Tác giả là một nhà giáo hưu trí, cư dân
Riverside, đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng
Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về
Nước Mỹ 2009. Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết
Giáp Ngọ 2014.
* * *
Tôi quen Khoa ở trại tỵ nạn Chimawan, Hongkong, cuối 1983, ghe
hai đứa cùng vượt biên xuất phát từ Nha Trang, Bình Thuận
cùng một thời điểm tính qua Phi mà bị bão thổi lên
Hongkong, nhưng anh và tôi sĩ quan khác ngành nên không thân
nhau mấy. Khoa tánh xuề xòa, trước làm Tình báo bên An ninh
quân đội, nên phái đoàn Mỹ tin cậy, giao anh nhiệm vụ kiểm
tra coi ai là lính thiệt, ai là lính giả khai man để được đi
định cư Mỹ.
Anh Hùng, người tổ chức vượt biên cho tôi tháp tùng năm đó
là đại úy CTCT, ngày xưa ở tù ngoài Bắc tám năm, còn Khoa
tù tám năm Campuchia, nên hai người này cùng cảnh ngộ mới
thật là thân nhau. Qua Mỹ, hai người lại tình cờ ở gần
nhau, người Orange County, người Long Beach. Anh Hùng bán địa
ốc, Khoa làm thầu khoán xây cất sửa nhà, sửa điện,
plumbing, ráp cửa garage, thay bồn nước nóng, cắt cỏ...cái
gì cũng biết.
Năm kia, nhân trên San Jose tổ chức hội Ái hữu tỵ nạn
Chimawan họp mặt, anh lái xe chở anh Hùng và tôi lên dự
tiệc, coi có gặp người quen cũ không. Nhờ chuyến đi đó mà
anh thân với tôi hơn, gọi phone thăm, ghé nhà chơi, vui vẻ tới
sửa giùm điện, nước, gas, thay bồn nước nóng, thay cửa
garage bị hư trong nhà. Bất cứ cái gì hư... gọi một tiếng
là anh tới, sốt sắng mua đồ, thay, sửa, mau mắn làm được
hết... Tôi có nhà mà không biết sửa nhà, tự nhiên được một
ông bạn "handyman" tới giúp đỡ các việc linh tinh trong nhà,
thật là may mắn. Có lần tôi than, "Già ở một mình mà con
cái bạn bè đều ở xa, lỡ lái xe bị "panne" trên freeway đêm
hôm, không biết gọi ai tới cứu...", anh buột miệng liền,
"thì có tôi, gọi tôi, tôi lái xe tới cứu cho", làm tôi nín
lặng, cảm động.
Bạn bè sống chung thời kỳ Chimawan cũ nay ở tứ tán, chỉ
có tôi và anh Hùng ở gần, nay anh Hùng mất, chỉ còn tôi,
nên Khoa thường xuyên ghé thăm trò chuyện, tâm sự. Hai đứa
cũng lăn lộn thăng trầm đủ nghề ở Cali, nếm đủ cả thành
công lẫn thất bại nên thông cảm nhau lắm.
Hồi mới qua anh đi rửa chén cho nhà hàng lấy tiền mặt, rồi
đi học nghề, làm chủ thầu, điều động đám thợ Mễ đi chỗ
này chỗ nọ, bây giờ kinh tế suy, không có việc, đành làm
công cho hãng Mỹ sửa chữa nhà cửa, chung cư, ăn lương tháng,
khi làm ở L.A, Long Beach, Chino Hills, khi ở Riverside... Thấy
nhà tôi mát mẻ, yên tĩnh, thích lắm, nhờ coi khu này có ai
rao bán, cho anh hay để mua một căn như vậy để nay mai về hưu
ở gần cho vui.
Một lần anh ghé tôi loay hoay thay cái motor điện xay rác ở
sink nhà bếp bị hư, tôi đứng gần coi, anh bảo đừng đụng
người anh, coi chừng bị giựt. Tôi nói đùa:
- Mạng tôi lớn lắm, đừng lo.
Tôi nấu cà phê, anh sửa xong, tôi lấy bánh Pháp ra mời ngồi
ăn, vui chuyện kể con người có số, tôi chết hụt mấy lần mà
Trời cứu: hồi trẻ đi lính đang gác đồn mấy tháng không sao,
vừa được chuyển vô Trung tâm hành quân làm thì đồn bị đánh
úp nửa đêm, cụt tay cụt chân chết biết bao nhiêu lính; lần
khác trong một cuộc cãi cọ, bị lính say đập chai bia lên
đầu nứt sọ mà không sao; qua Mỹ lái xe đêm khuya bị tài xế
chạy ngược chiều đâm sầm vào mà lách kịp trong nháy mắt...
Anh buột miệng kể mạng anh cũng lớn, năm 75 ở tù bên
Campuchia cũng bị đánh nứt sọ mà không chết, bị cai tù VC
đập cây lên đầu bất tỉnh, rồi xối nước cho tỉnh tra hỏi
tiếp vì nghi làm cho CIA, làm tôi giật mình trố mắt:
- Anh làm chức gì mà bị nhốt tuốt bên đó vậy?
- Tôi trước làm cho DAO (Defend attack office) thuộc CIA Mỹ, VC
được tình báo cho biết nên bắt tôi, nhưng chưa có bằng
chứng, bèn đưa tôi qua đó nhốt riêng, ở chung với các thành
phần làm cho Mỹ. Nó tra hỏi tôi, bắt đưa cái code để mở
computer truy tìm danh sách nhân viên tình báo làm cho Mỹ. Tôi
nói, "Tôi không biết, mà dù có biết đi nữa, tôi cũng không
thể tiết lộ". Nó tức giận cầm cái chày đạp lên đầu tôi
nứt sọ, tôi bất tỉnh té xỉu. Nó dội nứớc lên đầu lên mặt
cho tỉnh, tiếp tục tra tấn tiếp....
- Thì anh có tiết lộ, Mỹ cũng đã thua rút về nước hết
rồi, đâu có biết mà trừng phạt anh? Mà sao họ không mang
theo tất cả những người làm tình báo giúp họ như anh về
Mỹ, lại bỏ rơi lại đây cho VC làm thịt? Thật là nguy hiểm
cho tánh mạng, không riêng anh, mà cả gia đình anh nữa.
- Mỹ đi nhưng người của họ để lại nhiều lắm, làm sao mình
biết được kế hoạch của họ ra sao. Tôi đã lỡ thề giữ bí
mật suốt đời khi làm cho DAO rồi. Mình mà tiết lộ bí mật
đó thì suốt đời như ngồi trên lửa, lo sợ không biết chết
lúc nào... mà cũng chắc gì VC để cho mình yên thân khi đã
khai ra. Anh thấy như Osama Bin Ladin được Pakistan che dấu bảo
vệ kỹ lưỡng như vậy mà Mỹ còn theo dõi ám sát được.
- Anh đi Thủ đức khoá mấy?
- Khóa 27.
- Ủa, tôi cũng khóa 27... nhưng khóa đó đông quá, thặng dư
nên họ chuyển tôi ra Đồng Đế học khóa 2/68.
- Tôi có cử nhân luật, nên chỉ học Thủ đức hết giai đoạn
một là họ đưa về Nha quân pháp, tuyển chọn đưa qua làm tình
báo cho Mỹ.... Tới ngày mãn khóa, tôi được gọi vô trường
dự lễ gắn lon chuẩn úy cho có lệ. Nhưng thực ra tôi mang lon
trung úy giả định. Đám bác sỹ cũng vậy, đâu có tốt nghiệp
hay chiến đấu gì cũng được gắn lon trung úy giả định như
tôi. Họ gửi tôi qua Mỹ học. Khi về, làm cho DAO thuộc CIA,
hay đi máy bay với Mỹ hết vùng này qua vùng kia, chụp không
ảnh, nghiên cứu địa hình.....
- Vậy sao? Tôi chưa hề nghe có vụ như vậy..
- Anh biết, sau lần chết hụt đó, được mấy năm, nó tìm ra
manh mối về tôi, chuyển tôi qua trại khác, bắt ăn uống khổ
sở, lao động vất vã, ba đứa mà có một tô cơm hẩm rắc
muối. Một đêm nọ, có hai thằng xách súng vô chỗ tôi nằm,
kêu dọn đồ đi theo chúng. Tôi đã chuẩn bị cái chết sẵn
trong đầu rồi nên không sợ hãi. Lâu lâu tụi nó vẫn đêm khuya
đang ngủ, hùng hổ vô dẫn người ra bìa rừng, rồi nghe tiếng
súng nổ, anh em không bao giờ thấy mặt lại... Một thằng ném
cho tôi bộ đồ bộ đội xanh cứt ngựa, bảo thay đồ, nó ấn
cái nón cối lên đầu tôi, nhưng tóc tôi nhiều và dài tới
vai-cả mấy năm trời đâu có được cắt tóc, thấy không giống
bộ đội, mới dẫn tôi tới một trạm gác nhỏ, nói thằng lính
trong đó hớt tóc cho tôi. Tôi không biết tụi này tính làm
gì. Nếu thủ tiêu tôi thì cần gì mất công cắt tóc, thay đồ
làm chi. Một thằng lái Honda chở tôi, hai đứa kia lái Honda
khác theo sau, đi trong rừng ban đêm, tới trạm khác lại thay
cặp khác lái theo hộ tống, hai tên cũ quay về... Có vẻ như
chúng nó dẫn tôi đi đâu xa lắm, trình diện ai đó... Lúc nào
cái thằng ngồi kèm với tôi cũng theo chặt tôi, hai thằng kia
theo sau hộ tống từng chặng một, rồi đổi người. Qua tối hôm
sau thì tới Tây Ninh biên giới Việt Nam, chúng bỏ tôi vô đồn
lính gác ăn qua loa rồi kêu đi ngủ, tụi nó trao đổi xầm xì
gì với nhau một lúc. Tôi nghe loáng thoáng là mai chúng đưa
tôi về Saigon, lúc đó tôi hết sợ, biết là được cứu thoát
rồi...
- Bà con anh có ai làm lớn ở ngoài mà cứu ra khỏi tù hay
vậy?
- Má tôi chạy một ông đảng viên gộc (1) ở Saigon 30 cây vàng
chứ ai cứu, họ đưa thẳng tôi từ tù ở Campuchia qua Saigon,
chở ra Phan thiết bỏ nằm ở nhà ga mấy ngày, sau đó đưa tôi
ra ghe đi vựợt biên luôn.
- Trời...sao bà già biết đường dây gộc đó hay vậy? Ngừời
nào mà móc nối bã với ông gộc đó cũng là thứ dữ lắm.
Hồi bã đi thăm nuôi anh, có khi nào úp mở nói mánh chuyện
đó cho anh biết trước không?
- Làm gì có... Thăm nuôi, nó đứng bên cạnh dỏng tai nghe, ở
đó mà dám nói chuyện đại sự... Bã chỉ cho biết là thằng
em tôi đã về "ở" với cậu Năm rồi, mà cậu Năm thì chết đã
lâu, tôi ngẫm nghĩ thấy lạ không dám hỏi, sau mới hiểu ra
là em tôi bị chúng giết chết trong tù. Nó đại úy làm bên
an ninh. Còn lại có tui là con một.
Thấy tôi trố mắt chăm chú nghe, Khoa kể tiếp như thuộc lòng
câu chuyện từ lâu:
- Sáng ra cái thằng phụ trách tôi chở tôi từ biên giới Tây
Ninh về Saigon, thấy chiều còn nắng, nên nó ngừng ở ngoại
ô, chờ sụp tối mới chở tôi vô thành phố, vì ban đêm an toàn
hơn, không ai thấy rõ mặt tôi.
Nó chở tôi vô dinh ông đó, đèn đuốc sáng choang, trình giấy
tờ hai ba chỗ, tôi thấy lính gác đi qua đi lại ngoài vườn
trong nhà đông lắm. Ông đó lúc đó làm lớn ở Saigon, ở trong
cái dinh khổng lồ của ông lớn nào chế độ cũ bỏ lại, lính
nói chuyện với nhau có lúc nhắc tên ổng, tôi nghe được. Vô
phòng khách, ổng kêu tôi ngồi xuống, hỏi thăm vài ba câu rồi
sai lính đưa tôi đi tắm thay một bộ đồ công nhân hỏa xa, rồi
mời vô ngồi ăn cơm chung bàn. Lính mỗi lần trình báo điều
gì, đều kính cẩn kêu "Chú Sáu, chú Sáu". Sau này suy nghĩ
mãi, tôi mới đoán biết ổng là ai, hồi làm CIA tôi thấy tên
đó trong danh sách những người đặc biệt làm việc với Mỹ
hoài mà không biết là ai. Ổng hoạt động ở Củ Chi. Té ra
ổng làm việc cho cả hai bên. Bà vợ ngồi phòng khách, lâu
lâu đứng dậy đi tới đi lui liếc nhìn tôi. Ổng nói, "Tôi chỉ
cứu anh một lần này. Hiện giờ người ta đang truy nã anh
khắp Saigon, tới các nhà bà con bạn bè anh kiếm bắt anh,
anh phải rất cẩn thận. Tôi không muốn thấy anh lại, nếu bị
bắt lại đừng nói tên tôi. Tôi muốn anh phải đi thật xa... ra
khỏi nước. Ở lại ngày nào là nguy cho cả anh lẫn tôi. Bây
giờ anh là nhân viên hỏa xa. Ngay đêm nay sẽ có xe hộ tống
anh ra ga Phan thiết, ra chợ anh sẽ gặp lại gia đình anh và
biết chuyện gì sẽ tới...". Ổng đưa tôi cái căn cước mới có
hình tôi, một thẻ nhân viên hỏa xa và một ít tiền. Nói xong
là có lính đưa tôi ra xe liền."
Tôi chép miệng:
- Công nhận, tụi đảng viên cao cấp có trình độ ăn nói khôn
ngoan, dùng chữ vắn tắt, nói lửng lơ, đủ cho mình hiểu chứ
không dùng từ ngữ "giúp vượt biên", sợ sau này có gì đổ
bể xảy ra, mình không thể dùng từ đó "đập" lại họ được.
- Bởi vậy mới làm lớn được, đâu phải ba đứa công an cán bộ
thất học ăn nói bậy bạ như bây giờ.
Tôi lo lắng hỏi:
- Anh ở nhà ga, lỡ công an thấy lạ, tới hỏi, nói lớ ngớ
lộ chuyện chết..
- Ga Phan thiết đông lắm, họ bảo tôi nằm ngủ trên băng ghế
dài với cái "balô" và tấm mền ở các toa xe lửa trống một
vài hôm, chờ sẽ có người đón đi. Chỗ đó tàu ra Bắc vô Nam
liền liền mỗi ngày, nhân viên cán bộ di chuyển cũng ngủ
tạm ở các toa xe trống như tôi nên chả ai để ý hỏi tôi. Tôi
có thẻ nhân viên hỏa xa đóng dấu đàng hoàng nên cũng không
lo, chỉ sợ gặp người quen nhận ra hỏi han lôi thôi. Mỗi sáng
tôi ra chợ mua thức ăn rồi về lại toa xe ngồi, ngắm thiên
hạ. Lần thứ ba ra chợ, tôi giựt mình thấy vợ tôi, có hai
thằng công an kè kè bên cạnh, mắt nhìn láo liên.
Tôi lấy vợ dân Phan thiết năm 74, qua năm sau VC vô thì đi tù,
vợ chồng xa nhau tám năm bây giờ mới gặp lại, tôi bồi hồi
xúc động, nhưng không dám gọi. Bà ấy nhìn dáo dác, thấy
tôi, mắt sáng lên, nhưng lật đật quay mặt phóng tầm mắt ngay
đi phía khác. Tôi hiểu ngay công an địa phương đi theo người
nhà để lùng kiếm tôi, vội cúi mặt, lẻn trốn chỗ khác,
rồi về lại toa xe lửa. Hai hôm sau, ban đêm có người tới chỗ
tôi, mang lon sĩ quan, chắc làm chức vụ lớn, thấy tôi nằm,
xung quanh có nhiều người còn thức, bảo tôi đứng dậy chuẩn
bị "đi công tác". Tôi hiểu ý, đứng lên dọn đồ xách "balô",
đi theo ổng ra ngoài có xe hơi đậu, leo lên ngồi. Xe chạy
thẳng ra hướng biển, gió mát thổi lồng lộng. Tới chỗ nhà
nọ, hắn ngừng xe, đi vô nhà dắt ra cái Honda, rồ máy bảo
tôi lên ngồi đàng sau. Tôi loay hoay khoác ba lô trên lưng, hắn
nói:
- Anh không cần hành lý này nữa đâu, vứt đi..
Rồi hắn chạy xe len lỏi mấy vòng trong mấy ngõ cụt, đậu
truớc một bãi biển vắng vẻ có một chiếc ghe và mấy bóng
người đứng lố nhố gần đó. Hắn hất hàm bảo tôi xuống xe:
- Vợ anh đang chờ anh dưới đó, xuống đi. Coi chừng cẩn
thận... Chúc đi may mắn...
Tôi ngỡ ngàng, cảm ơn rồi chạy xuống bãi. Vợ tôi chạy tới
ôm chầm lấy, kéo tay xuống ghe... Có khoảng mười mấy người
vừa đàn ông vừa đàn bà, trong đó tôi nhận ra vài người bà
con bên vợ. Người chỉ huy là một anh trung úy tôi quen, tên
Hà, đang cãi nhau với chủ ghe tại sao hứa bán ghe 2 "lốc"
mà giờ chót giao ghe F10 nhỏ xíu... Tôi nghe qua, biết ngay
bà già tôi trước đây thương lượng mua ghe của ông già này,
lão hứa đưa ghe lớn mà giờ chót tráo trở đưa ghe nhỏ, còn
bãi là đã mua của công an địa phương rồi, nhắm chuyện đã
lỡ, có dằng co cũng vô ích, không còn thì giờ nữa, mà tên
ngồi Honda trên kia thì đi đi lại lại có vẻ sốt ruột, kêu
nhổ neo cho mau, đành xua tay bảo Hà, "thôi thôi, chuyện lỡ
rồi anh, mình đi cho rồi." Chủ bán ghe ở lại, tất cả lên
ghe. Tài công giựt máy nổ, ghe xình xịch rời bến. Tôi nhìn
quanh thấy mấy cuộn dây dừa thật to, bốn cây tre dài bốn
thước, mười can dầu, nước uống đầy đủ, thức ăn chuẩn bị
tươm tất, có cả bốn cây súng M16. Hà nói có hải bàn, hải
đồ ở buồng lái.
Ghe đi khoảng được trăm mét, tôi nhìn lên bờ thấy tên đi Honda
bắt đầu rồ máy rời bãi, bỏ chạy biến mất trong bóng đêm.
Tối hôm sau thì ghe đang chạy, vướng phải lưới đánh cá của
dân giăng chìm bên dưới, mấy ghe cá xa xa chạy lại tính gây
sự, Hà bèn lôi súng ra bắn mấy phát khiến họ bỏ chạy.
Tụi tôi xúm lại cắt lưới dính vô chân vịt, chạy tiếp...
Mấy tiếng sau ghe lại mắc kẹt vô lưới nữa, lưới đánh cá
chỗ khác. Lại lụi hụi cắt lưới. Qua ngày sau thì trời nổi
cơn bão lớn, chắc ra tới hải phận quốc tế rồi. Từ xa sóng
cao bằng cái nhà lầu hai tầng ầm ầm kéo tới, ai nấy nhắm
mắt sợ hãi chờ chết thì tự nhiên tới gần ghe, sóng nó
cúi xuống thấp chui lòn dưới ghe qua bên kia... Lạ thiệt...
Chiếc ghe hẹp nhỏ xíu, mỏng manh mà sóng to gió lớn dập
vùi nghiêng ngả, tôi kêu đám thanh niên cột chặt bốn thanh tre
dài vào hai bên bờ ghe,mỗi bên hai cây, để làm ghe rộng ra,
hóa giải các ngọn sóng đập vào, cản nước khỏi tràn vô,
nhờ vậy mà ghe chỉ chòng chành qua lại nhưng lúc nào cũng
giữ được thăng bằng, không cách chi bị sóng đánh chìm qua
một bên nỗi. Đó là lý do tại sao ông chủ ghe bỏ vào mấy
cây tre dài khi bán ghe cho đám vượt biên mấy ngày trước. Có
lần sóng mạnh như muốn hất tung chiếc ghe lên trời, tôi phải
bắt đàn bà con nít nằm mọp dưới đáy ghe, lấy mấy cuộn dây
dừa ra ràng chằng chịt qua lại bên trên để giữ họ khỏi bị
hất văng xuống nước.
Thấy tài công không rành coi hải bàn ngòai biển lớn, tôi
dành lấy, soi đèn pin coi, nhờ ở tù nhiều năm học được của
anh em bạn tù hải quân, hướng dẫn lái ghe tắp vô Phi. Nhưng
thấy bờ biển Phi trước mặt không xa mà không tới gần được,
ghe cứ quay tròn chứ không đi thêm được, coi lại bản đồ thì
ra có cái hố nước xoáy sâu, đường kính dài tới mười cây
số nên ghe cứ lòng vòng mắc kẹt ở đó hoài. Tôi phải cho
lái lên phía bắc, tắp vô chùm đảo Hoàng sa tụi Tàu chiếm
đóng từ 1974. Tui bảo anh em quăng mấy cây súng xuống biển,
sợ Tàu thấy nó nả súng bắn mình oan mạng. Lúc đó Tàu
với VN là kẻ thù, nên họ cho một chiếc tàu tới ghe tụi tôi
nhảy xuống tra hỏi khám xét, nói tiếng Tàu xì xồ nên
chẳng ai hiểu gì. Vợ tôi sợ, muốn quăng mấy lượng vàng đem
theo xuống nước, tôi bảo đừng, cứ dấu trong mình, tụi này
đâu phải hải tặc cướp biển. Viên chỉ huy toán lính gọi máy
liên lạc với trên đồn chở tới một thông dịch viên, hỏi tụi
này bằng tiếng Việt rồi dịch lại tiếng Tàu cho tên chỉ huy
tàu lớn. Biết dân VN vượt biên, họ có vẻ an tâm, thông dịch
viên bảo ghe đi theo họ vô đồn trong những con đường nước có
thả phao đỏ hai bên, không được đi ra ngoài, sẽ bị đá ngầm
đâm lủng ghe. Họ cho thức ăn, xì dầu, đồ hộp thừa mứa. Tụi
tôi ở lại gần đồn họ đêm đó, tờ mờ sáng họ đã ra dấu
đuổi đi, cho mấy thùng dầu để đi tiếp lên phía bắc.
- Tụi lính Tàu tử tế quá nhỉ...
- Tôi cũng nghĩ vậy... nhưng chính vì mấy thùng dầu đó mà
ghe tôi tắt máy giữa biển sau đó. Loại dầu đó dành cho tàu
lớn xài, ghe nhỏ xài loại dầu khác. Thế là chạy mới được
một ngày, ghe khọt khẹt một lúc rồi tắt máy, nổi lênh đênh
giữa vùng nước tối đen bao la... Mà bão thì ở đâu ngay lúc
đó ầm ầm kéo tới... Lênh đênh giữa trời tối như mực, gió
tung ghe lên xuống liên hồi... Bị nhồi xóc liên tục, ai cũng
lăn ra ói mửa nằm đài la liệt... Tôi là người cuối cùng
kiệt sức lăn ra lịm đi, mơ mơ màng màng không biết là đang ở
trên vùng biển nào, phó mặc cho số mệnh, nghĩ có lẽ ghe
đang trên đường lên Đài Loan hay lạc lõng vô vịnh Bắc Việt,
gần đảo Hải Nam. Thình lình không hiểu sao, tôi cảm thấy như
gió bão đẩy ghe vùn vụt, hay như có bàn tay Ơn Trên phù hộ,
nâng ghe lên cho gió thổi ào ào đẩy ghe thật nhanh...
Không biết bao lâu, khi tôi tỉnh cơn mê ngồi dậy thì thấy ghe
đã dập dềnh tắp vô bờ biển, xa xa hàng trăm ghe đánh cá
thắp đèn sáng rực. Mọi người lục đục quanh tôi ngồi dậy
ngó dáo dác, tháo dây dừa ra, vì bể lặng, sóng êm, ghe nổi
bềnh bồng... Có vài chiếc ghe nhỏ tụi thanh niên Bắc kỳ
vượt biên từ mạn Hải phòng tới, lảng vảng ở bờ, gần ghe
tôi, nói tiếng Bắc kỳ rổn rảng. Tôi gọi hỏi thăm, tụi nó
nói đây là bờ biển Trung quốc, giữa Hải nam và Hongkong,
chúng nói tụi Tàu biên phòng không cho lên bờ, cũng không
bắt giữ ghe vượt biên từ Việt Nam, chỉ xua tay đuổi đi tiếp
về phía bắc. Ghe tui mừng quá, coi như thoát chết, đám thanh
niên lấy mấy cây chèo ra, cứ men theo bờ biển mà chèo đi.
Có lần thấy một bãi biển vắng, tụi tôi lén tắp vô, xách
can nhựa chạy lên kiếm mấy cái giếng múc lấy nước uống, ai
dè công an ở đâu xuất hiện, xách súng ra la ó, xua đuổi.
Nhưng thấy múc nước họ cũng chờ, để yên cho múc đầy, rồi
đi theo xuống chỗ ghe đậu coi có ai trốn ở lại không. Một
ngày sau thì ghe tắp vô Macao, thành phố sòng bạc nổi tiếng
Á châu. Cảnh sát xuống ghi số ghe, tịch thu các giấy tờ cá
nhân coi từ đâu tới. Sợ họ đuổi đi, tụi tôi phá hư máy, để
được tiếp nhận. Coi giấy tờ xong, biết từ Việt Nam tới, họ
nói bằng tiếng Anh, "Ở đây, chúng tôi một tuần chỉ có một
ngày nhận dân tỵ nạn tới, đó là ngày thứ sáu, hôm nay mới
thứ năm, chúng tôi buộc lòng phải đuổi các anh đi. Đi thêm
nửa ngày nữa, các anh sẽ tới Hongkong, ở đó họ nhận tỵ
nạn... Nhưng nếu họ hỏi,không được nói ở đây đẩy qua đó..."
Họ tử tế cho một chiếc ghe tốt hơn, nhận chìm ghe cũ, bắt
chúng tôi dời qua ghe mới, rồi cho một tàu nhỏ kéo đi qua
Hongkong. Thấy Hongkong hiện ra xa xa là tàu tháo dây cáp,
vẫy tay chào chúng tôi, bỏ quay về lại Macao. Khi ghe tụi tôi
cập bến, cảnh sát tới tịch thu giấy tờ, hỏi ai là chỉ
huy. Tôi bảo Hà để tôi nhận là chỉ huy, vì có giấy tờ làm
cho CIA của Mỹ trước kia. Giấy tờ này, gồm cả hình ảnh
mặc đồ lính, bằng cử nhân luật trước 75, vợ tôi chuẩn bị
sẵn một phong bì bao bịch nylon, đưa tôi lúc gặp nhau dưới
ghe ở bờ biển Phan thiết. Họ hỏi đi từ đâu tới. Tôi nói từ
Việt Nam. Họ hỏi sao đi ghe của Macao. Tôi nói tại ghe tôi hư
máy tắp vô Macao, Macao cho ghe khác rồi đuổi đi. Họ ghi chép
tên họ cấp bậc chức vụ tôi, báo ngay cho phái đoàn Mỹ
biết... Phái đoàn điện về Washington, và ba hôm sau ông boss
Mỹ cũ của tôi bay qua Hongkong gặp tôi, gửi gấm cho phái
đoàn Mỹ tại Hongkong. Tôi trở nên cố vấn tin cậy của họ,
làm việc trực tiếp với một bà xếp Mỹ. Bất cứ vấn đề gì
liên quan tới nhân sự làm cho Mỹ trước kia, họ đều hỏi ý
kiến tôi.
Trong mấy tháng ở Hongkong, tôi đã giúp biết bao nhiêu người
tỵ nạn tình ngay mà lý gian, chỉ vì họ vô tình khai gian,
hay giấy tờ không đầy đủ. Tôi bắt họ nói thật, nếu đúng
là cựu quân nhân mới bảo đảm với bà boss, để giữ uy tín
mình... Anh biết, người ta đã tin mình, mình không nên vì
tình cảm cá nhân, hay mủi lòng thương hại mà làm chuyện
gian dối, Mỹ sẽ khinh cả đám. Ở đây tôi gặp anh Hùng, đại
úy Hải, Thiện, anh... thằng Danh. Anh nhớ thằng Danh, cái
thằng láu cá, nó đâu có đi lính ngày nào mà xưng là thiếu
úy. Nghe có người mách nó lấy giấy tờ anh nó là thiếu úy
nhảy dù qua đây, mặt hai anh em giống nhau y hệt, nên không ai
biết. Lúc đó, tôi nghĩ tới hoàn cảnh chính tôi, em thì bạc
phước bị VC giết, còn mình thì có phước được qua đây như
nó, công trình vượt biên một lần đi chín phần chết, một
phần sống chứ đâu phải dễ, nên làm ngơ... Nó mới 22 tuổi,
còn cả một tương lai trước mặt, cho nó có cơ hội giúp đỡ
mẹ già, anh khổ ở lại…
- Hồi đó tôi được chuyển qua Phi học ESL mấy tháng không gặp
anh. Hình như anh đi thẳng Mỹ.
-Tôi và anh Hùng được đi thẳng Mỹ vì tình cảnh đặc biệt,
kể ra dài lắm. Ông boss CIA cũ của tôi bên Mỹ nhờ một ông
bạn đại tư bản ở Boston bảo trợ tôi, cho vợ chồng tôi ở
nguyên một cái nhà to khỏi trả tiền rent, đưa tôi đi làm ngay
trong hãng của ổng. Tôi qua đó tháng 8/84, mấy tháng sau mùa
đông tới... ôi chao là lạnh, tuyết rơi, lạnh chịu không nỗi,
thời gian đó tôi liên lạc được với bạn bè bên Nam Cali nên
tính chuyện lén dọn về Cali ở, tính thầm trong bụng chứ
không dám cho ông sponsor hay, sợ ổng buồn. Ổng tốt quá, nên
mình ngại, sợ ổng nghĩ mình chê tiểu bang của ổng, được
voi đòi tiên. Qua Little Saigon được hai tuần tôi có gọi phone
về xin lỗi ổng. Ổng nói, "OK, nếu mày không có việc làm,
cứ qua trở lại đây, tao sẵn sàng tiếp đón". Nhưng nói vậy
chứ mặt mũi nào mình chạy qua đó lại. Tôi làm cho nhà
hàng, rồi ghi danh đi học trường tư, học điện, plumbing,
contruction... rồi sau cùng lấy bằng thầu khoán contractor
luôn. Làm chỗ này chỗ kia vùng Orange County, Long beach,
Los.... Tôi làm ăn cũng được, mua chung cư cho thuê, nhà ở,
đất nhà... đầu tư... lu bù bây giờ chỉ còn có cái nhà đang
ở ở Santa Ana là trả off, mấy cái kia tiêu hết.
- Cái đất 3 acres có nhà ở Peris họ tịch thu bán short sale
anh nhờ tôi làm đơn mua giùm lúc trước, tới đâu rồi, sao
thấy im lìm...
- Họ bán cho người khác rồi. Người đó qualified hơn anh.
- Anh giỏi thật, đủ nghề, lăn lộn chìm nỗi nhiều phen mà
cũng không khá được. Rõ ràng con người có số. Những người
ở tù CS như mình qua đuợc Mỹ, coi như đã trả xong cộng
nghiệp, tưởng thoát khổ, bắt đầu ăn nên làm ra, coi vậy mà
không phải vậy. Đâu phải ai tới Mỹ cũng thành triệu phú.
Anh chịu khổ tám năm tù, lẽ ra giờ này bù lại phải được
an nhàn phè phỡn, mà tới giờ con cái vẫn chưa thành đạt,
còn phải đi làm. Tôi ở tù ít hơn, qua đây học hành, lao
động, năm chìm bảy nỗi, đôi phen mất job mất nhà, về hưu
mấy năm sau mới trả off cái nhà này, rồi được tiền hưu,
medicare...
- Số tôi cực hơn anh nhiều...
- Mà thôi, so với các dân tộc khác qua Mỹ tìm cơ hội, nhiều
người Mễ vượt biên qua Mỹ đói khát chết khô ở biên giới,
nhiều người Hoa bỏ tiền qua đây đi làm lậu, có bầu, du lịch
đẻ con để lấy quốc tịch Mỹ, người Trung đông qua ở lậu bị
INS sau truy ra có liên hệ quân khủng bố trục xuất về nước,
hay dân Phi châu vượt biên ngang biển Ý đại lợi tới Âu châu
chết chìm liên tục... mình được như vầy là may mắn lắm
rồi.
- Tất nhiên...
- Lại so với bao nhiêu người giờ này còn ở VN, cướp giật,
làm điếm, bán thức ăn độc hại để kiếm lời, bệnh viện bê
bối, giáo dục nhồi sọ, tương lai con cái đen tối, thì mình
còn hơn nhiều, phải không anh Khoa...
- Tất nhiên rồi chứ còn gì nữa...
Phạm Hoàng Chương
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng