Bên Đời Hiu Quạnh

Từ chiều hôm qua cho đến sáng nay, do ảnh hưởng cơn băo từ đâu đó mà thành phố tôi ở gió nổi mù trời. Gió lay cây cành ngả nghiêng, gào rú như cơn lốc xoáy. Gió giận dữ quật ngă mọi thứ chung quanh. Gió xô đổ chỏng gọng chiếc xích đu sau vườn nhà tôi, bay luôn cái bếp ḷ nhỏ xa lăn lóc tận cuối vườn. Mấy chậu bông té úp nhào, c̣n bị đá ṿng ṿng theo mỗi nhịp thở mạnh của gió. Tôi chạy theo sau những chậu bông để đỡ nó lên, nhưng tôi cũng bị gió đẩy cho chao đảo. Con đường bên ngoài vắng ngắt, buồn tẻ không có bóng chiếc xe nào lướt qua, nhà nhà đóng cửa im ĺm, phố xá đ́u hiu co ḿnh trốn gió.

Thời gian đầu tôi đến đây cũng vào những ngày xuân lộng gió. Bụi phấn hoa bay lung tung làm tôi bị ngay chứng “allergy”, nhảy mũi liên tục, mắt ngứa phải dụi hoài đến nỗi xưng bụp cả mắt. Nước mũi chảy suốt ngày, đến tối th́ mũi lại bị nghẹt cứng, đêm ngủ cứ phải thở bằng miệng. Thuốc allergy bán trên quầy không đủ mạnh để tiêu diệt cái bịnh allergy nghiệt ngă của tôi. Măi những năm sau này tôi phải đi chích mới hết. Ngoài chứng bịnh này, tôi c̣n một chứng bịnh nhớ nhà, nhớ quê hương mănh liệt hơn bao giờ hết, khiến cho tôi gần như bị “depress”. Có những buổi tối tôi đi học về, lái xe ngang qua khu nhà “mobile home” nh́n ánh đèn vàng leo lét trong mỗi căn nhà hắt ra, gợi cho tôi một thời sống nghèo khổ ở Việt Nam. Thời đó vào buổi tối, mọi sinh hoạt của gia đ́nh tôi đều tập trung vào ngọn đèn vàng yếu ớt duy nhất ở gian nhà chính. Mấy chị em tôi chụm đầu bên đèn học bài. Mẹ tôi ngồi ghé vào phía sau chúng tôi cố t́m chút ánh sáng chiếu ra để đan áo. Bà ngoại tôi dơ cao cuốn kinh Phật lên khỏi đầu đến gần chỗ sáng để chậm răi đọc từng chữ một. Càng về sau ánh đèn vàng nhà tôi càng nhỏ dần v́ lư do tiết kiệm. Tôi thật dị ứng với những ngọn đèn vàng, đă luôn khuấy lên trong ḷng tôi một nỗi buồn thê thảm.

Cũng dạo ấy, tôi bị khủng hoảng với nỗi nhớ nhà, rảnh giờ nào là gọi phone cho các em tôi để tṛ chuyện. Hết gọi xuyên bang, rồi lại gọi về Việt Nam, say sưa nói chuyện tôi quên cả thời gian, không gian, môi trường tôi đang sống, và quan trọng hơn là quên luôn “ my house” không có mua đường dây gọi “long distance”. Lúc đó, tôi lại chưa đi làm, ngày ngày chỉ ra tiệm giặt giúp “my house”quét dọn và lau máy hay phụ chàng giặt đồ, xếp đồ cho khách hàng. Vợ làm việc cho chồng th́ làm ǵ có lương. Đến chiều, xong nhiệm vụ th́ ôm tập đi học. Ngày chàng nhận được cái phone bill th́ hỡi ôi!!!… Không những chỉ có chàng bị choáng váng mà tôi cũng choáng váng như muốn rụng rời chân tay. Tôi nghĩ, nếu những nhà thơ trào phúng làm thơ gọi vợ là địch, bồ là ta, hoặc đặt cho nàng là sư tử Hà Đông, th́ tôi không biết họ sẽ dùng chữ ǵ để đặt cho mấy ông chồng lúc đang lên cơn thịnh nộ. Sự giận dữ của chàng c̣n mạnh hơn gió gào. Giọng nói chàng b́nh thường đă cao và sang sảng tiếng đồng rồi, gặp chuyện bực ḿnh chàng c̣n cao giọng vút lên tận mấy tầng mây xanh nữa. Mà không cao giọng, tức giận sao được khi cái phone bill lên gần tới cả 500 đô. Nh́n cái bản mặt ăn hại của “địch quân” chỉ muốn… cho cái .. tát…Nhưng đây là xứ Mỹ mà, chàng đâu có bao giờ làm vậy, chàng chỉ quăng đồ đạc, đập bàn ghế để áp đảo tinh thần “địch” thôi. Nghe giọng nói cao như hét lên của chàng tôi sợ đến xanh mặt, vội rút lui vô pḥng nằm co ro như con mèo ốm, hối hận khóc thút thít, bỏ ăn cơm… Ngày hôm sau tôi ra ngân hàng chuyển hết tiền dành dụm riêng của tôi vào “checking” để trả cái phone bill “chết tiệt” kia. Lần đó, gió giận dữ thổi mạnh trong nhà tôi mấy ngày mới bớt, mà chàng cũng chưa chịu cho “địch” đầu hàng. Rút kinh nghiệm lỗi lầm từ ngày ấy, tuy vẫn c̣n thèm được nói chuyện, tôi đă không dám “ nhiều chuyện” bằng phone nữa, tôi cảm thấy buồn và hiu quạnh làm sao.

Buổi chiều, mặt trời chuyển nhanh về hướng núi tây sớm hơn thường ngày, toả chút hơi lạnh trên những ngọn đồi cát màu nâu đỏ. Gió đă dịu xuống rất nhiều, chỉ c̣n thở ra vài hơi nhẹ, thời tiết thật điên khùng quá! Tôi đi lang thang ra công viên gần nhà để ngắm những đứa bé chạy chơi, mặc dù ngày nào tôi cũng đă ngắm trẻ 8 tiếng ở trường rồi. Vậy mà vẫn như chưa đủ để tôi khoả lấp một nỗi trống vắng, tẻ nhạt cho những giờ c̣n lại trong ngày. Cứ ở đâu có bóng dáng trẻ là tôi thấy ở đó hiện hữu sự vui tươi, hồn nhiên, và b́nh an. Sự hiện hữu đó thường quyến luyến bước chân tôi ngồi lại với ḍng suy nghĩ về trẻ thơ ở Việt Nam, những em bé con nhà nghèo không có điều kiện đến trường học, hay được thoả thích vui chơi với bạn bè. Một ngày của các em phải lê la trên đường phố, học đủ mọi thứ gian manh để kiếm tiền… Nghĩ đến số phận tuổi thơ nghèo ở quê ḿnh, tôi cảm thấy uất nghẹn cho sự bất công của cả một khối người cầm quyền, chỉ lo ôm đầy một túi tham, xây nhà cao cửa rộng, bỏ mặc một thế hệ mầm non nghèo khổ trong xó tối đầy tội lỗi, nhuốc nhơ… Những người có tấm ḷng, có tâm huyết giúp đỡ trẻ thường không phải là những người có tiền trong chính phủ, mà lại là những người từ các nơi khác đến, như cô Tim, như hội SOS, như bao nhiêu đóng góp của các nhà thiện nguyện tại hải ngoại. Nhưng, đồng tiền đó lại bị phù phép cắt xén để rồi mọi sự giúp đỡ cứ như là muối bỏ biển, chẳng giúp được các em là bao nhiêu. Nghĩ ngợi măi mà chẳng làm được ǵ cho trẻ thơ trên quê hương ḿnh, tôi lại thấy buồn hơn trong cảnh chiều hiu quạnh này. Tôi trở về thực tại nơi ḿnh đang sống, nơi cũng có một số đông trẻ em bất hạnh trong cảnh cha mẹ vướng vào drug, tù tội, bạo lực trong gia đ́nh và say xỉn…Dù vậy, so với trẻ em ở Việt Nam, trẻ thơ con nhà nghèo ở nước Mỹ c̣n may mắn hơn nhiều v́ được sự giúp đỡ tận t́nh của chính phủ.

Nếu không dọn nhà về thành phố Farmington này th́ tôi sẽ chẳng bao giờ biết trên nước Mỹ, đất nước được xem là một quốc gia “high income” và “high standard living for people” bậc nhất trên thế giới, lại có những người dân sống nghèo khổ trong điều kiện thiếu thốn gas, điện, nước. Họ là những thổ dân trong nhiều bộ lạc khác nhau. Tôi được biết đến sự nghèo khổ này nhiều hơn khi tôi bắt đầu làm việc cho “Head Start” và “ Early Head Start”. Một hệ thống giáo dục nhà trẻ mẫu giáo do liên bang tài trợ, chỉ ưu tiên phục vụ cho những gia đ́nh nghèo. Chương tŕnh giáo dục mầm non này dựa theo tiêu chuẩn học do tiểu bang đề ra, cũng giống như trường công của chính phủ vậy. Thủ tục giấy tờ về sự theo dơi, dạy dỗ, chăm sóc trẻ cho cả hai bên cha mẹ và nhà trường đều rất nhiêu khê. Head Start, nhận trẻ mẫu giáo 3, 4, và 5 tuổi, c̣n Early Head Start th́ nhận trẻ từ 6 tuần cho đến 3 tuổi. Chương tŕnh học của trẻ mẫu giáo lớn (từ 3 đến 5 tuổi) chia làm nhiều lớp khác nhau. Lớp hai buổi, lớp một buổi, lớp học nguyên ngày 6 tiếng. Trẻ đến trường học đều được ăn sáng, ăn trưa, ăn nhẹ, và trẻ học một buổi th́ có xe school bus đưa đón. Tất cả đều do chính phủ liên bang đài thọ. Một năm học, giáo viên phải họp phụ huynh đến 4 lần để báo cáo với cha mẹ về sự phát triển của trẻ trong sinh hoạt ở trường. Trong 4 lần họp đó, có hai lần thăm viếng trẻ tại nhà, và hai lần họp tại lớp. Nhờ những lần đi thăm viếng trẻ như thế, tôi mới chứng kiến được tận mắt cái nghèo khổ của người dân nơi đây. Phần đông là những bà mẹ, ông bố “trẻ con” bỏ trường học quá sớm để vào trường đời với một bầy con nheo nhóc. Sống chen chúc nhau trong những ngôi nhà mobile home dạng “single wide” chật chội, bừa bộn, nồng nặc mùi thuốc lá.

Một ngày, tôi đến thăm một gia đ́nh nghèo khác, bà mẹ chỉ mới có 19 tuổi mà đă có 3 đứa con. Đứa lớn nhất 3 tuổi, đứa thứ hai 18 tháng và đứa út 6 tháng. Khi tôi đến, người mẹ trẻ đang nướng Pizza, trong nhà có tất cả là 6 đứa bé, 4 đứa bé trai và hai bé gái. Cô ta cho tôi biết, nhà này là của d́ cô, người d́ có 3 đứa con trai, v́ ở chung nên cô phải vừa coi con ḿnh và cả ba đứa em họ, để cho d́ cô đi làm. Những đứa bé chạy lăng xăng quanh nhà đùa giỡn, con bé 6 tháng th́ nằm trong “car seat” đặt trước T.V. Nó đang gặm một miếng bánh ngọt trên tay. Nước dăi chảy ra ḥa với bánh ngọt nhiễu đầy trên áo. Tôi đến gần bên bé vuốt má nó, bé dơ tay ra trước như muốn tôi ẵm. Tôi tháo dây cài nhấc nó ra khỏi “car seat” con bé nhẹ như búp bê, mắt nó màu nâu đậm trông thật dễ thương. Bé nh́n tôi ngơ ngác một hồi rồi cười ngả đầu lên vai tôi. Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá từ trong quần áo của bé. Thật là tội nghiệp cho em bé quá! Đôi mắt đứa bé cứ ám ảnh tôi măi trên đường về nhà.
Tối đó, trong lúc ngồi xem TV với “my house”, tôi hỏi chàng về chuyện xin con nuôi, chàng lắc đầu nói ngay:

- Thôi, thôi, Hà tưởng nuôi con nuôi ở đây dễ lắm hả? Họ “check income” của ḿnh, lại thêm tụi “social worker” thăm hỏi hoài, phiền lắm.

Tôi nói:

- Nếu ḿnh thương nó, lo cho nó đầy đủ th́ đâu có chuyện ǵ ḿnh phải sợ.

Chàng lư luận:

- Phải, nhưng khi nó tới tuổi “teen” nó nghe bạn nó hơn ḿnh, nếu nó theo bạn làm điều không đúng, ḿnh la nó, cấm đoán nó, th́ nó sẽ kêu cảnh sát nói nó bị ḿnh “abuse”. Dĩ nhiên là cảnh sát tin trẻ hơn tin ḿnh. Tụi nó nghĩ, ḿnh chỉ là bố mẹ nuôi thôi, chuyện ǵ cũng có thể xảy ra cho đứa trẻ.

Tôi thở dài như vừa vuột mất một niềm hy vọng, tôi biết tính chàng rất khó thuyết phục. Tôi buồn buồn nói:

- Không có con, em buồn quá!

Chàng lại lắc đầu:

- Trễ quá rồi Hà. Nếu có con ở tuổi này, lỡ nó không được b́nh thường, lành lặn th́ c̣n khổ hơn nữa.

Tôi im lặng lơ đăng nh́n vào một show quảng cáo trên T.V. Một lát chàng đổi sang kênh khác có show “Kids say” do ông Bill Cosby điều khiển. Nh́n những đứa bé trên màn h́nh, tôi ngớ ngẩn hỏi chàng:

- Anh à, nếu ḿnh có con th́ con ḿnh sẽ giống anh hay giống em, anh nhỉ?

Chàng trả lời khô khốc:

- Giống anh, ĺ như anh!

- Nếu con giống em th́ sao?

- Th́ nó đi học tha hồ bị chúng bạn ăn hiếp chứ sao.

Tôi lại im lặng, trên màn h́nh TV xuất hiện một bé gái đang nói 3 thứ tiếng: tiếng Ḥa Lan của bố, tiếng Pháp của mẹ, và tiếng Anh nơi trường học. Sau đó con bé ấy bắt đầu hát. Thật là tài năng quá! Tôi mơ màng nói với chàng:

- Anh à, nếu ḿnh có con, trai hay gái ǵ em cũng cho nó đi học nhạc, em cầu mong cho nó sẽ có năng khiếu âm nhạc.

Chàng nói giọng gắt nhẹ:

- Thôi Hà đừng nói vớ vẩn nữa, nếu ḿnh có con ở tuổi muộn màng này th́ ḿnh sẽ sống được với nó bao lâu? Lỡ anh chết trước Hà, th́ tội cho con ḿnh mồ côi không? …Ngừng một chút, chàng đổi giọng quả quyết:

- Mà nếu anh chết trước Hà, anh biết chắc là Hà sẽ không dạy con được.

Tôi bất măn hỏi lại:

- Sao anh biết em không dạy con được?

- Sao không biết, ca dao xưa có nói “con hư tại mẹ” đó thôi!

Tôi nhận ra câu nói này cũng có ư trùng hợp với câu của hai cô em gái tôi ở Utah. Mỗi lần có dịp về thành phố Salt Lake để thăm hai đứa cháu nhỏ, thấy cháu dễ thương, xin ǵ tôi cũng cho. Đôi khi làm em tôi bực bội nói: “Giao con cho chị trông chắc nó hư luôn quá!” …Sao lúc đó, tôi chỉ ph́ cười. Bấy giờ nghe chàng nói, tôi không cười được mà tự ái bừng dậy. Tôi trách chàng đă quên rằng tôi đang làm nhiệm vụ của một “educator” mà là “early childhood educator” (nhà giáo dục mầm non) với nhiều năm kinh nghiệm ở cả hai quốc gia nữa mới ghê chứ! Làm sao mà dám nói tôi không biết dạy con được. Đúng là Bụt nhà không thiêng.Tôi giận dỗi quay đi, ḷng buồn hiu hắt…

Ngày qua ngày, tháng qua tháng, rồi năm tiếp nối năm. Thời gian vẫn trôi đi thầm lặng trong hiu quạnh. Tôi phải nhắc đến chữ hiu quạnh này nhiều lần, v́ bất cứ ở đâu, từ chỗ làm việc cho đến khi về nhà, lúc nào cảm giác hiu quạnh cũng quanh quẩn bên tôi như một cái bóng. Ở trường, tôi là người Việt Nam duy nhất giữa 50 nhân viên gồm Mỹ trắng, Mỹ gốc Mễ, và thổ dân Mỹ. Không ai trong số những cô giáo trẻ biết đến Việt Nam ở đâu khi hỏi về nguồn gốc của tôi, có người c̣n lẫn lộn nước Việt Nam là nước Tàu. Tôi thấy chán cho kiến thức địa lư của họ.

Một ngày, bà Linda (một bà giáo dạy lớp pre-K), đến t́m tôi để nói về kế hoạch tuần lễ văn hoá ở lớp bà rằng, bà muốn tôi nói về nền văn hoá Việt Nam cho trẻ lớp bà nghe vào một ngày nào đó trong tuần. Tôi không thích bà Linda là mấy, bà là người Mỹ trắng, không biết gốc ǵ mà tóc bà màu nâu đậm. Tuy bề ngoài bà vẫn nói chuyện xă giao vui vẻ với tôi, nhưng trong ánh mắt và cử chỉ của bà thấp thoáng một sự kỳ thị âm thầm …Tôi hỏi bà:

- Bà muốn tôi nói ǵ về nền văn hoá nước tôi?

Bà hỏi lại tôi:

- Cô có thể giúp tôi nói về những ngày lễ lớn, thực phẩm, cách trang phục được không?

Tôi gật đầu:

- Được, tôi sẽ giúp bà.

Bà quay đi mấy bước nói:

- Cám ơn cô, tôi sẽ coi ngày nào thuận tiện rồi báo cho cô biết.

Rồi bà ngừng lại, lục lọi chồng giấy của bà đang cầm trên tay, bà rút ra h́nh lá cờ đỏ sao vàng ch́a cho tôi nói:

- À, tôi quên nữa, đây là lá cờ Việt Nam tôi đă in ra từ internet, vậy cô có thể nói với trẻ về ư nghĩa lá cờ này được không?

Tôi hơi giật ḿnh nh́n lá cờ, một thoáng bối rối, tôi lắc đầu nói:

- Tôi không muốn nói về lá cờ này.

- Tại sao vậy? Bà hỏi giọng ngạc nhiên

Tôi nh́n sâu trong đôi mắt xanh lơ của bà, nói một hơi:

- V́ đây không phải là lá cờ của những người Việt Nam yêu tự do, mặc dù nó là lá cờ của nước Việt Nam. Với tôi, nó chỉ là lá cờ của chế độ cộng sản, v́ nó mà đă có hàng triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi, nhiều người đă phải chết trên biển cả trong lúc đi t́m tự do.

- Cô muốn nói đến những thuyền nhân phải không?

- Phải. Bà cũng biết đến họ nữa sao?

- Tôi có theo dơi tin tức về cuộc chiến Việt Nam trước kia, và tôi cũng có một người anh trai bị mất tích trên đất nước cô. Tôi không muốn bàn về chính trị ở đây, tôi chỉ muốn giới thiệu cho trẻ biết cờ của các nước, chúng ta có cờ nước Mexico rồi, bây giờ là cờ của nước Việt Nam, nếu cô không giải thích hộ th́ tôi vẫn có thể dán nó ở dưới chữ Việt Nam chứ?

Tôi nói ngay:

- Bà dán lá cờ này trong lớp dưới chữ Việt Nam th́ không sai, lịch sử vẫn là lịch sử, chúng ta là những người cung cấp cho trẻ kiến thức, nhưng với lứa tuổi mẫu giáo th́ trẻ c̣n quá nhỏ để hiểu về vấn đề chính trị, sao bà lại muốn đem nó vào phần giới thiệu về văn hoá?

- Tôi không hiểu ư cô nói.

- Nghĩa là, nói về ư nghĩa lá cờ như bà muốn là đă nói chút xíu về chính trị rồi đó.

- Vậy cô không muốn nói về lá cờ thật sao?

Tôi lắc đầu quả quyết:

- Không, nếu bà muốn dán lá cờ đó ở dưới chữ Việt Nam th́ tôi sẽ không đến lớp bà để nói ǵ thêm về nền văn hoá nước tôi nữa. Hăy quên sự có mặt của tôi là người Việt Nam duy nhất ở đây đi.Trong thời gian tôi thực tập ở “Lab school” tôi đă được học rằng, ở thành phố này, chúng ta chỉ nên tập trung vào 3 nền văn hoá là: Anglo, Hispanic, và Navajo thôi mà.

- Đó là lúc trước thôi, nhưng bây giờ đă thay đổi rồi, cô là giáo viên gốc Việt Nam ở đây th́ tuần lễ văn hoá này phải nên có chút ít ǵ về Việt Nam cho trẻ biết chứ. Tuần lễ này chúng ta cũng có phụ huynh tham gia nữa đó.

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Hay tôi có thể giới thiệu với trẻ và các bậc phụ huynh một lá cờ khác ở nước tôi không?

- Có lá cờ khác sao?

- Có, đó là lá cờ của Việt Nam Cộng Hoà trước khi chiến tranh chấm dứt. Những người Việt Nam yêu tự do trôi dạt mọi nơi trên toàn thế giới vẫn c̣n ǵn giữ lá cờ này như là ǵn giữ quê hương Việt Nam trong tim ḿnh vậy. Nếu bà có dịp đi du lịch đến những nơi nào có cộng đồng người Việt sinh sống, hoặc có dịp tham dự những ngày lễ hội lớn của người Việt, bà sẽ thấy lá cờ này luôn tung bay khắp nơi. Và, tôi cam đoan với bà rằng bà sẽ không bao giờ t́m được lá cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam mà bà đang cầm trong tay ở bất cứ chỗ nào có người Việt Nam cư ngụ, chỉ trừ ở toà đại sứ mà thôi.

- Ồ, thật là đặc biệt đó, vậy cô có thể giới thiệu lá cờ đó với trẻ được không?

- Tôi sẵn sàng, về ư nghĩa tôi sẽ chỉ nói vắn tắt và thật đơn giản để trẻ hiểu.

Bà Konnie dơ một ngón tay cái lên:

- Tốt lắm, tôi sẽ báo cho cô biết ngày nào chúng ta có thể thực hiện được.

- Được, tôi sẽ chờ.

Bà cám ơn tôi rồi bước đi.
Ngày thứ năm trong tuần, tôi đến lớp pre-K của bà giáo Linda để giới thiệu chút ít về nền văn hóa Việt Nam. Hôm đó cũng có vài phụ huynh được mời tham dự. Tôi thấy tự tin hơn bao giờ hết, v́ mọi thứ tôi đă chuẩn bị một cách chu đáo. Tối hôm trước “my house” đă phụ tôi cắt hai mươi lá cờ vàng kích cỡ 3x5 đủ cho mỗi em một cái. Tôi đem hai cuốn DVD của bé Xuân Mai hát về xuân, trong đó có múa lân và nhiều h́nh ảnh ngày tết, bánh chưng, mứt, hoa, các em bé mặc áo dài… Một cuốn DVD khác về ngày trung thu, có nhiều loại lồng đèn và trẻ rước đèn ca hát, có h́nh bánh trung thu, bánh dẻo… Phim ảnh thu hút trẻ rất nhanh, cả lớp ngồi chú ư xem say mê, nhất là màn múa lân.

Khi giới thiệu về lá cờ, tôi chỉ nói ngắn gọn với các em và cha mẹ rằng, đây không phải là lá cờ của nước tôi hiện tại, nhưng lá cờ này vinh danh tự do của những người Việt Nam sống ở hải ngoại. Để dẫn chứng, tôi mở labtop cho họ xem những tấm h́nh diễu hành cờ vàng trong những ngày lễ ở California. Một rừng cờ vàng rực rỡ biểu dương tinh thần yêu tự do của người dân đă từng sống ở Miền Nam Việt Nam dù bây giờ miền Nam đă mất vào tay cộng sản. Sau đó tôi phân phát cho mỗi bé trong lớp một lá cờ vàng nhỏ làm kỷ niệm chơi. Có vài trẻ thích thú quơ quơ lá cờ trước mặt, tôi nhắc lại cho cả lớp về ư nghĩa của lá cờ là “Tự Do” , sau đó cho trẻ đồng thanh lập lại 3 lần. Cả lớp rất hào hứng với nhịp điệu hô to: “Tự do, tự do, tự do” rất vui.
Bà Linda dán lá cờ vàng lớn bên cạnh chữ Việt Nam và bà chú thích phía dưới là:
“ Đây là lá cờ của Việt Nam Cộng Ḥa trước kia, và vẫn c̣n được ǵn giữ trong cộng đồng người Việt Nam trên đất Mỹ cho đến ngày hôm nay như biểu tượng của sự tự do”
Bà Linda có vẻ hài ḷng về buổi nói chuyện của tôi. Bà chỉ lên ḍng chữ chú thích hỏi tôi:

- Cô thấy tôi viết như vậy được chưa?

- Tốt lắm, cám ơn bà đă giúp tôi cơ hội để giới thiệu về văn hoá nước tôi đến với phụ huynh và các em. Đặc biệt là lá cờ này.

- Ồ, tôi phải cám ơn cô mới đúng, trước kia tôi chưa hiểu rơ về chiến tranh Việt Nam, phần cũng phẫn uất v́ anh tôi bị mất tích, nên tôi theo bạn bè tham gia biểu t́nh phản chiến. Sau này đọc nhiều sách báo về chiến tranh Việt Nam và xem những h́nh ảnh thuyền nhân chạy trốn vào ngày Saigon sụp đổ, tôi mới biết ḿnh hiểu sai.

Tôi nh́n đôi mắt bà, h́nh như có một sự thông cảm nào đó đă đưa bà lại gần tôi hơn một chút. Tôi thở dài nói nhỏ:

- Quê hương tôi có một lịch sử khổ đau, không biết đến bao giờ dân tộc tôi mới hết khổ.

- Hăy cố gắng cầu nguyện thôi cô à. Bà Linda vừa nói vừa vỗ vai tôi.

Chúng tôi chia tay nhau ở băi đậu xe.
Niềm vui vẫn c̣n đọng lại trong tôi trên suốt con đường về nhà. Tôi mân mê lá cờ vàng nhỏ trong tay, ḷng thấy tự hào lẫn khâm phục cho sức mạnh, và sự quyết tâm của người Việt Nam ở hải ngoại, đă ǵn giữ, phát triển lá cờ này ngày càng bay cao và bay xa hơn ở khắp nơi trên toàn thế giới. Lần đầu tiên trong ngày hôm đó, tôi không c̣n cảm giác hiu quạnh như mọi ngày.

Mặt trời đă khuất hẳn sau dăy núi, để lại hai dải mây xanh, hồng tím quyện sát bên nhau nổi bật trên nền trời một màu sáng êm dịu. Gần đâu đó, có mùi thơm của bông hoa sói theo gió nhẹ đưa thoảng qua. Trời bắt đầu tối dần, tôi thấy một mảnh trăng lưỡi liềm nhỏ bé xuất hiện nằm cô đơn bên đám mây xa. Không thể ngồi lâu hơn, tôi bước vội về nhà. Căn nhà tối om không có ánh đèn, bóng tối gợi sự hiu quạnh muôn thuở. Tôi vào nhà, với tay mở đèn. Tiếng của “my house” làm tôi giật ḿnh:

- Hà đi đâu mà lâu vậy? Anh chờ Hà năy giờ.

Tôi nh́n chàng hỏi lại:

- Em đi bộ ra công viên chơi thôi mà, anh chờ em làm ǵ, lại ngồi trong tối không chịu mở đèn?

Chàng đứng lên lấy đĩa và muỗng nói:

- Anh mua bánh Pecan pie với kem chờ Hà về ăn cho vui.

Tôi mỉm cười nh́n ánh mắt chàng, chợt thấy một sự nồng ấm đang bao quanh lấy tôi và nỗi hiu quạnh vụt tan biến.

Thiên Lư
Tháng 6/ 12


 


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại