Mùa Xuân Uống Rượu

(Viết tặng các bạn nhậu)

Tác giả: Tràm Cà Mau

Khi nhận được trát đ̣i ông chồng bà Nam phải ra hầu toà v́ tội say rượu lái xe, phạm tội lần thứ hai, th́ bà nổi cơn tam bành lên, đem tất cả rượu của ông đổ xuống ống cống thoát nước. Ba thùng bia, mỗi thùng hai mươi bốn lon, năm chai rượu mạnh Whisky, và năm sáu chai rượu khác. Có chai ông Nam đă mua cả hơn trăm đồng bạc. Ông Nam ngồi nh́n bà vợ đang đổ rượu với đôi mắt toé lửa v́ giận. Ông nói lớn:

- Bà đă từng nghe người ta nói: ‘Cắt cổ không đau bằng đổ rượu’ chưa, mà bà đem rượu của tôi ra đổ đi?

- Không đổ, để ông ngồi tù rục xương, tôi phải bới xách, con cái xấu hổ không dám ngửng mặt nh́n thiên hạ. Đổ đi là cứu ông đó. Cứu cho cái lá gan của ông, con th́ c̣n nhỏ, ông đau gan chết, ai nuôi con cái cho đến ngày khôn lớn? Tôi cũng không muốn goá chồng sớm.

Ông Nam cười, nói giọng cà rởn :

- Đâu phải ai uống rượu cũng đau gan? Bác Tùng, chú Lợi, d́ Thu đâu có uống giọt rượu nào, cũng đau gan lăn đùng ra chết. Bà không biết ǵ cả. Thượng Đế đă thương yêu thế gian mà bày ra rượu. Không uống rượu là trái với thiên ư. Bởi vậy, khi cúng quảy, làm lễ trong nhà thờ, người ta cũng phải dâng rượu. Thượng đế, thần thánh, cũng c̣n khoái uống rượu, huống chi tôi. Bà đổ hết rượu, là giết chết tôi sớm hơn.

Bà Nam gắt lên:

- Nầy, ông đừng có phạm thượng nghe. Đem cả Thượng Đế, thánh thần ra mà nói những lời không lịch sự. Mai mốt chết đi, làm sao mà về được nước thiên đường?

- Bà biết một mà không biết mười. Những người uống rượu thường được về thiên đường trước. Bà biết tại sao không? Khi uống th́ sẽ say. Khi say th́ sẽ ngủ. Khi ngủ th́ không làm điều tội lỗi. Khi không có tội lỗi, th́ sẽ vào được nước thiên đường. Tu hành cho lắm, cũng sẽ vào nước thiên đường sau mấy chàng bợm nhậu.

Bà Nam xí một tiếng, nói:

- Nói thế mà cũng nói. Say sưa, lái xe gây tai nạn, làm chết người khác. Không là tội lỗi sao?

- Tôi có bao giờ say sưa đâu mà bà nói thế? Chỉ uống năm bảy lon bia, vài ba ly Cognac, chưa thấm họng, có ǵ mà say?

Bà Nam gằn giọng:

- Có bao giờ các ông say rượu nhận họ là say đâu? Khi nào cũng lè nhè rằng, tao có say đâu. Mà chỉ có đi đứng không vững, ăn nói không đầu không đuôi, lộn xộn, mắt hoa, đầu váng thôi. Đâu có say. Khi say xỉn, gục xuống mà ngủ kh́, th́ cũng bảo là chỉ buồn ngủ thôi, chứ chưa say.

Bà Nam thương ông chồng lắm. Ông rất tốt bụng. Chiều chuộng bà hết sức. Chăm sóc con cái không quản ngại mệt nhọc. Nhưng chỉ có cái tật uống rượu là không bỏ được. Uống từ sáng, khi mở mắt ra cho đến tối khuya trước khi đi ngủ. Mặt ông khi nào cũng đỏ bừng bừng bừng. Hơi thở nồng nặc mùi rượu. Mỗi sáng, ông nói với bà:

- Tội nghiệp cho những người không biết uống rượu. Khi thức giấc mỗi sáng, họ không biết được cái hạnh phúc lớn lao của một ly rượu đầu ngày.

Mỗi lần sau buổi nhậu với bạn bè, bà Nam có than phiền, th́ ông nói:

- Nhờ ly rượu mà t́nh bằng hữu nẩy nở dễ dàng. Những người uống rượu thường hay hào sảng, cởi mở và rộng răi hơn. Uống với nhau hết một chai rượu, tha hồ mà ăn nói lung tung, không cần giữ ư, giữ tứ. Không có ǵ để khách sáo, giấu giếm. Tốt, xấu đều phun ra dễ dàng. Bởi vậy, nên t́nh thân đến tự nhiên mau chóng. Tôi thường sợ người chỉ uống nước trong bữa tiệc rượu, v́ ngày hôm sau, họ c̣n nhớ những ǵ người khác đă nói. Quanh chai rượu là bạn bè. Trong ly rượu, là t́nh thân. Miệng người hoàn toàn sung sướng hạnh phúc, luôn luôn thơm phức mùi rượu.

Ngày trước, khi mới quen bà, ông Nam đến nhà thăm, và nhậu với ông bố bà. Ông Nam đem theo mấy chai rượu quư. Bố bà cũng là tay nhậu có tiếng. Thấy mấy chai rượu quư, th́ bố bà khoái ông rể tương lai ngay, không cần phải t́m hiểu lôi thôi chi nhiều. Khi uống say xỉn, ông đă vỗ vai ông già vợ tương lai mà gọi bằng mày tao . Mẹ bà giận lắm, cho ông là thằng mất dạy, không biết kẻ trên người dưới ǵ cả. Bà định đuổi ra khỏi cửa ngay. Nhưng ông bố bà thông cảm, bảo rằng, rượu nói, chứ không phải người nói. Tất cả được bỏ qua. Nhờ vậy mà ông có bà hôm nay. Bố vợ ông Nam, có lần say quá, đă mở ṿi tè vào chân bà xui gia tương lai, v́ tưởng bà là gốc cây bên đường. Chuyện nầy, làm cho cuộc t́nh duyên của chú em vợ bị lỡ dở.
Một lần, ông Nam đem sách ra đọc cho bà vợ nghe:

- Bà hăy lắng tai nghe, ngày xưa bên Tàu, họ ca tụng cái ông nát rượu Lưu Linh như thế nào không? Bốc lên thấu trời xanh, và liên tiếp hơn cả hơn ngàn năm sau, nhiều nhà văn, nhà thơ đă tốn không biết bao nhiêu là bút mực để nâng ông lên hàng thánh, thánh rượu. Đây, một đoạn viết về ông Lưu Linh: “Có một đại nhân lấy trời đất làm một buổi. Lấy muôn năm làm một chốc. Lấy mặt trời mặt trăng làm cửa ra vào. Lấy thiên hạ làm sân, làm đường. Đi, không thấy vết xe. Ở, không có nhà cửa. Trời tức là màn. Đất, tức là chiếu. Muốn ǵ làm nấy. Lúc ở th́ nâng chén, cầm bầu. Lúc đi th́ vác chai bưng mâm. Lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không c̣n biết đến ǵ nữa.

Bà vợ ông Nam cười khanh khách:

- Lúc say xỉn rồi, th́ trời đất, không gian, thời gian, cũng bé tí ti, chẳng ra ǵ, chỉ có chén rượu là lớn và quan trọng mà thôi. Cái thứ như ông Lưu Linh, th́ nước Mỹ có cả gần nửa triệu ông. Lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, lúc nào cũng say sưa và ch́a tay xin khách qua đường 25 xu. Có ông c̣n thành thật hơn, để bảng viết: “Nói láo làm chi? Tôi cần một lon bia” Thế mà có nhiều người cảm động cái thành thật của ông nầy, cho tiền nhiều hơn là những người ghi hàng chữ: “Tôi đói, cần việc làm” Không thấy có văn nhân thi sĩ nào ca ngợi, thán phục các ông Lưu Linh nước Mỹ nầy cả. Ông có nhớ cái thời chúng ta mới đến Mỹ, đi trên đường phố Philadelphia, thấy một ông to như hộ pháp, ch́a tay xin tiền, ông và tôi đều giật ḿnh, hoảng sợ. V́ nghĩ rằng, gă ấy to lớn, mạnh khoẻ, tiếng Mỹ nói như gió, sinh ra và lớn lên trên đất nước nầy, mà c̣n phải đi ăn xin. Th́ nhỏ con, yếu đuối, nghe không thông, nói không được như chúng ḿnh e chỉ có nước cạp đất mà ăn. Đi ăn mày e cũng không biết nói cách nào để người ta bố thí. Mất tinh thần hết sức.

Ông Nam hỏi vợ:

- Bà có biết và nhớ ông Lư Bạch không?

- Có phải là cái ông bán vịt quay trên phố Tàu không?

- Trời ơi, thế mà cũng có thời là giáo sư trung học đệ nhị cấp rồi đó. Ông Lư Bạch là một đại thi sĩ đời Đường, bên Tàu, ông nhờ uống rượu mà làm thơ hay. Ông say rượu, nhảy xuống hồ ôm trăng mà chết đuối. Cái chết đẹp, lảng mạn vô cùng. Người đời sau c̣n ca tụng măi.

- Tưởng ai, chứ ông thi sĩ đó th́ tôi biết chứ. Mỹ gọi ông ta là Li-Tai-Pe, ông gọi là Lư Bạch, th́ dẫu cho Tàu chính cống trăm phần trăm cũng không biết là ai. Tôi học trường Tây từ nhỏ, đâu biết trong văn chương Việt Nam kêu ông ta bằng là Lư Bạch. Ông cho là cái chết lăng mạn, đẹp. Dễ thường khi chết đuối, bị uống nước, ông nầy không ngộp thở, không đau đớn, không vùng vẫy, không kêu cứu sao? Nhắc tới thơ văn, ông c̣n nhớ bài thơ ca ngợi rượu của Charles Baudelaire, thi sĩ trứ danh người Pháp không? Tôi c̣n nhớ lỏm bỏm mấy đoạn như: “Cần phải uống cho say ngất ngư, không c̣n chi hơn thế cả, nếu không muốn nhớ đến gánh nặng khủng khiếp của thời gian đè nát vai, tŕ quỵ xuống tận đất đen, th́ hăy say, và say măi măi ...Với ǵ đây? Rượu, thơ, và khoái tỉ. Chỉ có say sưa mà thôi... hỏi gió, hỏi sóng, hỏi sao trời, hỏi chim chóc, hỏi thời gian,... tất cả chạy đi, tất cả thở than, tất cả xoay chuyển, tất cả ca hát, tất cả nói năng. Bây giờ là bao giờ đây? Cả gió, sóng, sao, chim, thời gian sẽ trả lời anh rằng: Bi chừ là lúc say quắc cần câu ...” Nầy, tôi hỏi ông, dạy cho học sinh trung học, mới mười bảy, mười tám tuổi những bài thơ như thế nầy có phải là đầu độc tuổi trẻ hay không. Có phải mấy ông Tây muốn thanh niên ḿnh say sưa lụn bại hay không? Ngày xưa ông có học những bài thơ nầy không mà bị ảnh hưởng rượu chè nặng nề đến thế nầy?

Ông Nam tức tối nói:

- Không, lần dầu tiên tôi nghe đến bài thơ nầy. Ảnh hưởng cái con khỉ. Tại sao tôi tôn trọng quyền uống nước của bà. Bà có tự do uống nước, uống bao nhiêu cũng không ai ngăn cản, cấm đoán, mà bà lại không tôn trọng quyền uống rượu của tôi? Tôi sẽ đấu tranh như quyền được uống nước vậy. Bà có biết xưa nay, các triều đại, các chính phủ sụp đổ chỉ v́ cấm rượu, đánh thuế rượu cao không?

- Ai bảo ông điều đó? Ông có biết rượu là kẽ thù tàn hại nhất không?

Ông Nam cười nói:

- Nếu rượu là kẻ thù tàn hại nhất của con người, mà chạy trốn kẻ thù, th́ hoá ra ḿnh là bọn hèn nhát sao?

- Nầy ông đừng nói cà rỡn nữa.

- Bà có biết rượu làm cho người ta thêm can đảm không? Đời xưa, khi ra trận, các tướng được vua ban cho vài chén rượu. Uống vào rồi, th́ bừng bừng xông ra trận không c̣n sợ ai nữa cả. Vua không ban rượu trước khi lâm trận, th́ nắm chắc phần thua trong tay. Ngay cả tổng thống Abraham Lincoln, trong cuộc nội chiến, cũng thường cho chở rượu ra chiến trường cho Đại Tướng Grant, một ông tướng ghiền rượu. Nhờ thế mà thắng cuộc nội chiến. Bà có đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung viết, anh chàng Lệnh Hồ Xung, Kiều Phong, càng uống rượu nhiều, càng có sức mạnh, phóng chưởng, đấm đá, vung kiếm càng hay, giết được nhiều kẽ địch.

Bà Nam trề môi, nói:

- Xạo. Toàn chuyện xạo. Mấy ông ba Tàu viết chuyện xạo, tào lao, mà ông cũng đem ra làm chứng cứ được? Mấy ông kiếm khách, mấy ông vơ lâm chí tôn, chẳng có lao động ǵ, cũng không có công ăn việc làm, cũng chẳng cướp bóc của ai, làm chi có tiền mua cơm ăn, để xách kiếm cưỡi ngựa chạy long rong đi đấu vơ so tài, đi t́m bí kíp vơ công nầy nọ? Toàn chuyện phản khoa học, uống say ngất rồi, th́ thần kinh tŕ trệ, bắp thịt ră rời, chân nam đá chân thiên, con nít xô cũng ngă, làm chi có thêm sức mạnh, mà ông cũng tin, đem ra nói chuyện, bàn căi? Ông có nhớ Thánh Kinh viết rằng, uống rượu chẳng có hay ho ǵ, khi say th́ làm việc điên khùng, dẫn tới đấm đá nhau?

- Bà chưa bao giờ say, chưa biết cái lợi khi say sưa. Nên bà chê bai. Phải say năm, bảy lần mới biết cái thú khi say sưa. Khi đó, muốn say thêm, say thêm măi. Bà chưa kinh nghiệm say, th́ xin bà đừng nói, đừng chê, đừng cấm. Bà thừa biết thế giới ngày nay, tinh thần căng thẳng, công ăn việc làm có nhiều điều lo lắng, thời gian thúc dục, cấp bách. nếu không có chút rượu để t́m quên, th́ cả thế giới điên hết. Uống vào, quên đi hết những đau khổ, muộn phiền, quên những ức chế khó khăn. Quên để sống. Dù quên trong chốc lát, cũng làm cho tinh thần nhẹ bớt phần nào. Chưa kể các ông có vợ dữ như hùm beo, không uống rượu t́m quên th́ chỉ có nước đi ở tù v́ mang tội giết người, giết vợ. Khổ lắm. Rượu cũng c̣n là một thứ thuốc tiên. Cứu người ta ra khỏi ṿng khổ đau, khó khăn, tù tội.

- Sao ông nói toàn cả chuyện ngược đời. Xưa nay, v́ say sưa mà đánh vợ, đánh con, làm bậy đi tù, chứ có ai v́ không uống rượu nên đi tù đâu? Đúng là tranh luận với một người say, không khác chi nói vào căn nhà trống rỗng.

- Bà có thấy ích lợi vĩ đại của rượu không. Rượu có sức mạnh hơn bom khinh khí, bom nguyên tử. Nhờ rượu mà cộng sản Nga sô sụp đổ, không cần bắn một viên đạn, không cần một cuộc biểu t́nh vĩ đại. Rượu kéo đế quốc cộng sản sụm cái ào. Đời sống sầu thảm quá, sợ hăi, nói dối từng ngày, từng giờ, và e dè cả vợ con, sợ báo cáo, sợ đi tù, sợ đi đày lên Tây-Bá-Lợi-Á không ngày về, nên uống rượu t́m quên, cả nước uống rượu. Uống cho cả đế quốc cộng sản sụp luôn.

Có lần bà than phiền, hỏi sao ông cứ uống t́ t́ măi. Ông trả lời là khát, uống cho đỡ khát. bà nói, sao khi không khát cũng uống, ông trả lời rằng, khi không khát, th́ uống trước, để pḥng lúc khát. Bà chịu thua.

Ông Nam cho rằng, việc phát minh ra rượu, c̣n quan trọng hơn cả phát minh ra lửa, máy hơi nước, và chất bán dẫn.

Theo ông th́ thời gian nhậu nhẹt t́ t́ với bạn bè, sẽ không bao giờ phí phạm cả. Đó là thời gian hạnh phúc, thời gian đáng sống nhất, quư báu nhất. Ông tin tưởng vậy. Mỗi người đều có một niềm tin để sống. Ông có niềm tin ở rượu, ở cái sung sướng hạnh phúc do rượu đem lại. Ông tin rằng, sống trên đời mà không có rượu, th́ thà đừng sống nữa.

Một lần báo đăng rằng, cứ 10 người dân Alaska, th́ có đến 9 người ghiền rượu. Ông Nam gọi Alaska là thiên đàng hạ giới. Nhờ dân ghiền đông đảo, đa số, nên mỗi năm, người dân khỏi phải đóng thuế, mà chính phủ tiểu bang c̣n cho thêm tiền. Ông Nam nói, ở Alaska, băng tuyết, giá lạnh, gió vù vù, trời tối đen suốt mùa đông, mà không có rượu, th́ đời c̣n có chi vui đây. Bà Nam khoái và thường kể đi kể lại câu chuyện tiếu lâm sau, để trêu chọc ông chồng. Câu chuyện rằng, có một ông chồng bị quan toà hỏi lư do xin ly dị vợ. Ông nói rằng: “Xin li dị vợ, v́ đêm nào bà ấy cũng đi lang thang từ tiệm rượu nầy, đến tiệm rượu kia đến hai ba giờ sáng mới ṃ về nhà” Toà hỏi: “ Bà ấy đi đâu vậy, để làm chi?” Ông chồng thong thả trả lời: “Bà ấy đi t́m tôi”.
Rồi ông Nam goá vợ sớm. Một tài xế say, ủi vào hông xe bà. Trước khi trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện, bà bắt ông hứa: “Bỏ rượu, không lấy vợ khác, nuôi con cho khôn lớn.” Từ ngày đó, ông không đụng đến một giọt rượu. Thời gian đầu, v́ bị rượu hành, người ông rũ ra, mềm nhũn, ră rời, khật khừ. Thiên hạ tưởng ông đau buồn v́ mất vợ. Nhưng thực sự, th́ nhờ rượu hành, ông quên bớt nỗi đau buồn v́ vợ chết. Nhưng sau thời gian hết rượu hành, ông mới thấm thía nỗi đau đớn khi mất người bạn đời. Những đêm buồn, ngồi một ḿnh, ông ngâm nga:

“ Em ơi, lửa tắt b́nh khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai” (1)

Đám bạn nhậu của ông Nam thiếu mất ông, cũng không c̣n vui như trước, không có ai lư sự cà rỡn cho họ nghe mà cười chơi. Nhiều lúc họ đổ rượu tràn ra mặt bàn, như để tế sống ông Nam và đọc hai câu thơ :

“ Có uống rượu, đổ cho ta nửa bát
Loang mặt bàn lênh láng nhớ khôn nguôi.”


(1) Thơ Vũ Hoàng Chương.

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại