To all my Rangers
Cuối Đường
Hồi Kư cuả Vương Mộng Long.
Tác giả- Vương Mộng Long
- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quư Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A Social
Sciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
"Vinh quang một đời của người cầm quân là một
món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của ḿnh!"
(Vương mộng Long)
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa
độ cách thủ đô Sài-G̣n hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của
quốc lộ 1. Chỉ c̣n một quăng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ
chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-B́nh th́ Bộ
chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đă di chuyển đi đâu mất rồi.
Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào
máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63
BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng
rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, th́nh ĺnh
máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một
câu:
- "Các đơn vị cấp tốc rút về pḥng thủ Sài-G̣n!"
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-B́nh, rồi từng bước, rút
về hướng thủ đô, để "pḥng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu
Hang (Biên-Ḥa) th́ mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên
quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính
sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ
này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 c̣n lại
chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng
Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu
mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư.
Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy
Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu
đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước
(Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn
Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-B́nh ngày hôm
qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-B́nh đă bắt đầu theo
cơ giới rút đi.
Lúc tôi tới Cầu Hang th́ những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-G̣n. Giờ này họ đă quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào pḥng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đă khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng th́ không c̣n ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Ḥa có lẽ đă rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-G̣n. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày c̣n nằm trên sạp tre. Họ đă hy sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không c̣n tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đă kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rơ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn
thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê
minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đă khuất dạng nơi khúc quanh có vườn
cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đă quay lại t́m tôi, nhưng giây
phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên
máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng
tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là
"những người anh em". Chỉ trong ṿng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba
Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi
vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự
hỏi:
- "Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"
- "Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lư, và
thê thảm như thế này?"
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng.
Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt
mướt:
- "Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu ...hu..."
Vào Nơi Lửa Đạn
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều
giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề,
quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri c̣n bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nh́n cấp chỉ huy của họ. Họ nh́n tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép ḿnh trong ḷng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông băo, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi t́nh h́nh nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nh́n kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đă có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào t́nh trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn c̣n hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu ḷng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đă trở thành một h́nh nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm ǵ bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đă bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày tṛ chúng tôi lặng lẽ nh́n nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng!
thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang,
đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai
quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là
cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan
hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
- "Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"
- "Hoan hô!...Hoan hô!"
Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa
và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh
đỏ, uốn éo trong gió.
- "Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?" Chửi thề xong,
ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là
bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn.
Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng
quăng cờ, ḅ lê, ḅ càng t́m chỗ tránh đạn.
- "Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn
vị.
- "Ḿnh đi đâu bây giờ, Thiếu tá?" Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
- "Th́ cứ đi về hướng Sài-G̣n, t́m xem có ai ở đâu đó, ḿnh nhập vào
với họ." Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết ḿnh sẽ dẫn
đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
- "Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô". Chúng tôi đi được chừng nửa
cây số th́ đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
- "Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.
- "Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60
lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng
VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ
trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp
tục lê gót theo đường, về hướng Sài-G̣n. Cứ đi được vài trăm mét,
chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi t́m
tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long th́
thằng Don đưa ống nghe cho tôi:
- "Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"
Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:
- "Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con
cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"
Giọng anh Thanh vẫn b́nh tĩnh, từ tốn, không có vẻ ǵ là lo lắng.
Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở
BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập,
huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép
râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường HCM,
dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701,
702, 740. Những cú nổ ḿn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán
binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe
dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương
bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra
như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang
tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh
Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap
Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng
"Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh
Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do
Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ,
cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn
ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-B́nh, ở Pleiku, th́ đàn em
của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ v́ tôi có
cái tên Long, trùng với tên ông Lư tiểu Long, tài tử chính của phim
này. Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị
này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường Sơn" khiến quân thù
vừa nghe tên đă khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết
được ở Sài-G̣n cũng có cái quán được đặt tên như trong phim vơ hiệp
của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán
th́ máy liên đoàn đă cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường,
chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy
lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
- "Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?"
- "Phải rồi! 82 đây!"
- "Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"
- "Có ai ở đó không?"
- "Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng"
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi
trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành
xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính
đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
- "Ḥa b́nh rồi! Ḥa b́nh rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"
Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "ḥa b́nh" có ở ngay
trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở
cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ
Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe đang bon bon trên con lộ vắng th́ khựng lại, ḅ từ từ. Trên mặt
lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra
hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt-
Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ
trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng
khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng th́ hai bên đường
có tiếng la,
- "Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!"
Rồi th́ tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam
Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành
những cái bia sống. "Ḥa b́nh" rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay
giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để
buông súng?
- "Choác! Choác! ....Choác!"
Gian Lao
Tôi tối tăm mặt mũi v́ loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc
xe tôi đang ngồi lănh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh
thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục
trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "ph́...ph́..." che kín
đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng ḿnh, tôi đă ở
đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng
du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên
mặt đường. H́nh như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi
giựt khẩu M16 trên tay anh,
- "Đưa tao!"
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi ṇng. Tên du kích giăy giụa trên
vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên ḿnh thằng du kích. Tôi ghếch mũi
súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua
nhau nă đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!". Một trái B40 nổ ngay trước
mặt tôi. Tôi cảm nhận rơ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đă ghim vào
cẳng ḿnh. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu.
Máu từ cổ anh xịt thành ṿi; phần thân thể c̣n lại của anh giựt giựt
trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường.
Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp
tục siết c̣. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những
luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục
cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh
vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết
xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu
nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-B́nh, chúng tôi có
cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người
lính c̣n đứng trên xe. Những thân h́nh rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ.
Có người chân vừa chạm đất, đă lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra
khỏi sàn xe, c̣n lơ lửng trên không, tay đă bóp c̣, nă đạn về hướng
địch. Hầu như ai cũng lo bóp c̣. Không ai để ư đến thân thể ḿnh đă
trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay
trái anh đă trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm
trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc
xung quanh. Với một tay c̣n lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này,
tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72,
chớp nhoá, "Cành! Cành!..." - "Choác! Choác! ... " - "Xoẹt!
Xoẹt!..." - "Oành! Oành!.." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra.
Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
- "Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60
về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
- "Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!"
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn
chiến loạn đả xà bần đă diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân
chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân
thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động
Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên
xe thứ nh́ đă được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ
thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba.
Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đă bị loại
ra ngoài ṿng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại.
Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những
người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ ḷng
tḥng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp
giăy chết đành dùng tất cả những ǵ cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm
đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng.
Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả
vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu
chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, c̣n cố ôm cứng một thằng
địch để cắn vào mặt nó . Tôi biết chắc người đó là chú Cường, v́ cái
khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người
t́nh phụ).
Tôi đă bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới
chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe
th́ đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm
thét lên, bên hông trái xe,
- "Thái Sơn ơi! H́nh như tank tới !"
- "Làm ǵ có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!"
Đạn pḥng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi
nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân
người bị đạn, hất thân ḿnh người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ
to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác
Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đă găy nát.
Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép.
Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào
cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên
tôi, không c̣n khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên
xe thứ nhứt có lẽ đă chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nh́
đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên
phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu
AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đă
găy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết v́ trúng đạn 12,7
ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn ḿnh vài ṿng,
tới bên Tài. Tài nh́n tôi, thều thào,
"Chạy đi!... Ông thầy... chạy đi!..."
Tôi định xốc Tài lên để d́u anh vào lề đường th́ hai mắt anh đă lạc.
Đạn bay xém bên ḿnh tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó
nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái
quốc lộ.
- "Anh em chết hết rồi . Chạy đi, thầy ơi!" Đó là tiếng Trung úy
Trâm.
"Toác! Toác!" - "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy.
Chạy được một đỗi th́ tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác
tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cơng tôi, nhanh chân
lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất.
Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ.
Tôi ngă bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của
trẻ con vương văi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi
bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ.
Tôi chợt nhớ tới gia đ́nh vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con
tôi đă chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đă mất. Đơn
vị tôi đă tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con
thú,
- "Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi! ...ơi. ..ơi..."
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê ṇng súng vào mang tai ḿnh, bóp c̣.
Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté.
Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
- "Trâm ơi! Làm ơn! ... Cho anh chết! Trâm ơi!..." Nước mắt dàn dụa,
tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm ĺ,
xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn c̣n lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn
lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh,
mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một g̣ mả. Trâm từng bước d́u tôi
về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho
chú Trâm tha lôi đi đâu th́ đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ
đất th́ một nông dân đạp xe tới chặn đường,
- "Ông thiếu tá bị thương hả?"
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi
lại đeo lon đen. Người dân đă nh́n thấy cặp lon trắng của tôi. Ông
cụ có vẻ động ḷng,
- "Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu
không tốt đâu!"
- "Cám ơn cụ!" Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân
tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn pḥng Hội Đồng Xă, cửa đóng, khóa ngoài.
Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ,
lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy
súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục
VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng
quan sát một phút, rồi thở dài,
- "Cởi quân phục vứt đi th́ chỉ c̣n cái áo mayor với cái quần
xà-lỏn. Ḿnh làm sao đây, Thái Sơn?"
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu
súng thẳng đứng. Đưa ṇng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào c̣
súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!" Tôi đang suy nghĩ, sắp thử
một cú tự giải thoát nữa, th́ chú Trâm van lơn,
- "Thầy ơi! Thôi đi thầy ơi! Đừng bỏ em, thầy ơi! "
Gian Lao
Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thầy tṛ
tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...." Những người đứng gần đó, bị nỗi
đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả
một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có
người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng ǵ với
nhau, nh́n nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh
kè sát bên tôi, nói nhỏ :
- "Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn."
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
- "Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị
thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai
có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác
thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không
để cho chúng nó bắt."
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi th́ ngừng. Anh thanh niên
dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
- "Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!"
Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di Cư:
- "Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà
đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"
- "Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ
nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi,
cḥm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa
con về ngay. Mẹ đừng lo!"
Bà mẹ nh́n tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan
QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài ḍng hỏi han. Cụ đưa tay
chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
- "Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi!
Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!" Thoáng chốc, tôi và Trâm thành
hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đă chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng
muống sau nhà.
Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và
Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài
đường có tiếng đối đáp,
- "Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri ngụy chạy qua đây
không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
- "Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo
phải! Chổ cây dừa nghiêng..."
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó
hỏi trống không,
- "Chứ hai anh kia làm chi rứa?"
- "Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng.
- "Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới
đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân
trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
- "Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng.
Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có
súng!"
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai
lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ ḷng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ
sau anh trở về,
- "Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi."
- "Hai con có c̣n tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà
cụ ân cần.
- "Cám ơn bác. Chúng cháu c̣n tiền đây. Chúng cháu mới lănh lương.
Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên
lời. Bà già nh́n chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm t́nh thương
xót bao la.
- "Thưa Mẹ! Con đi!"
- "Thưa Mẹ! Con đi!"
- "Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!"
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ,
không ngại ngùng, như thể bà đă là Mẹ tôi, đă sinh ra tôi. Tôi và
chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ
đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải c̣n
trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào ḍng người hướng về Thủ-Đức. Chợt
sau lưng tôi có tiếng gọi, "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!" Th́ ra người gọi
chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy . Ba thày tṛ tôi không dám lớn
tiếng hỏi han nhau về những ǵ đă trải qua. Chúng tôi đi như những
người dân chạy loạn đang t́m đường về nhà, sau khi im tiếng súng.
Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe
Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đă xảy ra
cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà
lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều
người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát.
Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ
Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường
Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb ḅ ́
ạch v́ quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi,
áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận
ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có
Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân.
Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
C̣n cách ngă ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải
xuống xe đi bộ ṿng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc
lộ, v́ giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh
Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn
đường này. Lội hết vạt ruộng th́ thày tṛ tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc
này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi
nhau hướng về Sài-G̣n. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây
cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè th́ mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là
một chiếc M41 đứt xích v́ B40. C hiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè
sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đă khô, nhưng không thấy xác
người chết. Bên cạnh đó, vương văi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng
Ḥa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc t́nh h́nh lộn xộn, cḥm xóm biết ḿnh là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn pḥng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đ́nh bạn tôi đă di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời? Chỉ c̣n cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày tṛ tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết ḿnh là ai; vừa t́m xem chú Phước c̣n hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước c̣n mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất th́ Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, "Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!" Th́ ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-B́nh. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-G̣n.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nh́ đă bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đă được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đă cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, v́ địch quá đông. Đến lúc khẩu pḥng không 12,7 ly của địch tham chiến th́ Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, h́nh như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rơ số mệnh ra sao . Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không c̣n dịp gặp lại nhau nữa.
Thời gian trôi . . .mười ba năm sau, cũng vào
ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng.
Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Sài G̣n". Có một anh
Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái
giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ,
mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng
đă mau mắn trả lời :
- "Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!"
- "Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà .
. . nghệt mặt, giương mắt nh́n anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ư anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà
thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá,
Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có c̣n nhận ra anh không? Qua văn
pḥng Ủy-Ban Nhân-Dân Xă, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại
bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số.
Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt
Động Quân đă tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối
cùng. Những người nằm xuống đă sang thế giới bên kia trong quân phục
rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt
tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng
c̣n nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
- "Các chú tha lỗi cho anh..."
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ ḷng
đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. H́nh như trong
gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, năo nuột:
- "Thầy ơi! Chạy đi!... Thầy ơi!..."
Ngồi bên b́a rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ....
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng