Nguyễn Mạnh An Dân
Tôi không sinh ra ở Tây Ninh, nhưng tôi đă có thể chết ở Tây Ninh,
chết v́ Tây Ninh, nhiều lần. Chữ chết hiểu theo nghĩa đen, chính
xác, bởi v́ tôi đến Tây Ninh với tư cách một người lính tác chiến
trong những năm sống mái mất c̣n cuối cùng của cuộc chiến,...mà tính
chất ác liệt, kể cả về quân số tham chiến cũng như kỷ thuật chiến
tranh đă lên đến mức cao nhất ở khắp các mặt trận. Với tôi, Tây Ninh
như một quê hương thứ hai, một nơi chốn tràn ngập kỷ niệm, thấp
thoáng niềm vui và giọng cười của tuổi thanh xuân và đầy ắp những
ngậm ngùi của chia ĺa, mất mát.
Tôi đến Tây Ninh lần đầu vào buổi sáng tinh mơ của một ngày đầu năm
1972. Đoàn convoy từ Phú Ḥa Đông, Hậu Nghĩa đă di chuyển trong đêm
để giữ tính cách bất ngờ, bí mật của cuộc hành quân. Tuyến xuất phát
là rừng cao su Trà Vơ. Tôi là một người lính mới được thuyên chuyển
từ miền Trung vào. Người Thiếu Úy phụ tá đă chỉ vào phóng đố hành
quân, có đánh dấu mục tiêu vừa cười vừa nói: "Ông coi chừng, lộ
tŕnh ngắn thế này nhưng không dễ nuốt đâu. Vùng ḿnh sẽ qua là Rừng
Sáu Mẫu, có khu Đám Lá Tối Trời ghê gớm lắm, máu của anh em ḿnh đă
đổ không biết bao nhiêu ở đây”.
Lời cảnh cáo của bạn tôi không sai, Tây Ninh đă đón tôi không mấy
dịu dàng. Mưa pháo đủ loại đă dập nhiều đợt lên đầu chúng tôi ngay
ngày đầu tiên; rồi đột kích đêm, rồi xung phong tràn ngập trong
những ngày sau đó, đoạn đường ba cây số đơn vị tôi phải gỡ trong bốn
ngày mới ló đầu ra được con lộ nhỏ giữa rừng cao su Cầu Khởi, và
người lính chưa kịp thở, và tôi chưa kịp nh́n Tây Ninh, convoy lại
xúc lên và thả về một mặt trận khác ở Phú Thứ, B́nh Dương.
Tôi bước xuống Tây Ninh ở b́a rừng cao su Trà Vơ với những âu lo và
trách nhiệm; tôi rời Tây Ninh giữa bạt ngàn rừng cao su Cầu Khởi với
một cơi ḷng u uẩn, ngậm ngùi v́ biết rằng hơn ba chục anh em tôi
đang lăn lộn, đau đớn ở đâu đó trong các quân y viện lớn nhỏ và một
số tương tự như thế đang ngủ yên trong những tấm poncho, cô đơn và
lạnh lẽo trong các nhà vĩnh biệt.
Tôi không biết ǵ nhiều về Tây Ninh trong lần gặp gỡ đầu tiên này.
Hôm đổ quân ở Trà Vơ, h́nh như thấp thoáng phía xa bên trái quốc lộ
là gịng sông Vàm Cỏ đang uể oải thức dậy; h́nh như phố nhỏ đang rục
rịch trở ḿnh cho một ngày mới; h́nh như khu chợ chồm hổm đă bắt đầu
xôn xao tiếng nói cười; h́nh như có những chiếc xe ḅ lọc cọc chở
hàng bông từ các vườn ra lộ; h́nh như quán café đă mở cửa với những
người khách ngồi gác chân lên ghế, đổ ly café xây chừng ra đĩa vừa
thổi vừa húp; h́nh như có những đôi mắt nai buồn buồn của các nữ
sinh G̣ Dầu đang đứng sau các cánh cửa mở hé nh́n theo bóng những
người lính đang lao về phía trước... Tôi không nhớ được điều ǵ chắc
chắn. Giờ đổ quân, đủ thứ liên lạc truyền tin léo nhéo trong máy.
Tôi nhận lệnh:”Hướng ba giờ, bung rộng con cái, tàng h́nh”. Tôi ḥ
hét lại những điều tương tự và chính tôi cũng phải tàng h́nh. Tôi
không có nhiều th́ giờ. Xin lỗi Tây Ninh, tôi không kịp nh́n bạn
nhưng xin chào bạn, bạn đă đón tôi bằng những kinh hoàng và tiễn tôi
với nhiều tang tóc nhưng tôi không trách bạn. Bạn không muốn vậy
đâu, phải không? Tôi hiểu bạn mà, chín mươi phần trăm người Tây Ninh
ăn chay trường, một con kiến c̣n không dám giết nói ǵ đến sinh mạng
con người; nội cái cách bạn đặc tên cho các địa danh thôi, tôi cũng
đủ hiểu bạn hiền lành chơn chất như thế nào, khiêm tốn t́nh nghĩa
như thế nào. Thiện Ngôn: một lời ác c̣n không dám nói huống ǵ việc
ác; Hiếu Thiện: ngỗ nghịch, dữ dằn hăy đi chỗ khác chơi, tên đất đă
nhắc nhở với mọi người như vậy mà. Khiêm Hạnh... Tôi chịu bạn lắm
Tây Ninh, ai mà khéo chọn cho bạn những cái tên hay hết chỗ chê;
điều quan trọng hơn là các bạn không chỉ đặt tên cho vui mà các bạn
đă sống và hành xử theo những mẫu mực như thế, tôi tin chắn điều đó
và thật ḷng ngưỡng phục bạn. Xin được làm một người bạn của Tây
Ninh, của Thiện Ngôn, Hiếu Thiện, Khiêm Hạnh...
Hăy lấy quốc lộ 15 là xương sườn, lấy G̣ Dầu Hạ và Thị xă Tây Ninh
là điểm chuẩn để mường tượng ra toàn cảnh Tây Ninh. Khi chiến tranh
chưa bùng lớn, nhu cầu chiến thật chưa đ̣i hỏi phải thành lập thêm
tỉnh Hậu Nghĩa, Tây Ninh bắt đầu từ Trảng Bàng với những hàng cây
thốt nốt cao vút và những tô bánh canh ḷng heo nổi tiếng. Rồi Tây
Ninh phải đứt ruột cắt Trăng Bàng cho Hậu Nghĩa, để chỉ c̣n lại các
quận Hiếu Thiện, Khiêm Hạnh, Bến Cầu, Phú Khương và Châu Thành.
Từ G̣ Dầu Hạ, rẽ vào con đường đất đỏ bên phải, qua Suối Cao, căn cứ
Đinh Bộ Lĩnh đến Khiêm Hạnh; tiếp tục đi nữa sẽ tới Truông Mít, Ngă
Ba Đất Sét. Từ đó, nếu rẽ phải qua Suối Ông Hùng, Bến Củi, Cổng Đen
đến Dầu Tiếng; nếu đi thẳng sẽ băng ngang một rừng cao su hun hút
vắng tanh đến Cầu Khởi, đồn Bắc Tiến ra Chà Là. Tại đây, nếu quẹo
phải sẽ qua Suối Đá, Núi Bà Đen; nếu đi thẳng sẽ về Long Hoa, Toà
Thánh.
Cũng từ Gó Dầu Hạ, nếu quẹo trái theo quốc lộ một sẽ lên Trà Cao, G̣
Dầu Thượng tiếp tục qua biên giới. Suốt một dọc dài mút mù bên trái
gịng sông Vàm Cỏ là những bưng biền xa tắp dẫn đến các mật khu Ba
Thu, Mỏ Vẹt. Các căn cứ Trà Cú, Bến Kéo như một hành lang thép bảo
vệ thủy lộ dẫn về Tây Ninh.
Từ châu thành Tây Ninh, qua chiềc cầu nhỏ phân chia khu hành chánh
và khu thương măi, nếu quẹo phải sẽ qua Cầy Xiên, Trăng Sụp, Trại
Bí; nếu đi thẳng băng ngang con phố chính, đường sẽ nhỏ lại và dẫn
đến Trăng Lớn, Cao Xá, qua bến phà Phước Tân và đi lên nữa. Tất cả
các ngă đường này đều dẫn đến vùng núi rừng biên giới với một dọc
các căn cứ biên pḥng heo hút và bất an: Thiện Ngôn, Bạch Đằng, Lạc
Long, Hưng Đạo .
Tây Ninh chỉ có vậy, mỗi địa danh tôi nhắc đến đều đă có lần, hay
nhiều lần, là băi chiến trường. Chốn địa đầu giới tuyến này phải
thường xuyên đối phó với một lực lượng lớn đối phương lúc nào cũng
ŕnh rập ở các an toàn khu bên kia biên giới. Tây Ninh có nhiều mật
khu với một lực lượng xâm lược hùng hậu cùng một hệ thống tiếp tế,
tiếp liệu được tổ chức qui mô và hoàn chỉnh. Tây Ninh như một cái
gai chiến lược cần phải xóa đi và đă nhiều lần phải hứng chịu những
trận đ̣n thù trí mạng trong sách lược xâm lăng của đối phương nên nó
phải trải ḿnh ra chống đỡ, phải đổ máu ra để sống c̣n, để bao vệ
cho từng người dân, từng tất đất của tổ quốc, của quê hương. Tây
Ninh khốn khó nhưng hào hùng; Tây Ninh khổ đau mà kiêu hănh. Tôi
cũng kiêu hănh v́ Tây Ninh, kiêu hănh được góp máu với Tây Ninh.
Thời gian lặn lội trên các chiến trường đủ để tôi quen với Tây Ninh,
quen lắm. Tôi có thể cầm địa bàn lên chỉ đến chỗ nào có thể lấy nước
giữa rừng cao su Cầu Khởi; tôi có thể nh́n bản đồ vẽ một lộ tŕnh
khô ráo giữa đồng bưng lầy lội Trà Cú, Phước Chỉ; tôi có thể đứng
bất cứ chỗ nào ở Tây Ninh gọi pháo binh bắn hiệu quả mà không cần
trái khói điều chỉnh. Người Tây Ninh tin là qua cơn khói lửa sẽ đến
ngày mở Hội Long Hoa trong ḥa b́nh, an lạc. Tôi muốn góp phần cho
cái ngày vui đó.
Quốc lộ 15, trước khi đến Mít Một để vào thị xă Tây Ninh, đường sẽ
chạy ngang một khu gia cư hoang tàn đổ nát của căn cứ Bến Kéo. Nơi
đây, có thời là một Trung Tâm Huấn Luyện và một Khu Gia Binh đông
đúc, nhưng khi chiến tranh lan dần đến gần thành phố, pháo kích ngày
đêm nhắm vào Bến Kéo, Trung Tâm Huấn Luyện được chuyển đi một nơi
khác và Bến Kéo chỉ c̣n những ngôi nhà tróc nóc, sụp đổ trong không
khí ảm đạm, nặng nề.
Cách Bến Kéo không xa lắm là ngă ba rẽ vào con đường đất đỏ rộng răi
dẫn về Ṭa Thánh qua các xóm đạo Trường Lưu, Trường Xuân. Đường có
một cái tên rất đẹp, rất lạ mang hơi hướng tôn giáo: Thiên Thọ Lộ.
Xóm đạo Tây Ninh có lẽ là những xóm làng đẹp nhất nước, kể cả về
khung cảnh ngoại dáng cũng như cách thức tổ chức đời sống xă hội.
Làng quê nhưng đường sá được phân chia vuông vức với những ngả ba,
ngả tư thẳng tắp như ở các thành phố mới, được qui hoạch cẩn thận.
Nhà cữa được phân lô đều đặn, nhà nào cũng có rào ngăn gọn gàng và
vườn tược phủ xanh một rừng vú sữa tươi tốt. Đời sống ở đây b́nh dị
nhưng kỷ cương nề nếp, có một hệ thống chức sắc Cao Đài song song
với hệ thống chính quyền chăm lo đời sống đạo đức và kiểm soát trật
tự xă hội. Sinh hoạt tập thể được tổ chức thành hệ thống Thập Nhị
Liên Gia; mười hai gia đ́nh hợp thành một khối gắn bó, giúp đỡ nhau,
chia xẻ cùng nhau mọi vui buồn cũng như công việc sản xuất, tiêu
thụ.
Đạo Cao Đài thờ một con mắt, ư nghĩa của nó rất rộng nhưng tôi chỉ
biết đại khái đó là Thiên Nhăn. “Thiên nhăn thấu ḷng trần”, người
ta tin là mọi việc tốt xấu trên đời, cho du øcó qua được mắt phàm
vẫn được ghi nhận, thấu rơ bỡi cái nh́n thiêng liêng. Mọi người đều
tự sửa ḿnh, tự hoàn thiện với hy vọng được lành tránh giữ và v́
thế, xóm đạo đă trở thành một nơi “đời thái b́nh cữa thường mở ngỏ”.
Muốn vào Thánh Địa qua ngơ Thiên Thọ Lộ phải vườt qua hai chiếc cầu
nhỏ: Đoạn Trần Kiều và Giải Khổ Kiều. Phải quên hết những hệ lụy của
trần gian, gột hết những ưu phiền của thế tục để dọn ḿnh vào Hội
Long Hoa.
Ṭa Thánh là một công tŕnh kiến trúc đồ sộ và độc đáo, nghe nói
việc xây dựng hoàn toàn dựa theo lời giáng chỉ của cơ bút mà không
theo đồ án của bất cứ một chuyên viên kỷ thuật nào. Thánh đường sừng
sững uy nghi giữa một khu đất rộng như một công viên lớn với đủ thứ
kỳ hoa dị thảo, bốn mùa tươi tốt, ngát hương. Nội vi Toà Thánh trông
như một thành phố nhỏ với đường sá ngang dọc thẳng tắp, nhà cữa
khang trang, cao rộng với các khu thờ phượng, hành chánh và sản xuất
riêng biệt.
Bên trong nội đường, khung cảnh vừa hùng tráng uy nghiêm, vừa diễm
ảo thoát tục. Đại điện chia làm chín cấp tượng trưng cho cửu trùng.
Thăm thẳm vút trên trần cao là bầu vũ trụ với hằng hà sa số những
tinh tú lấp lánh, được chống đỡ bỡi hai hàng cột sơn son thiếp vàng,
chạm trổ công phụ Toàn cảnh tạo nên một không khí vừa trầm mặc
thiêng liêng vừa thanh cao xuất thế.
Tuy nhiên, điều đáng nói về Toà Thánh không chỉ v́ khung cảnh xinh
đẹp, kiến trúc hùng vĩ mà c̣n v́ hệ thống tổ chức qui mô và phương
thức điều hành khoa học, mang tính nhập thế của nó. Toà Thánh, cơ
quan trung ương của giáo hội, được điều hành bỡi một cơ cấu tổ chức
phức tạp, mang nhữntg tên gọi có vẻ thần bí, cao xa nhưng tựu trung
giống như hệ thống tổ chức của một chính quyền, với đầy đủ cơ cấu
lập pháp, hành pháp, tư pháp riêng biệt. Mỗi cơ cấu trung tâm có một
hệ thống nội thuộc hàng dọc chuyên trách về đủ mọi lănh vực: Tổ chức
phát triển, giáo lư giáo luật, thông tin, giáo dục, y tế, kinh tế,
xă hội...
Khách đến thăm Ṭa Thánh được đón tiếp chu đáo và được hướng dẫn tận
t́nh. Ngoài vườn, rải rác ở các giao lộ, lúc nào cũng có các hướng
dẫn viên mẫn cán sẵn sàng giúp đỡ mọi việc, đồng thời can thiệp,
nhắc nhở để không khí của Ṭa Thánh luôn được trong sạch, thanh
khiết, không có những lời nói thô lỗ, những cử chỉ sỗ sàng.
Nghe nói cổng tam quan của Ṭa Thánh vẫn c̣n đóng lín, nó sẽ chỉ
được mở ra ngày hạ giới thanh b́nh hoan lạc, mở Hội Long Hoa. Người
Tây Ninh tin là ngày ấy không xa.
Với người lính, có lẽ cả hai bên, đạo Cao Đài gần gũi qua h́nh ảnh
những đạo t́ chuyên giúp việc thu dọn chiến trường. Có những trận
đánh ác liệt, kéo dài, lực lượng hai bên tranh nhau từng tất đất,
thương binh, tử sĩ bị kẹt giữa hai lằn đạn. Khi ấy những đạo hữu Cao
Đài sẽ có mặt: áo quần trắng để dễ nhận dạng, cờ trắng cầm tay, họ
đi vào vùng lửa đạn, săn sóc, di tản thương binh; tẩm liệm, bàn giao
hay chôn cất tử sĩ bất kể là bên nào. Những lúc như thế, như một
hiệp ước bất thành văn, mọi vị trí pháo binh đều ngưng tác xạ, mọi
vủ khí cá nhân đều hạ thấp ṇng. H́nh ảnh nhưng tu sĩ đầy ḷng quả
cảm và vị tha đă làm cho chiến trường trầm lắng lại và khiến ḷng
người xao xuyến, suy tự Đạo là hiện thân của t́nh thương và sự tha
thứ; tuy nhiên, đạo cũng đồng thời không khoan nhượng với điều ác,
sự xấu. Lịch sử của giáo hội đă gắn liền với một chuỗi dài nhưng
tranh đấu cam go cho độc lập tự do của tổ quốc và dân tộc. Liệt sĩ
Hồ Thới Bạch, người con yêu của Tây Ninh, biểu tượng của nghĩa khí
và lư tưởng “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” đă cùng liệt sĩ Trần Văn Bá, Lê
Quốc Quân và biết bao anh hùng liệt nữ khác vĩnh viễn đi vào vinh sử
của dân tộc.
Có một xóm đạo Thiên Chúa Giáo giữa Thánh Đại Cao Đài, có một xóm
Bắc kỳ giữa tỉnh địa đầu miền đông Nam bộ: Cao Xá, Phong Cốc. Đây là
hai làng di cư nằm cách thị xă Tây Ninh bảy cây số về hướng Phước
Tân, qui tụ những người cùng họ đạo với nhau ở quê hương cũ, khi ra
đi đă mang theo cả tên làng dặt cho vùng đất mới. Thoạt đầu, thật ra
cũng có nhiều ngộ nhận, hiểu lầm nhau do những khác biệt về ngôn
ngữ, tập quán phong tục và lề lối sinh hoạt. Làm sao để những cụ già
quần cộc ḿnh trần, thoải mái ngồi trên những chiếc chiếu cói trải
trước sân nhà, nhắm miếng xoài xanh, xé con khô nướng, khà ly rượu
đế, tự nhiên nói cười ha hả... có thể gần gũi với những người đồng
trang lứùa, tỉ mỉ pha b́nh trà thơm, nhẩn nha viên từng bi thuốc
lào, khách sáo phân chia thứ bậc, kiểu cách mời mọc nhau năm lần bảy
lượt. Làm sao để những thanh niên bộc trực chơn chất, ruột để ngoài
da kiểu Nam kỳ có thể hiểu được cái rườm rà trong ngôn ngữ, cái khéo
léo trong hành động của các bạn đàng ngoài. Làm sao để những cụ bà
chân đất, mộc mạc trong chiếc áo trắng vải thô, ngày ngày làm công
quả ở Thánh thất nhiều hơn ở nhà, có việc ǵ cũng gọi “Trời đất ơi”
có thể thân thiện được với “quí phu nhân”, áo quần lúc nào cũng tươm
tất, đầu vấn khăn nhung, tay lần tràng hạt tay cầm quạt giất đi nhà
thờ, mở miệng ra là “Lạy Chúa tôi”.
Những dị biệt tưởng không thể lấp bằng, những mâu thuẫn tưởng không
thể hóa giải nhưng rồi những khó khăn chung, những trách nhiệm chung
đă làm mọi người gần lại với nhau. Cao Xá bị pháo kích, Long Hoa đau
ḷng. Súng nổ ở hướng Long Hoa, Phong Cốc không ngủ được. Cao Xá,
Phong Cốc đă ḥa đồng, đă bổ sung giúp Tây Ninh có bản sắc phong phú
đa dạng hơn. Chỗ nào trên đất nước cũng là quê hương, người nào trên
đất nước cũng là đồng bào. Tây Ninh mở ṿng tay thân ái với tất cả.
Tôi đă lỡ đại ngôn nói là rất quen Tây Ninh, biết rơ Tây Ninh như rơ
ḷng bàn tay ḿnh. Xin lỗi cho tôi được sửa lại: Có lẽ phải nói tôi
biết chiến trường Tây Ninh, biết đất nghèo Tây Ninh, biết dân khổ
Tây Ninh, c̣n thành phố Tây Ninh th́ nói thật, h́nh như của những
người khác. Trước sau, trong suốt nhiều năm dài lăng lộn với Tây
Ninh, tôi chỉ “về thành” có năm bảy lần mà lần nào cũng vội vội vàng
vàng, tranh thủ đôi ba tiếng đồng hồ, đợi lúc đơn vị lănh việc lục
soát mở đường, nhắm yên yên, tôi kéo năm ba em út, máy móc rè rè,
súng ống đạn dược từ đầu đến chân, giữ nguyên râu tóc hành quân để
hù quân cảnh, cùng chất năm chất bảy chật cúng trên xe lội chạy vù
về Tây Ninh. Quanh đi quẩn lại tôi chỉ được biết một số nơi rất giới
hạn.
Chỗ tôi đến đầu tiên là cái tiệm sách không có tên của cô ǵ xinh
xinh, có cái răng khểnh hay hay ở ngay dốc cầu, ngó chéo qua Ṭa
Hành Chánh. Thật ra phải gọi đây là tiệm tạp hóa có bán sách v́ từ
trong ra ngoài đầy nhóc đủ thứ hàng hóa, từ xà pḥng bột giặt đến
phân bón thuốc trừ sâu và đủ các thứ trên trời dưới đất khác, chỉ có
một góc nhỏ là chứa sách. Dẫu vậy, cô chủ ở đây có những đặt điểm
rất khó quên. Trước hết cô là người rất mê Nhă Ca, lần nào đến, nếu
không thấy cô đang đọc Đêm Nghe Tiếng Đại Bác th́ cũng Giải Khăn Sô
Cho Huế, cuốn nào cũng thuộc loại hàng dành riêng không bán, đóng
b́a cứng mạ chữ vàng rất đẹp; thứ đến cô trân trọng đặc biệt với hai
nhà xuất bản Lá Bối và An Tiêm. Tiệm nhỏ xíu, tất cả sách của mọi
nhà xuất bản khác đều nhốt chung trong hai dăy kệ dài, riêng sách
của Lá Bối và An Tiêm có một chỗ riêng, có tấm b́a cứng màu xanh ghi
tên nhà xuất bản bằng lối chữ rất bay bướm và trang trọng; cuối cùng
cô rất am tường sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Sài G̣n. Mán rừng như
tôi biết được chút ít sinh hoạt chữ nghĩa của Nguyễn Đ́nh Toàn,
Dương Nghiễm Mậu, Túy Hồng, Trùng Dương và nhiều tác giả khác là nhờ
“tờ báo nghệ thuật truyền thanh” này. Một chỗ đáng yêu như thế lính
mê là đúng rồi, ngó chữ nghĩa một chút cho bớt rừng rú đi, nên lắm.
Từ giả cô hàng sách, thầy tṛ tôi sẽ đi ngược về phía Ty Cảnh Sát,
quẹo phải vào một con đường nhỏ, nhỏ đến mức không có tên để tấp vào
quán café Thằng Cuội. Nghe nói chủ quán là mộ nghệ sĩ, có viết sách,
vẽ tranh. Quán là sự kết hợp của một chút Hầm Gió v́ có một từng hầm
ngồi âm xuống đất và một chút La Pagode v́ có cữa kiếng nh́n ra hai
mặt đường. Điều khác là nếu ở La Pagode bạn có thể “rửa mắt”, nh́n
nam thanh nữ tú dập diều th́ ở đây nh́n ra chỉ thấy lính và lính. Đủ
thứ quân binh chủng, đủ thứ trang phục và trang bị, hấp tấp tới lui;
ở đây bạn cũng có thể thấy những chiếc xe lội, kéo theo cái thùng
sơn phết hoa ḥe chất đầy bầu bí rau cải hay những chiếc xe ḅ cồng
kềnh rơm rạ, cuốc xẻng, gỗ củi buồn bă qua lại. Đôi khi, gặp lúc đẹp
trời may mắn, bạn cũng có thể gặp lúc nữ sinh tan trường nhưng chớ
vội mừng, các cô ở đây e thẹn khép kín lắm, đi ngang Thằng Cuội,
biết có người nh́n, cô nào cô nấy nón che nghiêng, phụ thêm chiếc
cặp “bảo vệ”, bạn sẽ chỉ được nh́n thấy chút tóc bay bay, tà áo bay
bay, vậy là cũng đủ “ấm ḷng chiến sĩ” rồi! Tây Ninh ăn chay trường,
Tây Ninh cấm sát sinh, Tây Ninh kỷ cương nề nếp lắm. Đừng lạng quạng
với Tây Ninh.
Ngồi Thằng Cuội, thật ra, với những người lính phải tranh thủ với
giờ giấc như chúng tôi chỉ cốt đỡ ghiền chứ không hưởng được hết cái
nhàn tản thú vị của dân uống café. Chúng tôi không có nhiều th́ giờ.
Thôi, đi chỗ khác chơi, làm vài ly coi bộ bốc hơn. Tới Phú Lai đi.
Phú Lai là quán nhậu “tới” nhất, là “người bạn” quen nhất của lính
Tây Ninh. Quán ở bên trái đường, nằm giữa con phố chính, nổi tiếng
v́ có bia đặc và thịt rừng độc đáo. Thịt ngon hết chỗ chê, bia ngon
hết chỗ chệ Những chai bia đặc sền sệt, thọc chiếc đũa vào khuấy
khuấy cho đều lớp đá mịn như bông tuyết, đưa cả chai lên tu một hơi,
bỏ miếng thịt thơm lừng vào “đưa cay” một phát, bia vào đến đâu mát
đến đó, thịt vào đến đâu thơm đến đó, thú vị đă đời hết biết.
Nói mắc cỡ, tôi tả cho vui vậy thôi chứ hồi đó lính uống rượu hư
lắm, không phong lưu lịch sự như vậy đâu. Vào quán, mỗi tên lấy
chuẩn một két hai mươi bốn chai, hết đợt này đến đợt khác, uống vũ
trụ quay cuồn, uống càn khôn đảo lộn, uống quên đời, uống chết bỏ.
Buồn quá mà, uất quá mà, chuyện cũ rồi, sợ ǵ mà không nói thật với
nhau một lần: Lính là người, không phải thần thánh cũng không phải
gỗ đá. Đạn bom, chết chóc, sợ chứ! Nhưng đó không phải là lư do
khiến người lính năo ḷng, chùn bước. Nói thật, chúng ta đă có một
tiền tuyến oai hùng nhuưng lại dung dưỡng một hậu phương bạc bẽo và
bất xứng. Sức mạnh của dân tộc đă không được sử dụng hết; nỗi đau
của dân tộc đă không được chia đều và trái tim của người lính một
nửa chết ngoài mặt trận, một nửa héo khô ngay trên đường phố của
ḿnh. Với người lính, ly rượu nào cũng có thể là ly cuối cùng; lần
gặp gỡ nào cũng có thể là lần sau hết và sự hy sinh của người lính,
dường như có một chút ǵ phí phạm, có một chút ǵ bất công. Vậy đó,
những giọt rượu đắng cay như nước mắt nhưng phải quên đi, quên để
tiếp tục đi tới bằng đôi chân rất thẳng, rất cứng của ḿnh, người
lính.
Nhiều bà nhiều cô ở Sài G̣n, ở các tỉnh lân cận chắc biết Núi Bà
Đen; nhiều người khác chắc có nghe nhắc đến tên Núi Bà Đen nhưng Núi
Bà của quí vị được hiểu đơn giản là cái điện thờ Phật Mẫu quanh năm
nghi ngút khói hương, với những huyền thoại về các ứng nghiệm linh
diệu của những lời khấn vái cầu xin. Với người lính, Núi Bà được coi
là một vị trí chiến lược quan trong, đó là một đài tiếp vậân truyền
tin giữ nhịp cầu liên lạc cho cả vùng ba chiến thuật; đó cũng c̣n là
một hiểm địa với những hốc đá kiên cố, những hang động sâu thẳm, dài
hút và một cao độ có thể quan sát và chế ngự cả một vùng rộng lớn mà
trong suốt cuộc chiến, quân ta đă đổ không biết bao nhiêu máu xương
để giữ không cho địch quân chiếm cứ làm bàn đạp tiến về Tây Ninh.
Tuy nhiên, giữa năm 1974, đơn vị pḥng thủ trên đỉnh Núi Bà bị tràn
ngập. Kế hoạch tái chiếm cấp quân đoàn được soạn thảo, trực thăng ở
Biên Hoà, ở B́nh Thủy được điều động, nhiều đơn vị chủ lực được
chuyển tới, hỏa công được áp dụng. Phải lấy lại Núi Bà bằng mọi gía,
nhưng mặt trận bùng lớn ở khắp nơi, nhiều đơn vị bạn đang cần trực
thăng, nhiều lănh thổ đang cần tiềp viện, Núi Bà tạm thời để đó. Dăy
đèn trên đỉnh núi không c̣n sáng nữa, người dân Tây Ninh buồn một
chút; vai người lính trách nhiệm pḥng thủ Tây Ninh oằn thêm một
chút và hậu quả đầu tiên của việc mất Núi Bà là máu xương đă đổ ra
để dành lại Suối Đá.
Trận Suối Đá lớn lắm, lớn về mức độ ác liệt, lớn cả ở nhân cách và
dũng khí con người. Cái làng nhỏ đ́u hiu bên chân núi Bà Đen, chốn
đia. đầu heo hút bất hạnh đó đă chia xẻ những giờ phút địa ngục bi
hùng, đă chứng kiến những cách sống và cách chết vượt quá tầm
thường, lớn hơn trí tưởng. Có nhà văn viết loạt bài “Những chuyện
cầu được kể lại”. Tôi xin phép được mượn ḍng tựa này cho những ǵ
tôi sắp nói.
Chuyện bắt đầu từ một đêm tối trăng, đạn bắn rực trời ở Suối Đá,
tiếng reo dậy đất ở Suối Đá. Tại Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu máy
truyền tin mở hết tần số làm việc. Đồn Suối Đá một báo cáo bị tấn
công; đồn Suối Đá hai báo cáo bị tấn công; lực lượng hành quân dă
ngoại ở gần Suối Đá báo cáo bị tấn công. Lệnh báo động khẩn cấp được
ban bố. Mọi nổ lực lớn nhất đă được huy động nhưng không có kết quả.
Trong một đêm, toàn bộ khu vực Suối Đá bị khoanh đỏ trên bản đồ hành
quân- dấu hiệu không c̣n quân bạn- Chuyện lớn, chiến trường đă vượt
quá khả năng điều động và giải quyết của Tiểu khu.
Sư Đoàn 25 tham chiến, Tiểu đoàn X/49 vào trận, không xong, Tiểu
đoàn trưởng vĩnh viễn ở lại Suối Đá. Ngày thứ hai của trận chiến,
2/46 vào trận; ngày thứ ba 1/46 và 2/10 thiết kỵ vào trận. Khúc
xương thật khó nuốc nhưng không có cách nào khác. Hồi trước, khó
khăn một chút là có người chia xẻ, ới một cái là có mũ đỏ Nhảy Dù,
mũ xanh Thủy Quân Lục Chiến. Bây giờ lực lượng tổng trừ bị đang
ghiềm súng ở đâu đó tuốt ngoài Trung, Bộ binh thành chủ lực chiến
trường, anh em Địa phương quân, Nghĩ quân họ đă ới th́ phải tới, cho
dẫu thế nào.
Nhiệm vụ thật chết người, đánh đấm cái ǵ mà có cái b́a làng có bờ
đất cao, có hầm hào sâu địch đă chiếm, có ngọn Bà Đen hiểm trở bên
trái địch đă chiếm; c̣n chút rừng cao su bên phải có thể ẩn nấp, di
chuyền được địch cũng đă chiếm. Nó chọn lựa địa thế, chỉ định mục
tiêu, lănh hết mọi phần thuận lợi và chừa cho người lính 25 hai cây
số đồng trống để đưa những cái đầu mềm có trái tim cứng cáp một chút
ra hứng pháo.
Bọn ác ôn khôn như cáo, mỗi lần pháo kích nó đốt khói đầy Núi Bà
Đen, phe ta có đưa ống nḥm nh́n nổ con mắt cũng không biết pháo
depart từ chỗ nào mà phản pháo; c̣n cái cách nó xung phong nữa, đúng
là hù người ta mà, lớp lang bài bản và tàn khốc kinh hồn lắm. Đầu
tiên nó sẽ chơi hỏa tiễn SA7, AT3 từ Núi Bà Đen xuống, rồi thổi sơn
pháo 85 từ rừng cao su qua, cọng thêm cối 82, cối 61 giă như mưa từ
Suối Đá. Nó chơi từng đứa để quần cho phe ta đừ; chơi đồng loạt để
phe ta ngóc đầu không lên, rồi nó thổi c̣i như giặc tới, nó la ó như
cháy nhà, ào ra một cái đông như kiến, toàn là thứ áo quần kaki Nam
Định, dân chơi thứ thiệt “sinh Bắc tử Nam”.
Suối Đá dữ như vậy nhưng không sao, chơi th́ chơi, bộ bọn qua chưa
từng thấy pháo, chưa từng thử sức với chính qui Bắc Việt sao? Ḿnh
biết nhau quá mà. Bọn qua không hay ho tài giỏi ǵ đâu, cũng không
có chiến thuật, chiến lược tân kỳ mới mẻ ǵ hết, đơn giản lắm:”Ôm bờ
mẫu, nằm tại chỗ, tác xạ”. Lệnh chỉ có vậy, vấn đề là có ĺ, có chịu
chơi đủ để thi gan với nhau đến viên đạn cuối cùng hay không mà
thôi. Bọn qua đâu có ớn, mấy em lên lẻ tẻ th́ chơi M16; mấy em muốn
tràn ngập th́ xổ đại liên M60; mấy em c̣n xa th́ câu M79; mấy em xáp
lại gần th́ thảy lựu đạn Mini, cỡ nào cũng ôm bờ mẫu. Nói thật t́nh,
hỏa lực đối phương áp đảo quá, quân số đối phương áp đảo quá, ớn
lắm. Ai cũng máu thịt cha sinh mẹ đẻ ra cả chứ có phải ḿnh đồng da
sắt ǵ mà không sợ. Ôm bờ mẫu, được rồi, nhưng sợ dần dà rồi có gan
cũng không c̣n mạng mà tiếp tục cuộc chơi. Thực tế như vậy nhưng
không sao, Pháo binh đâu có bỏ bạn bè, tất cả các vị trí hỏa lực đều
hướng ṇng về Suối Đá; tất cả các pháo đội hành quân lưu động đều
nhận lệnh kéo về Suối Đá. Đạn 105,155, 175 nổ chụp, chạm nổ và nổ
tŕ hoăn thi nhau hỏa tập lên mục tiệu như sét giáng, như trời gầm
mấy thằng em ngóc đầâu không lên nhưng chưa hết đâu, “phở ḅ” ngưng
tác xạ dùm đi, có gunship lên thế chỗ cho bạn rồi. cái đám “giặc
lái” thường ngày vẫn thấy bận đồ bay, đeo súng Colt xệ xệ như cao
bồi Texas, la cà ở mấy quán café lấy le với mấy em nữ sinh không ngờ
gan cùng ḿnh; pḥng không của người anh em bắn như đan lưới mà dám
lái trực trăng bay là là trên ngọn cây, phóng Rocket quả nào quả đó
bay u súng, tốc nắp hầm, đứng tim bể phổi người tạ “Đầm già” rời
vùng th́ bán phản lực A 37 sẽ ào tới, phản lực F5 sẽ ào tới. Tiếng
rít như xé trời, mảnh bay như văi cát. Mấy thằng em khựng lại hết,
dội ra hết, dĩ nhiên là lớp lớp tử Nam. Xin lỗi nghe, đợi khi nào
thư thả và thuận tiện, chúng ta sẽ có thể ngồi lại với nhau để cùng
nguyền rủa cái kinh tởm, tàn khốc của chiến tranh, c̣n bây giờ đă
chơi th́ phải chơi hết ḿnh, mấy em không chềt th́ bọn qua chết,
luật chơi như vậy mà, thông cảm dùm đi. Có trách th́ trách đám lănh
đạo ở Bắc Bộ phủ đă lùa mấy em vào đây, c̣n bọn qua chỉ làm nhưng
việc phải làm mà thôi. Làm hết ḷng nhưng không vui, nói thật t́nh.
Lính 25 ở Suối Đá đă chơi như vậy, đă ôm bờ mẫu ḅ lên, trường lên,
lao lên; đưa đầu ra hứng pháo, trân ḿnh ra lănh đạn trong mười bốn
ngày đêm. Lính tiếu lâm hay dùng chữ “chơi” để chỉ những lần giao
tranh, những cuộc đụng độ, có lẽ để tự trấn tĩnh, để làm nhẹ đi mức
độ căng thẳng, giảm bớt trạng thái kinh hoàng, nhưng ở Suối Đá, có
lúc, chữ chơi đă được hiểu bằng nghĩa thật của nó. Cái loại SA7, AT3
ǵ đó dễ sợ thật, nó giống như phù phép trong chuyện Phong thần, cục
lửa đỏ như bóng ma tà tà bay tới, như có mắt nh́n, như có tai nghe,
muốn đáp xuống đâu th́ đáp, muốn nổ lúc nào th́ nổ. Phe ta đi hành
quân mỗi lần đầy gật thiết giáp, nổ đâu không nổ nó cứ nhè xe nào có
nhiều cần ăng-ten là đáp xuống; xe cáng có nhiều ăng-ten càng có
nhiều thẩm quyền lớn, tệ nhất cũng có một Chi đội trưởng và một Đại
đội trưởng tùng thiết; lớn hơn chút nữa sẽ có một Chi đoàn trưởng và
một Tiểu đoàn trưởng chỉ huy cánh quân. Dễ sợ thật nhưng ở Suối Đá,
nhiều lúc nằm ôm bờ mẫu nằm chờ giặc tràn lên riết cũng buồn, nh́n
những cục lửa đỏ bay tới bay lui riết đâm quen, người lính quan sát
và phân tích: Nó không có mắt có tai khỉ ǵ hết, nó kéo theo cái
giây dài tḥng phía sau tức là nó được điều khiển từ xa, cục lửa nổ
chứ cái giây đâu nhằm nḥ ǵ, kéo đầu nó lại thử ra sao và người
lính nhào lên, chụp cái giây ǵ lại, cục lửa khựng lại giật giật như
diều bị kềm giây. Lính vỗ tay cười, nghĩ tiếp: Tên mầy là tầm nhiệt
phải không? Muốn th́ tao cho, bọn tao thiếu ǵ trái sáng, lại kia
kiếm đi và nó kiếm thật. Tái sáng bùng lên, thằng em như con thiêu
thân thấy ánh đèn, nhào lại, nổ đùng. Xong rồi nhé, vĩnh biệt cơn ác
mộng hỏa tiễn tầm nhiệt; bọn qua đă phế được công lực của em rồi, đă
trị được em rồi, hết hù nhau được nữa rồi nhé, đi chỗ khác chơi đi.
Người lính khoái chí reo ḥ, đùa nghịch với thằng tầm nhiệt và thấy
quên mệt, quên sợ, họ hồn nhiên chơn chất giữa cái sống và phút
chết, cố t́m một chút vui, cố giả một nụ cười. Nếu người lính ở Suối
Đá biết họ đang chơi với ai, có lẽ họ đă không chơi với thằng tầm
nhiệt vui vẻ như vậy. Ông đầu tàu cứ luôn miệng bảo: Rán lên mấy em,
rán tối đa đi mấy em! nhưng ông không nói rơ là phải rán để sống c̣n
với hai thằng đặc công D16 và D18; hai E chính qui Bắc Việt và một
trung đoàn pháo nặng. Người lính ở Suối Đá không được biết và cũng
không cần biết người anh em đă chơi gác như vậy, đă lấy thịt đè
người như vậy nhưng ăn thua ǵ, cỡ nào cũng phải chơi, biết hay
không biết th́ cũng phải cố tiến lên, không thể lùi một bước. Đó là
danh dự mà cũng là sống c̣n. Chuyện như vậy đó, dễ sợ lắm và cũng
hào hùng lắm nhưng đó không phải là lư do để tôi nhắc đến Suối Đá,
càng không phải lư do để tôi đại ngôn bảo là vượt quá tầm thường,
lớn hơn trí tưởng. Ở Suối Đá c̣n nhiều việc đáng nói hơn nhiều.
Tôi có nói là tất cả các đơn vị Ở Suối Đá đều mất liên lạc vô tuyến.
Sự thường điều ấy có nghĩa là tất cả đă thương vong, đă tan hàng
thất tán hết. Suối Đá không giống như vậy, trong suốt mười bốn ngày
đên của trận chiêÁn vẫn c̣n một người lính ốm súng ngồi dưới giao
thông hào đồn Suối Đá. Chuyện có vẻ như không tưởng nhưng lại hoàn
toàn có thật. Tôi không biết tên họ, sồ quân nhưng tôi biết cấp
buộc, chức vụ của người chgiến sĩ đơn độc đó: Thiếu úy, Phân chi khu
trưởng Suối Đá.
Sự thật, khi đồn Suối Đá bị tấn công, ấp Suối Đá bị tràn ngập, người
sĩ quan trẻ này c̣n dưới tay mươời một người lính và những người
lính thổ địa này biết rành rẽ từng đường ngang ngơ tắc nên việc rút
khỏi Suối Đá an toàn trước khi địch quân củng cố xong vị trí là điều
không mấy khó. Không phải anh em muối bỏ “ông thầy”, họ đă thuyết
phục: “Thầy coi,đồn Suối Đá một không c2n liên lạc được nữa, cà cái
ấp này đầy nghẹt bọn nó lúc nhúc ngoài kia, một ḿnh ḿnh ở đây tứ
đầu thọ địch không chịu nổi nữa rồi, phải di tản và hậu xét. Thầy đi
với bọn em”.
Đúng, những người lính nói không sai, cái đồn ranh giới cuối cùng
này quả đang đúng bên bờ vực thẳm, th6ảm quyền nào cũng có quyền ra
lệnh di tản trong những điều kiện như thế. Tuy nhiên, có một chút ǵ
không ổn, đâu phải điều ǵ hợp lư cũng đúng, đâu cứ không có lỗi
theo sự phán xử của đời thường là có thể thanh thản được với chính
lương tâm ḿnh. Bài Tiếng gọi quân trường đă bảo: ”Đem máu hồng pha
mồ hôi giữ non sông này” mà. Dẫu chỉ c̣n một người lính cũng chứng
tỏ sự hiện diện, sự xác nhận chủ quyền lănh thổ. Không thể bỏ Suối
Đá, bước chân ra khỏi cổng đồn này có khác nào một sự phản bội và
máu thịt của Tạy Ninh sẽ nhỏ lại một chút, gấm hoa của tổ quốc sẽ
ṃn đi một chút, trách nhiệm ấy thuộc về người chỉ huỵ Không thể
được, người sỉ quan trẻ nghĩ như thế và anh quyết định ở lại, một
ḿnh.
Thật ra chữ “một ḿnh” tôi dùng có lẽ không được chgính xac, nó đúng
khi chỉ lực lượng pḥng thủ Suối Đá nhưng nếu kể về số người thực sự
có mặt th́ không. Người bạn trẻ của chúng ta có hai người “khách
không mời”: hai tù binh bắt được từ chiều hôm trước, trước khi căn
cứ bị vây hăm, chưa kịp giải giao.
Người sĩ quan trẻ lo củng cố vị trí pḥng thủ: Những cái nón sắt
được cắm cọn móc nhú lên khỏi bờ đất thoạt trông có thể lầm là có
người bố trí kín bưng ṿng đai. Người chiến sĩ trong t́ng cảnh vô
vọng nhưng không tuyệt vọng, anh chạy ṿng ṿng dưới giao thông hào,
chỗ này bắn một loạt M16, chỗ kia xổ một tràng đại liên M60, góc
trái xịt một quả “Si nhô”, cạnh mặt bấm một trái ḿn định hướng,
trận địa cũng ́ đùng rơm rả lắm nhưng địch quân chắc thừa kinh
nghiệm đế biết lực lượng pḥng thủ không nhiều. Tuy nhiên, công đồn
chỉ là chuyện ohụ, đả viện mới là mục tiêu chính. Con cá Suối Đá đă
thọ thương, đă hết c̣n khả năng gây tác hại, cứ nằm im trên thớt đi,
muốn thịt lúc nào cũng được; v́ thế suốt mười bốn ngày đên của cuộc
chiến không có cuộc tấn công nào nhắm vào căn cứ. Người lính trẻ
sống giữa trùng vây quân địch với nỗi cô đơn cùng cực cùng thiên thu
guiờ khắc của những căng thẳng kinh hồn. Bị tấn công hay không, tính
chất bi thảm vẫn không có ǵ khác nhau. Người lính đă trải qua những
guiờ phút tưởng không thể trải qua, đă chịu đựng những áp lực vượt
quá sức chịu đựng. Như vậy đó, mười bốn ngày đêm.
Khi quân bạn vào bắt tay, người lính trẻ như đă già hơn mấy mươi
tuổi, anh không đủ động tác để diễn tả nỗi vui mừng, không đủ ngôn
ngữ để diễn tả nỗi vui mừng, chỉ đứng yên một chỗ và chảy nước
mắt.Không ai có thể diễn tả được hết ư nghĩa những giọt nước mắt của
một anh hùng. Tôi đứng nghiêm chào anh, b́nh sinh tôi vốn dễ cảm
động trước những sự việc phi thường, những con người phi thường nên
đă nghẹn ngào không nói thành lời, cứ đứng im và cũng chảy nước mắt.
Trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng có tả cảnh một đại úy chỉ huy cánh
quân bị vây hăm, khi được giải toa? đă vào bệnh viện thăm em bé liên
lạc đă liều ḿnh chạy giữa làn đạn thù, hy sinh cả một bàn chân để
kịp báo tin kêu quân tiếp viện. Viên đại úy đứng nghiêm chào và khi
em bé sửng sốt hỏi lư do, đă trả lời: Ta chỉ là một Đại úy, c̣n em,
em mới thực sự là một anh hùng”. Tôi muốn được nghe nhiều người
trong chúng ta nói với người lính trẻ ở Suối Đá những lời như thế.
Người sĩ quan trẻ đă được tư lệnh mặt trận bốc trực thăng về Củ Chi
gắn thêm một hoa mai vàng trên bâu áo nhưng tôi biết anh không vui.
Vinh dự của mỗi cá nhân cho dẫu có lớn đến đâu cũng không thể nở hoa
cho những trái tim đă héo úa v́ những mất mát chung. lấy ǵ đền bù
cho những giọt nước mắt của người mẹ già; lấy ǵ đền bù cho nỗi đau
ngất liệm của người vợ trẻ; vui sao được trước vành khăn tang quấn
vội trên đầu những em bé thơ! Mỗi người lính c̣n sống đă chứng kiến
rất nhiều cái chết của anh em đồng đội ḿnh. Tôi cũng vậy, đơn vị
được đón về sân vận động Long Hoa, nhiều tuyên dương công trạng được
tuyên đọc, nhiều huy chương mới, cấp bậc mới được trao gắng, nhưng
giữa rừng cờ xí, giữa tiếng trống kèn quân nhạc, trong ḷng mỗi anh
em chúng tôi khi rời Suối Đá, đă để lại một phần trái tim buồn rầu
của ḿnh ở đó. Không bao giờ tôi có thể quên được h́nh ảnh Chuẩn úy
Trần Hồng Thu và toàn thể tiểu đội vũ khí nặng cuả em, tám ngưới, đă
bắn đến viên đạn cuối cùng và đă cùng ra đi, chắc với nỗi ḷng thanh
thản cho dù thân xác của mỗi người bị đâm hàng trăm nhát lưỡi lê.
Trần Hồng Thu, chính em, đă tự chọn lựa con đường cho ḿnh. Quân đội
dẫu có tổng động viên cũng chưa đụng đến em, cậu bé mười bảy tuổi có
bằng tú tài đó đă t́nh nguyện vào Thủ Đức, rất ít phần coi binh
nghiệp như một cách tiến thân, rất nhiều phần do tiếng gọi vô h́nh
về sự lâm nguy của tổ quốc.
Ngày Trần Hồng Thu tŕnh diện đơn vị, hiệp định Ba Lê đă được kư
kết. Một hy vọng mới được nhen nhúm, quân đội dọn ḿnh để thích nghi
với nhiệm vụ xây dựng trong thời b́nh và thể chất là việc trước tiên
phải lọ Ở bià rừng cao su Dầu Tiếng, 5 giờ sáng mỗi ngày sau ca gát
cuối, mọi nơi vang lên tiếng kèn thể dục. Trần Hồng Thu nhỏ người
nhưng lớn giọng, bao giờ cũng chạy trước hàng quân, hô lớn để anh em
lập lại: Ta là- chiến sĩ- Bôï Binh- Không thích- Đi xe- Chỉ
thích- Chạy bộï- gặp sông- Ta lội- gặp nuí- ta trèo- gặp đèo- ta
qua- Đại đôi ba- Tiến. Đại đọâi ba và Chuẩn Úy Trần Hồng Thu
đă làm đúng theo lời nhật tụng của ḿnh. Không tiến được cũng không
lùi một bước, quân đội không rườm rà bóng bẩy ǵ cả, gọi như thế là
ngon lành. Không ngon sao được, Đại đội ba do Trung Úy Thắng “mát”
nắm mà. Xin lỗi bạn, bạn biết đó, khi đặc hỗn danh cho bạn không ai
coi bạn là bất b́nh thường, bạn chỉ khác thường thôi. Không khác
thường mà xuất thân ḷ Chiến Tranh Chính Trị, đàn anh khóa hai, được
đào tạo để đánh giặc bằng cái đầu, cây viết và ba tất lưỡi, bạn đă
xin xuất ngành để trở thành lính bộ binh, am số chuyên nghiệp 240 để
nắm đại đội. Ước mong của bạn thật nhỏ: Được coi Tiểu đoàn để chấm
dứt t́nh trạng bắt anh em đi lính cho câu lạc bộ. Lính khổ quá, buồn
quá, nghỉ ngơi ở đâu một chút, xe Dodge của hậu cứ chở hàng lên giá
nào cũng chơi, kư sổ mà, và đến cuối tháng, từ bàn ông sĩ quan tài
ngân, bước qua bàn ông quản lư câu lạc bộ và nhẹ túi bước ra ngoài,
nên lính đùa là đi lính cho Câu lạc bộ. Thắng muốn dẹp nạn móc túi
người lính và chỉ có thể làm được khi chính mính có quyền; tiếc thay
anh chưa kịp “cứu” anh em th́ chính anh lại bỏ anh em . Chiều ngày
28-4-1975, Trung Úy Nguyễn Đức Thắng đă trở thành cố Đại Úy.
Phần tôi, biết nói sao khi rời Suối Đá tôi đă để lại rất nhiều máu, ḥa với máu của hai thằng em mang máy thân thiết. Trái hỏa tiễn nổ gần đă hất anh em tôi băng khỏi mặt đất. mấy giây mất cảm giác rồi tôi vuốt được mặt ḿnh, thấy đau ở sống mũi, nghe vị mặn của máu trên môi, biết ḿnh có thể đứng dậy nhưng hai thằng em th́ không. Lời hứa “rán lên, ra lần này anh cho mấy chú đi phép” không c̣n cần thực hiện. Hia người lính trẻ không c̣n cần về phép, họ đă về với đất mẹ.
Bây giờ, mỗi lần rửa mặt soi gương, nh́n vết thẹo nhỏ c̣n trên sống
mũi tôi nhớ Suối Đá, nhớ Tây Ninh, nhớ những anh em đồng đội đă nằm
xuống ngậm ngùi hay đang sống ngậm ngùi.
Ngày hềt là lính tôi c̣n trở lại Tây Ninh thêm một lần nữa trong một
chuyến đi rất buồn. Mười hai giờ đêm ngày 26.6.1975, đoàn xe bịt
bùng có bốn người lính Bắc Việt ôm súng gườm gườm áp tải chở anh em
chúng tôi rời trường Vơ Trường Toản ra Hồng Thập Tự, quẹo Đinh Tiên
Hoàng, theo Hiền Vương, Lê Văn Duyệt đến Bảy Hiền và tiếp tục lên
nữa. Xe trùm vải bạt kín bưng không ai thấy ǵ nhưng tôi biết ḿnh
đang đi đâu. Tôi cảm được một chút An hạ, một chút Trâm vàng; tôi
nghe được tiếng xào xạc của lá rừng cao su vên vên, Trà Vơ; tôi
ngưởi được mùi gió thơm lồng lộng thổi từ sông vàm Cỏ; tôi nhận ra
được nét thân quen của người bạn cũ Tây Ninh.
Bảy giờ ba mươi ngày 27, anh em chúng tôi bị lùa xuống xe giữa căn
cứ Trăng Lớn, có tiếng lao xao kêu gọi sắp hàng, có những lời chào
mừng ngọt ngào bóng bẩy nhưng tôi không nghe được ǵ, không nh́n
thấy ǵ. Doanh trại vẫn chưa thay đổi ǵ nhiều, người lính vẫn c̣n
cảm được nguyên vẹn mùi lính quen thuộc nhưng t́nh thế đă đổi khác.
Đây là Bộ Tư lệnh tiền phương cuả Sư đoàn, tôi đă nhiều lần cầm bản
đồ vào đây để họp hành, thảo luận; chúng tôi đâu chỉ biết nói chuyện
tác chiến, hành quân, người lính đang dọn ḿnh để đón ḥa b́nh có
nhiều điều để nói lắm. Đạo Cao Đài tin là sẽ có ngày mở hội Long Hoa
nhưng không biết cái hội thiên mơ ước ở cơi xa xăm nào đó bao giờ
mới được mở ra, riêng người lính ở Tây Ninh tin là chỉ cần có ḥa
b́nh, đời sống sẽ nở hoa ở ngay cơi đời này, trên vùng đất này. Tôi
cũng tin như thế v́ tôi thực sự yêu mến Tây Ninh, tôi tin đất, tin
người Tây Ninh. Tiếc thay, Tây Ninh quả đang chia với tôi chút ḥa
b́nh nhưng là thứ ḥa b́nh rơi nước mắt và bạn đang lận đận ngoài
kia, và tôi đang lao đao trong này, giữa ṿng rào Trăng Lớn.
Những ngày ở trại, buổi chiều tôi thường ngồi trên một bờ đất nhỏ
nh́n xuyên qua trùng trùng những lớp kẽm gai dơi mắt về phía Cầy
Xiên. Tôi có nhiều kỷ niệm ở cái xóm nghèo heo hút đó. Hồi cuối năm
1973, trên nguyên tắc lệnh ngưng bắn đă có hiệu lực, đơn vị tôi được
rút về dưỡng quân và pḥng thủ ở cầy Xiên. Đây là những ngày rất
vui. Người lính lau lại súng, kháo chốt an toàn; sáng sáng sắp hàng
hát nhạc chính huấn, ôn lại quân kỳ, quân phong, nghe sĩ quan ban 5
thuyết tŕnh về hiệp định đ́nh chiến, về kế hoạch hậu chiến và cả
quyết tâm tái chiến. Người lính rạng rỡ khuôn mặt, hô lớn “cố gắng”
lúc tan hàng rồi vội vă tản ra khắp xóm, uống với ông bác một tách
trà thơm, ăn với bà thiếm một nồi sắn luộc, chép cho cô em một khúc
vọng cổ mùi. Đêm đêm bố trí quanh quanh, nh́n được chút ánh đèn,
nghe được chút tiếng cười con trẻ, đổi gác có thể đi thẳng lưng,
buồn buồn có thể che tay sơ sài rít vội vài hơi thuốc lá. Người lính
hít được một chút b́nh an, thở được tí mùi êm ả, chụp vội một chút
niềm vui. Có một chút nhậu nhẹt, có một chút phá phách. Thông cản
giùm đi, cho lính nghỉ một chút, chơi một chút. Không lâu đâu, người
lính biết có những chông chênh, có nhiều bất ổn. cái hiệp định quái
quỉ ơ Ba Lê được kư bỡi Mỹ và thằng bắc Việt, chúng ta chỉ ké vào,
hàng ngang với cái quái thai Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam.
Một vết nhơ, một nỗi nhục. Người lính biết địch quân đang vội vă bổ
sung quân số, đang hối hả bôn tập vượt biên giới và người lính chờ,
súng có khóa an toàn nhưng đạn vẫn ở trên ṇng.
Ngày đó tôi có rất nhiều bạn nhỏ, đám trẻ ở vùng giáp ranh này không
lạ ǵ với h́nh ảnh những người lính nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên
có anh Trung úy chịu chơi, chịu ngồi bệt xuống đất thành ṿng tṛn
với các em, chia với nhau miếng đường thốt nốt, cùng ca hát và đùa
vui. Các em nhỏ vui lắm và những giọng hát rong trẻo, lảnh lót của
các em đă làm tươi lại nụ cười của người lính; làm ấm lại, bừng lên
sức sống của xóm nghèo.
Mấy ngày nay không nghe tiếng súng, không nghe giọng rít của pháo
binh, không thấy phi cơ nhào lộn oanh kích. hăy vui lên các em, hăy
vui nhưng phải biết là có những tạm bợ, có những mong manh và hăy
coi chừng. Hăy hát khúc B́nh Ca nhưng phải sẵn sàng một Giao Thông
Hào Thép; “ Chiều nay, rừng núi xôn xao, cờ phất phới bên giao thông
hào, trong tiếng hoan hô ḥa b́nh, đừng quên quân thù c̣n đó. Này
anh tiền tuyến thân yêu, ḷng hố cá nhân kia đang chờ, ôm súng trong
tay bền ḷng, v́ quân phương bắc c̣n đây”.
Dẫu sao, hăy kiêu hảnh và tin tưởng, chúng ta có thừa cam đăm, chúng
ta có thừa quyết tâm và nhiều hy vọng mà: “Ngàn người ngă gục th́
vạn người đứng lên, ḿnh mà ngă gục, th́ ḍng Lạc Hồng sáng tên.
Đứng lên, đứng lên cùng một ḷng. Cứu nguy cứu nguy người Việt hùng.
Dù xương phơi trắng đồng, ruộng xanh loan máu hồng, cho quê hương,
cho quê hương muôn năm vẫn c̣n”.
Phải cảnh giác, phải sẵn sàng nhưng ai cấm chúng ta mơ ước: “Bum,
bum bum bum, bum bùm, hồi trống vang lúa gạo sản xuất mỗi năm thêm
đều ḥa, tiếng chày rong đên tăng gia, tiếng cười trẻ thơ bay xạ Anh
em hởi thôn làng đang xây đắp, ấm no thanh b́nh tái thiết Việt nam,
hỡi Việt nam”.
Vậy đó, những ngày yên b́nh ngắn ngủi, rồi người lính lại mang ba lo
lên vai, súng cầm tay đi về phía trước. Không ai ngờ có ngày người
lính trở thành người tù, ngồi rong ṿng rào trại giam xót xa nghĩ
đến lớp lớp đồng bào đang thất thần ngơ ngác trong các nhà giam lớn
không có ṿng rào trên cả nước.
Ngày ở Trăng Lớn tôi được “dạy” về một thời đại anh hùng theo kiểu
cô du kích dùng liềm móc, kéo càng trực thăng; tôi được nghe xưng
tụng về một thiên đường có tủ lạnh chạy đầy đường ở Hà Nội; tôi được
hướng dẫn xây dựng đất nước to đẹp bằng năn bằng mười bằng cách phá
phi đạo phi trường lấy vỉ sắt lót chuồng heo, phá cột thép đài kiểm
báo lấy thép chữ U rèn dao, rèn rựa. Tôi đứt ruột nh́n căn cứ Trăng
Lớn tan ra từng mảnh; đứt ruột biết tài nguyên của đất nước, đạo
nghĩa của xă hội và tâm hồn của từng con người tan ra từng mảnh.
Tôi sống mà như đă chết một nửa, rồi cũng đến ngày tôi rời Trăng
Lớn. gặp gỡ và chia lià, người tù bị thay đổi liên tục, bị xào xáo
liên tục. Đợt anh em đầu tiên đi Phú Quốc, đợt kế tiếp đến Long Giao
rồi đến phiên nhóm chúng tôi chuẩn bị lên xe. Anh em chúng tôi lần
lược ra đi, cắn răng bỏ lại hai người bạn hồn phách không biết nơi
đâu nhưng thân xác c̣n vùi trong hai nấm mồ cô đơn, lạnh lẽo trong
ṿng rào Trăng Lớn.
Anh Ngô Nghĩa, chúng ta không quen nhau nhưng trong một nghĩa nào
đó, rất gần với nhau. Chúng ta cùng đeo chung một phù hiệu trên vai
áo. Ôi! cái nền xanh tười thắm cùng cái ṿng tṛn đỏ ngạo nghễ và
tia chớp dũng mănh đó làm sao có thể quên được! Thích hay không
thích đời lính, người lính vẫn luôn yêu mến và hảnh diện về cái phù
hiệu của đơn vị ḿnh.
Chúng ta là anh em hiểu theo nghĩa gần nhất, vậy mà bây giờ tôi sắp
phải đành đoạn bỏ anh mà đi. Hôm tụi nó xử anh bằng cái ṭa án rừng,
kết tội anh bằng một bản án rừng, nhiều anh em chúng ta bị bắt buộc
phải đi coi và trong nhiều đêm liên tục sau đó, bị buộc phải họp
thảo luận đề tài : “V́ sao Ngô Nghĩa phải chết” và mỗi anh em đều
phải t́m cho ra một lư do để “giết” anh. Ai cũng phải làm như vậy cả
dù đau xé trong ḷng, anh biết cái thế “cá chậâu” của bọn ḿnh mà.
Dẫu sao, xin cảm ơn anh, Ngô Nghĩa. Sự hy sinh của anh đă giúp chúng
ta nhận rơ thêm bộ mặt của kẻ thù, bỡi v́: “Tội ác đâu chỉ là bắt
người ta khóc; tôi ác c̣n là bắt người ta cười khi phải khóc” (Thơ
Nguyễn Phạm Thái).
Vĩnh biệt anh, Pháo binh Trung úy Ngô Nghĩa.
Anh Mai Gia Thược, tôi không biết anh, quân đội ta không có nhiều
dược sĩ, anh chắc phục vụ Ở một quân y viện, quân dược pḥng nào đó
ở Sài G̣n, Đà Nẵng, Cần Thơ hay một thành phố lớn nào đó c̣n tôi th́
ở ngoài rừng. Chúng ta ở xa nhau lắm nhưng chắc chắn hai đứa đă có
những lúc rất gần. Chúng ta đă từng có chung cái Khu Bưu Chính mang
số bốn ngàn một trăm, chúng ta cùng có ba phút mỗi bữa ăn, nuốy vôi
chén cơm nấu dở ở nhà bàn Thủ Đức để đ0ủ giờ chạy ra các băi tập
trên đồi Tăng Nhơn Phú. Chúng ta cùng có lúc nôn nao nh́n ngắm bộ đồ
đại lễ hồ cứng thẳng tưng, giày phép bóng lưỡng, ngù biểu chương
vàng áng sáng choang chuẩn bị cho lần phép đầu sau kỳ huấn nhục.
Chúng ta cùng có lúc ứng chiến ngày, ngôi mơ màng trên vọng gác
tuyến A, nh́n đất trời ngoài chợ Nhỏ hay thơ thẩn bên cổng số 9,
nh́n cây đa già ngoài xóm G̣ Công và cùng “Cư an tư nguy”.
Anh Thược, tôi đă quá dài ḍng khi nhận dạng anh em. Không cần thiết
như vậy đâu, chỉ cần xỏ vào người bộ đồ mang nhăn hiệu quân nhu,
chia với nhau nỗi đau của một dân tộc khốn khổ, chịu với nhau cái
nhục của mộ quân đội oan khiên, chúng ta đă thực sự là “anh em ḿnh”
rồi. Bữa anh nằm xuống nhằm giờ phát cơm và mặc dù không biết anh đi
v́ một phút yếu ḷng tuyệt vọng, hau là một thái độ phản kháng tích
cực, tất cả anh em chúng tôi, những người tù c̣n lại của cái L1-T5,
ḥm thư 7591 không ai nuốt trôi hột cơm nào trong bữa trưa ngày hôm
đó.
Sau này, không biết anh em nào đă ghi tên anh vào cuốn sổ thờ ở cái
miếu nhỏ của tiểu đoàn 2/49. Ngày c̣n ở trong hàng, không cần chờ
lệnh ai, Chỉ huy rưởng hậu cứ sẽ trân trọng phủ cho anh một lá quốc
kỳ và đặc trước linh cửu của anh ḍng chữ “Tổ quốc ghi ơn”. Lá quốc
kỳ ấy, ḍng chữ ghi ơn ấy, bây giờ, đang ở trong ḷng chúng tôi.
Vĩnh biệt anh, Dược sĩ Trung úy Mai Gia Thược.
Tôi rời Tây Ninh lúc trời nhá nhem tối, đoàn xe chạy ngang con phố
nhỏ đ́u hiu. Tôi không nh́n thấy quan Phú Lai, không nh́n thấy quan
sách của cô chủ răng khểnh, tôi không nh́n thấy ǵ hết ngoại trừ nét
buồn thảm và nỗi cô quạnh mông mênh, cùng khắp. Xe ngường lại ở G̣
Dầu : mưa chuối chiên khoai luộc; mưa Nông Nghiệp, Vàm Cỏ, Samit tới
tấp thảy lên xe. Trái tim người lính ấm áp một chút, không phải v́
thức ăn, không phải v́ thuốc hút mà v́ hơi ấm của t́nh nghĩa Tây
Ninh. Cảm ơn ông bà, cảm ơn mẹ, cảm ơn chị, cảm ơn em; cảm ơn nhưng
xin nói thật ḷng: Chúng tôi không đáng; dẫu thế nào, người lính đă
đắc tội, đă phụ ḷng. Chúng tôi mang ơn và chúng tôi mắc nợ với tât
cả, món nợ danh dự một đời.
Lần cuối ở Tây Ninh tôi đă cuối đầu, im lặng; bây giờ tôi vẫn c̣n
cuối đầu nhưng đă có thể nói với các em nhỏ ở Cầy Xiên rằng băo dữ
đă tàn lụn ở nhiều nơi, băo dữ đang lục dần trên quê hương của chúng
ta, lụn dần chứ chưa phải tắt hẳn nhưng chúng ta biết, chúng ta đă
từng nhắc nhở nhau: “ Anh em ta ơi, đường dài c̣n dài, c̣n nhiều trở
ngại, c̣n nhiều gian khó, anh em ta ơi, kiên tâm kiên gan quyết tâm
ta vượt quạ”. Cho dù “chân có mỏi” nhưng nếu “ḷng ta gan thép” th́
nhất định sẽ có ngày “trên đậu súng quê hương tổ quốc sẽ vươn ḿnh”
và khi ấy nhất định tôi sẽ rở về thăm Tây Ninh, trở về Cầy Xiên t́m
các em, những người bạn nhỏ, chúng ta sẽ ngồi lại với nhau dưới gốc
cây vú sữa,sẽ đốt lại cây đèn khí đá, kéo nhau ra soi ếch trên cánh
đồng rộng bên vành đai đồn Trăng Lớn. Không c̣n ḿn bẩy, không c̣n
đầu nổ 79, không c̣n đạn lạc tên baỵ Chúng ta sẽ thoải mái cười ha
hă, uống với nhau một bữa rượu đế ngây ngất đất trời rồi khi tỉng
dậy sẽ bắt đầu một ngày mới.
Trễ quá rồi, phải tận hết sức ḿnh đi nhanh về phía trước và chờ
ngày mổ hội Long Hoa. Hội sẽ được mở ở Tây Ninh mà, nhiều người nói
như thế.
Nguyễn Mạnh An Dân
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại