Đôi Mắt

Trần Trung Đạo

Đôi mắt. Vâng, đôi mắt của người con gái đứng bên kia hàng song sắt nh́n về phía tôi. Cô gái vẫn đứng đó mỗi đêm để nghe tôi hát. Một khoảng cách không xa lắm nhưng tôi và cô như đang thuộc về hai thế giới khác nhau. Cô gái đang bị giam trong khu nữ h́nh sự tối tăm, và tôi ở bên ngoài, c̣n một chút tự do. Mấy tuần trước đó, tôi chỉ nhận ra bóng mờ của cô gái qua đôi mắt sáng. Măi cho đến đêm trăng rằm, khi bóng một người con gái với mái tóc học tṛ chấm ngang vai dần dần hiện ra rơ nét, soi nghiêng nghiêng trên bờ tường vôi loang lỗ của một trường tiểu học được sửa thành trại giam thị xă, tôi mới biết cô là một cô gái c̣n rất trẻ. Những đêm trăng như thế, tôi thấy bóng cô gái ngă dài ra ngoài song sắt, đôi tay nhỏ vịn vào thanh sắt rỉ, khuôn mặt trái soan nhu ḥa đang nh́n về phía có tiếng hát của tôi.

Gịng sông nào đưa người t́nh đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa
Hoàng hạc bay, bay măi bỏ trời mơ
Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ
Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư
Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió
Sáng lung linh hồn ta khóc bao giờ ….


Bài Thu Hát Cho Người của Vũ Đức Sao Biển đi theo tôi từ những ngày c̣n ở Đà Nẵng. Thành phố đó, ngày xưa, những buổi chiều tôi thường ngồi dưới gốc đây cây đa trước sân phường Thạc Gián, bên hẻm 220 Hùng Vương và khóc tuổi thơ bay.

Khi tôi lớn lên, bài hát theo tôi vào đại học. Những đêm hè không ngủ được trong căn gác trọ trên đường Kiều Công Hai, tôi thường ôm đàn ra ngoài hiên ngâm nga Thu Hát Cho Người. Bài hát có sức thu hút đến nỗi cả pḥng bọn tôi đứa nào cũng thích và tập bài hát đó. Một tên bạn cùng pḥng, Trần Thanh Liêm, cũng nhờ bài Thu Hát Cho Người mà quen được cô gái cưng con ông chủ một pharmacy đầu phố đẹp tuyệt vời. Sau 1975, Liêm cưới cô ta làm vợ và đưa nhau về lại Đà Nẵng. Tôi ở lại Sài G̣n, kéo lê lết cuộc đời sinh viên trong “thiên đường xă hội chủ nghĩa” với khoai ḿ và bo bo cho đến 1979 th́ bọn tôi bảy đứa cùng rủ nhau vượt biên qua ngă Bạc Liêu.

Dĩ nhiên như đă kể, cả bọn chúng tôi đi hụt và bị bắt một lần. Công an phường Bảy, thị xă Bạc Liêu trói cả nguyên băng đưa về trại giam thị xă, chờ làm thủ tục giải đi trại Cây Dừa. Má tôi từ Sài G̣n khó khăn và tốn kém lắm mới đến thăm được một lần. Tôi khuyên má tôi đừng xuống nữa: “Ở tù thời gian con sẽ về. Thời buổi này, vượt biên ở tù như đi chợ, chẳng phải tội trạng ǵ nặng nề, má đừng đi xa vất vả”. Má tôi tạm yên tâm ra về. Bọn tôi bảy đứa, cùng với 40 tù nhân khác, bị giam trong một pḥng học. Bọn tôi là những kẻ đến sau nên bị tên tù trưởng, tiếng lóng để gọi tên Trật Tự Pḥng, xếp nằm sát thùng cầu. Mùi hôi thối bốc lên. Mấy ngày đầu không ăn được, đêm không thể nào chợp mắt được. Thông thường, sau khi làm xong thủ tục, tù vượt biên bị chuyển hết về trại Cây Dừa, một trại tù thật sự, nổi tiếng khắt khe ở miền Tây, có dạo nhốt cả chục ngàn tù vượt biên. Nghe đâu h́nh phạt đầu tiên trong ngày nhập trại là cạo trọc đầu. Nếu không biết cách đút lót cho đám cán bộ, công an tỉnh, mỗi tù vượt biên sẽ bị giam từ sáu tháng đến một năm trước khi được trả tự do. Nhiều tù vượt biên bị nhốt cả hai ba năm, đơn giản, v́ tù quá đông nên tên trong sổ sách tù nhân nhiều khi bị thất lạc.

Không hiểu sao, lần đó, trại trưởng trại giam thị xă đổi ư giữ bọn tôi lại. Một buổi sáng, trại trưởng Nguyễn Văn Ninh tập trung bọn tôi trong sân trại, với giọng Bắc nặng chịch, lên cơn giảng huấn một hồi, đại ư: “Các anh có học và c̣n quá trẻ, chỉ v́ nghe lời dụ dỗ và lường gạt mà cam tâm bỏ tổ quốc ra đi. Lẽ ra các anh bị đưa đi Cây Dừa giam và lao động một năm, nhưng sau khi đọc các bài tự kiểm, nhận thấy các anh có ư thức, biết việc làm sai trái của ḿnh, chúng tôi khoan hồng và giữ các anh lại để lo công việc của trại. Các anh được ở trong căn nhà lá cuối trại, được phân công lao động và kiểm soát lẫn nhau. Sau một thời gian, ít nhất là 4 tháng, nếu các anh chứng tỏ hành vi tốt, lao động tốt, chúng tôi sẽ đề nghị lên Ủy Ban Nhân Dân Thị Xă trả tự do cho các anh”. Trại trưởng Nguyễn Văn Ninh ngừng vài giây trước khi gằn giọng: “Điều quan trọng các anh phải ghi nhớ, bất cứ người nào trong số các anh trốn trại, số c̣n lại sẽ bị c̣ng 3 tháng trong pḥng tối và chuyển đi Cây Dừa. Nếu kẻ trốn trại mà bị bắt chúng tôi sẽ bắn bỏ ngay tại chỗ”.

Thế là nhờ tài viết lách khéo mà bài tự kiểm của bọn tôi lọt được vào mắt xanh của trại trưởng. Trong trường đại học, bọn sinh viên chúng tôi là một nhóm văn nghệ, làm thơ viết lách nên nếu cần phải lách để sống c̣n, bọn tôi lách không đến nỗi tệ lắm. Nhớ lại, mấy tuần trước đó, bọn tôi bảy đứa bị xếp ngồi một hàng dài như thuở đi thi tú tài, trong văn pḥng ban quản lư trại, vừa viết tự kiểm vừa nh́n nhau cười. Một băng bảy thằng gian mắc nạn bóp trán nghĩ ra mọi điều hợp lư và thê thảm nhất trên đời để trả lời câu hỏi số một và quyết định “động cơ nào đă làm cho anh bỏ tổ quốc ra đi”. Không giống như các tội chống phá cách mạng phải biện luận quanh co, liên hệ đến người này người khác, chuyện vượt biên chỉ quanh đi quẩn lại những lư do nghèo nàn, cha mẹ già em đông, chén cơm manh áo, bị bạn bè rủ rê mà bỏ tổ quốc ra đi, bây giờ th́ hối hận ơi là hối hận, chỉ mong được cách mạng khoan hồng, thề sẽ làm lại cuộc đời, t́nh nguyện đi thanh niên xung phong, làm thủy lợi, an phận học hành, làm đúng khẩu hiệu “góp phần xây dựng đất nước tươi đẹp hơn mười lần hôm nay”, sẽ không bao giờ tái phạm, v.v…và v.v… May mắn thay, dù viết toàn là chuyện vô hại mà kết quả lại thành công ngoài sự tưởng tượng. Về sau, tôi cũng biết thêm, ngoài lư do viết lách, bọn công an c̣n tin tưởng rằng nếu được phân công nấu ăn, phân phối cơm nước, bọn tôi sẽ không ăn cắp thức ăn như đám tù h́nh sự đầu trộm đuôi cướp đói rách đă làm từ trước tới nay.

Trại giam chúng tôi ở chỉ có 3 pḥng giam, một dành cho nữ và hai pḥng dành cho nam. Tổng số tù nhân chỉ vào khoảng 100 người. Trại thuộc quyền quản lư của thị xă và là nơi giam các tội h́nh sự nhẹ như trộm cắp vặt, đĩ điếm, đánh lộn, buôn bán gian lận chợ trời, móc túi. Những tội đại h́nh, tội chống phá chính quyền đều bị chuyển qua các trại tù xa xôi trong vùng U Minh rừng sâu nước độc, được gọi bằng cái tên vô cùng nhân hậu là “trại cải tạo” và trực tiếp đặt dưới quyền quản lư của Bộ Nội Vụ Cộng Sản. Việc canh gác ở trại thị xă cũng không có ǵ gọi là quá chặt chẽ. Mỗi ngày tù nhân phải đi lao động từ sáng đến chiều. Đàn ông th́ đi làm ruộng, đàn bà th́ nhổ cỏ, tưới rau. Suốt hai mươi bốn giờ, công an thay phiên ngồi canh phía ngoài sân trại. Thỉnh thoảng, anh chàng đứng dậy, thả bộ dọc hành lang mỗi pḥng để coi ngó đám tù. Mặc dù an ninh lỏng lẽo nhưng từ ngày trại được thành lập đến nay chưa xảy ra một vụ trốn trại nào. Lư do v́ đa số tù nhân là người trong làng, trong xóm, trong thị xă. Từ công an cho đến tù nhân đều biết nhau. Nhiều khi lại c̣n là bà con gịng họ với nhau nên dù có trốn lên trời cũng không thoát. “Đi mô rồi cũng về Hà Tĩnh” như đám tù nhân thường nói. Hoàn cảnh bọn tôi c̣n tệ hơn thế. Trốn cả đám bảy thằng th́ không được, trốn từng đứa th́ không khó nhưng làm sao nỡ bỏ bạn bè ở lại chịu đ̣n. Mai mốt về Sài G̣n c̣n mặt mũi nào ngó nhau. Trại trưởng Nguyễn Văn Ninh đă từng cảnh cáo trước đó sao, cứ một thằng trốn được th́ cả bọn c̣n lại mang tội thay. Không đứa nào muốn bị c̣ng 3 tháng và đày đi Cây Dừa thêm một năm. “Phải an toàn rút về lại Sài G̣n rồi mới bày keo khác”. Cả bọn đồng ư như thế và nghoé tay nhau ở lại cho đến ngày được trả tự do.

Tôi ốm yếu nhất trong bọn nên được giao cho công việc dắt người đi nhổ cỏ rau muống. Ban đêm, nếu trời không mưa, tôi thường ngồi trên bệ đá phía cuối sân trại, tay gơ muỗng, miệng ngâm nga những bài hát cũ cho đỡ buồn. Một cán bộ người miền Nam, tên Hoàng, có máu văn nghệ, nghe tôi hát, cũng tới gần nghe. Dĩ nhiên trong những lúc như thế tôi thường hát những bài dân ca hay t́nh ca vô tội vạ. Khi được đề nghị đóng góp một bài, anh chàng công an gốc du kích Bạch Liêu, chơi ngay bài “Đêm Buồn Tỉnh Lẻ” với gọng Chế Linh đặc sệt. Tôi buồn cười thầm nghĩ anh chàng này không biết và cũng không hiểu ǵ về nội dung của bài hát. Dù là du kích trở thành công an xă, anh ta sinh ra và lớn lên ở miền Nam, và đương nhiên vẫn thích hát nhạc miền Nam hơn là những giọng ca the thé miền Bắc mà chính anh cũng có lần tâm sự: “tôi không hiểu họ đang ḥ hét chuyện ǵ”. Mấy ngày sau, anh chàng công an Hoàng ngứa nghề, ra xóm t́m một cây đàn guitar, đem về nhờ tôi dạy anh đàn. Cây đàn cũ, từ lâu không ai sử dụng, chủ của nó chắc đă vượt biên, đóng đầy bụi nhưng nghe cũng xốn xang trong những đêm khuya thanh vắng. Và cũng từ bệ đá đó, tôi nhận ra đôi mắt Bích Vân như hai ánh sao đêm hiện ra từ khung tối.

Đúng, tên cô gái là Bích Vân. Tôi biết tên nàng trong một buổi chiều đưa đám nữ tù đi nhổ cỏ ở băi rau muống sau trại. Cô không đẹp như sự tưởng tượng quá sức phong phú của tôi qua ánh trăng lung linh huyền ảo đêm nào nhưng là cô gái dễ thương, đẹp nhu ḥa pha một chút hồn nhiên của thời học tṛ chưa qua hết. Tôi không hỏi nhưng đoán chừng cô ta khoảng hai mươi tuổi. Bích Vân nh́n tôi: “Anh hát rất hay. Bích Vân nghe đến thuộc ḷng nhưng không biết bài hát đó tên ǵ?” Tôi đáp: “Đó là bài Thu Hát Cho Người của Vũ Đức Sao Biển”. Bích Vân nhỏ nhẹ: “Bài hát hay, người hát hay và tên của người viết bản nhạc cũng hay”. Những người bạn tù của Bích Vân h́nh như đă biết chuyện cô ta thường đứng cửa sổ nghe tôi hát, nên mỉm cười nh́n chúng tôi với ánh mắt trêu chọc. Một bà đứng tuổi buột miệng: “Hèn chi mấy ngày nay cổ t́nh nguyện làm cả công tác đổ cầu tiêu để được ra ngoài”. Bích Vân đỏ mặt cúi đầu.

Và cứ thế, mỗi chiều nhổ cỏ rau muống, trên đường đưa nhóm nữ tù về lại pḥng, chúng tôi có vài phút nói chuyện với nhau. V́ sợ công an bắt gặp, chúng tôi không dám nh́n thẳng nhau lâu chứ đừng nói ǵ là một cái nắm tay. Hai đứa giả bộ nh́n trời và nói những câu ngắn ngủi: “Anh quê ở đâu? ” Tôi đáp:” Quảng Nam Đà Nẵng”. Nàng lại hỏi: “Xa quá nhỉ. Gia đ́nh em cũng gốc miền Trung nhưng vào Nam từ khi em mới ra đời. Ba mẹ anh vẫn c̣n ngoài Quảng hay đă vào Sài G̣n?” Tôi lại đáp: “Sài G̣n”. Cứ thế, cô ta như một cô giáo đang hỏi bài học tṛ. Từ chuyện gia đ́nh cho đến chuyện trời mưa trời nắng. Bích Vân thích hỏi nhưng không thích trả lời. Cô không thích nói về ḿnh. Nhiều khi nếu phải nói, cô ta không bao giờ khẳng định, chỉ ầm ừ cho qua chuyện.

Một buổi chiều, trong giờ giải lao, dựa lưng vào tường, Bích Vân chợt khám phá ra những ḍng chữ trẻ con c̣n in dấu dưới hàng rêu trên bờ tường trại giam, mắt nàng chợt sáng lên một cách hồn nhiên đưa tay chỉ vào hàng chữ nguệch ngoạc đă nhạt nḥa theo năm tháng: “Anh biết không, đây là trường tiểu học cũ của em. Hàng chữ kia làm của đám bạn bè em viết hồi lớp năm”. Giọng nàng trầm xuống trong cay đắng: “Trường bây giờ là nhà tù và em về ngồi trong lớp học nhưng không phải là học tṛ cũ mà như một tù nhân. Mỉa mai quá anh nhỉ?” Nếu đây là quán café hay trong sân trường đại học, có lẽ câu chuyện trường học biến thành nhà tù là một đầu đề để máu Quảng tôi sôi lên, thao thao bất tuyệt về cách mạng, nhân quyền, cơm áo. Nhưng trước mặt Bích Vân, tôi nghẹn lời không nói được. Trước mắt tôi không phải là một đề tài, một câu chuyện, một viễn ảnh mà là một thực tế, một con người bằng xương bằng thịt, một người con gái tuổi hai mươi đang chịu đựng nỗi bất hạnh của một giai đọan lịch sử thảm khốc. Những nạn nhân vô tội đầy thương tích đang quằn quại trong màn cuối của một vở thảm kịch quê hương. Tôi cố làm vơi bớt chút đau xót trong ḷng cô bằng những triết lư vụn học được trong những quán café ngoài Thư Viện Quốc Gia ngày nào: “Không ai biết chắc những ǵ sẽ xảy ra cho đời ḿnh, nhưng một điều mà anh và em có thể biết được, làm được trong hoàn cảnh này là t́m cho ḿnh một hy vọng để sống và phải sống trọn vẹn cho hy vọng đó. Sự kỳ diệu không bao giờ đến nếu không có hy vọng”. Bích Vân trả lời trong lúc vẫn nh́n đăm đăm vào hàng chữ: “Cám ơn anh, em sẽ nhớ những điều anh dặn, hăy hy vọng và rồi sự kỳ diệu sẽ đến”. Tôi muốn cầm tay nàng nhưng không dám. Hai đứa đứng bên nhau dưới chân tường trại giam và cũng là trường học cũ của Bích Vân, lắng nghe tiếng vịt kêu và thầm mong những tia nắng của buổi chiều vàng thơ mộng kia đừng bao giờ tắt.

Một lần trong lúc chờ Bích Vân rửa tay sau buổi chiều nhổ cỏ: “Tại sao Bích Vân phải vào đây?” Bích Vân vẫn cặm cụi rửa tay như không nghe tôi hỏi, măi đến khi tôi lập lại câu hỏi lần thứ hai, nàng mới đáp thật nhanh và thật nhỏ: “Em buôn thuốc tây và bị bắt”. À ra thế, tôi yên tâm tự nhủ. Một người con gái nhỏ nhắn, xinh đẹp và hiền hậu như Bích Vân không thể nào đi ăn trộm ăn cướp của ai để bị bắt. Thấy tôi không nói ǵ thêm, nàng ngước mặt: “Anh đang suy nghĩ ǵ, không tin em sao?” Tôi vồn vă ra mặt: “Anh tin chứ, anh tin chứ, anh tin một người như em không thể làm chuyện ǵ thương luân bại lư, c̣n chuyện buôn thuốc tây, rủi gặp xui th́ bị bắt, có ǵ mà ngại, ra tù đi buôn tiếp”. Vai nàng chợt rung lên và hai hàng lông mày cong của nàng nhíu lại nhưng không nói ǵ. Chuyện ở tù của tôi, Bích Vân h́nh như đă biết đám sinh viên bọn tôi bị bắt v́ tội vượt biên, nên nàng không hỏi lư do, thay vào đó, Bích Vân hỏi về những dự tính sau khi tôi được thả: “Ra tù, anh có t́m cách vượt biên nữa không?” Tôi chẳng chần chừ: “Đương nhiên. Anh không c̣n đất sống nào khác nữa. Giấy tờ bị tịch thu, hộ khẩu bị cắt. Anh không c̣n là dân của nước này nữa. Anh chỉ c̣n một con đường là đi cho đến khi nào đi được mới thôi”. Bích Vân trầm ngâm không nói. Nàng ngước nh́n đám mây xanh như tên nàng đang bay vô định trên bầu trời, măi một lúc sau mới hỏi: “Anh ước mơ ǵ nhất bây giờ?” Tôi suy nghĩ khá lâu rồi đáp: “Anh có quá nhiều ước mơ và tất cả gần như đồng hạng”. Và tôi nh́n thẳng vào đôi mắt Bích Vân hỏi nàng một cách nghiêm trang: “Ra tù anh sẽ t́m cách để đi tiếp, Bích Vân, em có thể cùng đi với anh không?” Nàng lắc đầu, nói như vừa đủ tôi nghe: “Không, em c̣n mẹ và ba đứa em nhỏ. Ba em không biết sống chết nơi đâu. Em phải ở lại để lo cho mẹ và các em”. Và nàng nghẹn ngào: “Anh có biết rằng anh đang tàn nhẫn một cách hồn nhiên không?” Bích Vân không chờ tôi phản ứng hay biện bạch, nàng xoay người bước đi, cố giấu hai giọt nước mắt đang lăn tṛn từ đôi mắt buồn như mùa đông. Nàng vội vă bước vô pḥng giam nữ như đi t́m một chỗ yên tĩnh để được khóc một ḿnh.

Hai tháng sau, Bích Vân được thả. Trong cảnh nhộn nhịp của ngày thả tù, tôi không nói với Bích Vân được ǵ nhiều. Vả lại, chẳng biết ǵ để nói. Tôi c̣n không lo nổi cho tôi th́ c̣n lo cho ai khác được. Lời hứa hẹn của một tên tù th́ có ǵ giá trị. Hai đứa đứng trong sân trại. Bích Vân nói bâng quơ: “Anh thích được tự do không?” Tôi khẳng định: “Dĩ nhiên, anh cần ra khỏi nơi này gấp”. Bích Vân lắc đầu: “Em th́ khác, bỗng dưng em thích ở lại. Anh bảo em phải t́m hy vọng nhưng chẳng thấy hy vọng nào dành cho em phía bên kia hàng rào. Ít ra ở đây em c̣n có anh”. Tôi đáp: “Em c̣n mẹ, c̣n các em, c̣n tương lai đang chờ Bích Vân. Em phải hy vọng và sống với hy vọng đó”. Bích Vân chua chát: “Tương lai ư, em không thích chữ này, nó có thể là ngày mai và cũng có thể không bao giờ đến”. Nàng nói tiếp như đang mơ: “Em thuộc ḷng bài hát rồi. Mai này em sẽ tự hát lấy, không cần anh nữa”. Và nàng một ḿnh hát nhỏ: “Gịng sông nào đưa người t́nh đi biền biệt”. Tôi nh́n Bích Vân hát và ước ǵ chúng tôi biến thành hai con chim họa mi, cùng bay ra khỏi nơi này mà không ai hay biết. Chúng tôi sẽ bay đi thật xa, băng qua khu rừng già, đến bên một ḍng suối mát, nơi đang có đàn nai tơ đang sống hiền ḥa, nơi có những đồi sim tím ngắt, không một bóng con người, nơi đó không có nhà tù, không có chém giết, không có máu chảy. Như sực nhớ ra điều ǵ hệ trọng, Bích Vân bước thêm một bước gần hơn và nói như dặn ḍ: “Em sẽ gởi cơm nước cho anh mỗi ngày”. Tôi lắc đầu: “Cám ơn Bích Vân nhưng anh không thiếu lắm..”. Tôi chưa nói hết câu, Bích Vân vụt quay người hôn thật nhanh vào mặt tôi và bước đi ra khỏi cổng trước khi tôi kịp nói năng ǵ.

Những ngày sau đó, mỗi ngày tôi đều nhận được thức ăn do một người nấu cơm tháng trong thị xă đem đến. Nhưng Bích Vân th́ không. Người đàn bà đứng tuổi mang cơm cho tôi biết Bích Vân ghé tiệm cơm của bà, đặt tiền nấu cơm và đem cho tôi hàng tháng. Ngoài ra, nàng không dặn ḍ ǵ khác. Bích Vân, người con gái có đôi mắt sáng và buồn hiu hắt như hai bóng sao đêm đó đă không c̣n trở lại.

Từ đó tôi cũng không c̣n ngồi hát một ḿnh trên bệ đá cuối trại giam. Tôi không biết đó có phải là t́nh yêu hay chỉ là t́nh người, t́nh thương hại. Tôi chưa bao giờ được hôn nàng, thậm chí chưa một lần cầm lấy bàn tay xinh xinh nhỏ nhắn của nàng. Nhưng ḷng tôi, mỗi lúc đêm về, vẫn thấy nhớ dáng Bích Vân trong những buổi chiều, nhớ chiếc nón lá rách viền trên luống rau muống, nhớ mái tóc học tṛ bay trong chiều vàng, nhớ những giọt mồ hôi chạy dài trên vầng tráng rộng, và nhớ mùi hương tóc nồng nàn. Mỗi đêm, tôi vẫn thẫn thờ nh́n về phía cửa sổ trại giam như để t́m đôi mắt Bích Vân, nhưng hai ánh sao trời kia đă tắt.

Tháng sau tôi được thả. Tuần trước đó, khi vừa được công an Hoàng báo tin, tôi năn nỉ người đem cơm t́m dùm Bích Vân và báo cho nàng biết tôi sẽ chờ nàng ở quán nước của d́ Năm ngoài cổng trại sau giờ thả. Người đem cơm hứa sẽ giúp tôi. Nhưng ngày tôi ra tù, Bích Vân vẫn không đến. Tôi ngồi một ḿnh đem tâm sự trang trải cùng d́ Năm. D́ Năm lắng nghe chăm chú. Bà nói với tôi bằng tất cả cảm thông và hiểu biết: “Cậu về để t́m cách mà đi. Đừng nghĩ đến cô ta nữa. Tôi cũng biết Bích Vân. Hoàn cảnh cô ấy rất đáng thương nhưng không phải cô ta v́ bán thuốc Tây mà bị bắt đâu”. D́ muốn nói tiếp nhưng như chợt biết ḿnh vừa lỡ lời nên dừng lại, khoát tay: “Thôi, sắp hết xe về Sài G̣n rồi. Cậu về đi. Chúc cậu b́nh an trong lần đi tới. Tôi tin Bích Vân sẽ không bao giờ gặp cậu, dù cậu có ngồi đây suốt đêm nay, hay đi t́m khắp thị xă cũng thế thôi. Hai cô cậu chẳng ai có lỗi ǵ. Cũng v́ hoàn cảnh thôi. Nếu là cậu, chắc cậu cũng không có chọn lựa nào khác. Gặp nhau để làm chi. Cậu chắc hiểu ư tôi”. Tôi đứng dậy trả tiền ly nước. D́ Năm không nhận. Bà dúi tờ giấy bạc vào tay tôi, ôn tồn: “Cậu giữ để uống nước dọc đường”.

Chuyến xe đ̣ chót về Sài G̣n trong khi trời đă tối. Trên bầu trời đầy mây đen, bỗng xuất hiện lên hai ngôi sao rất xa và rất nhỏ. Vâng, đôi mắt Bích Vân, đôi mắt người con gái đáng thương, đáng yêu đang nh́n xuống tôi. Tôi mỉm cười nh́n sâu vào đôi mắt nàng và thầm hát như chỉ để mỗi nàng nghe: “Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó, để hái dâng người một đóa đẫm tương tư”.

Trần Trung Đạo

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại