối:

“Can mộc, hoành cừ, lục giả tương như tư đạo”
( Gỗ thẳng, cầu ngay, đường đi ngỡ là đất thẳng ).
Khó câu nầy ở chỗ, người ra đối dùng toàn tên người nổi tiêng ghép lại: can mộc là Đoàn can Mộc đời Chiến quốc; hoành cừ là hiệu của Trương Tải, một triết gia thời Bắc Tống; Lục Giả là một lư luận gia giúp Hán cao tổ; tương như là Lạn tương Như, người nước Triệu, thời Chiến quốc; tự đạo là Giả tự Đạo, người nước Tống. Đang khi đó, ông nh́n thấy cái đ́nh dưới chân núbên sông, ông Mạc đỉnh Chi nghĩ ra và đáp ngay:
“Đại đ́nh, an thạch vọng chi nghiễm nhược Thai sơn”
( Đ́nh to, đá vững, nhác trông như thể Thiên thai ). Đại đ́nh là biệt hiệu của Thần nông. An thạch là Vương an Thạch, Tể tướng và nhà thơ nổi tiếng thời bắc Tống. Vọng chí làm Phụ chính cho Hán nguyên đế. “Nghiễm nhược” và “Thai sơn” chưa ai t́m ra là ai.

Nói làm sao cho hết, viết làm sao cho đủ một kho tàng văn chương của cha ông để lại. Người viết chỉ dám xin hầu quư độc giả chút chút chừng đó, mong “mua vui cũng được một vài trống canh” cũng là măn nguyện rồi. Điều quan trọng, “văn hóa là những ǵ c̣n lại sau khi đă mất” như Giám mục Bromley Oxnam nói “Culture is what is left after everything we have learned has been forgotten”. Viết lại một phần nhỏ nhoi mà dẫu có muốn lớn đi nữa cũng không đủ tài, không đủ sức để bà con thường lăm một chút thảnh thơi nỗi cơ cầu cuộc sống như theo lời chúc Tết ngày xưa của cụ Nguyễn công Trứ lúc c̣n thanh bần, rằng :

“Chiều Ba Mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng Mùng Một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.

Hoặc như nhà văn Khái Hưng trong “Tự lực Văn đoàn” cuối năm phải chắc lưởi than thân “Tết tiết túng tiền tiêu, tính toán toan t́m tay tử tế” mà làm sao cho mùa Xuân tràn trề khắp đất trời và ḷng người “bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” ( trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng ). Bây giờ là mùa Thu, một mùa Thu nữa đi qua đời lưu vong. Cây đổi màu lá, màu lá vàng vàng, đo đỏ, xanh xanh nhuộm buồn tha thiết như không vui chút nào nỗi đau trơ trụi mùa Đông gió lạnh, tuyết rơi, đ́u hiu...sắp đến nơi rồi. Nhưng sao đi nữa, mùa Thu ở đây thành phố Kansas City, Missouri nó buồn cũng lắm mà đẹp th́ cũng lắm. Gió heo hút từng cơn nhè nhẹ gợn mây xám bay lững lờ giữa không gian mịt mùng lá vàng óng ánh phầt phơ, dập d́u, đ́u hiu...dễ làm tê tái tâm hồn ngựi cô lữ tha huơng! Cũng may, chúng ta c̣n bạn c̣n bè, c̣n vợ c̣n con, c̣n báo, c̣n đài tv, radio...và c̣n sinh hoạt cộng đồng người Việt nói tiếng Việt mà không bị khô héo, buồn, tức tưởi... Cám ơn Trời. Cám ơn người. Đời c̣n đáng sống./.

Kansas City, Missouri , ngày 21 tháng 9 năm 2011

NGUYỄN THỪA B̀NH


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại