Tôi có hai người bạn: Khang và Dũng. Tôi biết
Khang vào một ngày mùa Hạ trong chương tŕnh Chiều Vui Đại Học tại
Sàig̣n. Lúc đó Khang đang là sinh viên Luật khoa. Hiền hoà và ít
nói, Khang thỉnh thoảng đến nhà tôi. Thường chúng tôi gặp nhau ở
quán cóc. Cái thuở tuổi xanh c̣n nhiều ước vọng. Khang nói sau nầy
nhất định phải làm luật sư giỏi. Hầu góp phần thực hiện sự công bằng
cho đời. Nhưng sau ngày 30 tháng 4 chúng tôi mới biết cha của Khang
hoạt động nội thành. Cái kiểu " ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản" ai
mà hiểu được. Từ đó, tôi không c̣n gặp Khang. . .
Với Dũng, chúng tôi thân nhau từ lớp Đệ Thất. Dũng sống với Bà Nội
v́ nhà Dũng ở quê. Những năm cuối của thập niên 60: đất nước, mỗi
gia đ́nh người dân Nam Việt Nam khó khăn lắm. Quê Ngoại Dũng ở Long
An, quê Nội ở tận Xóm Cồn Phan Thiết. Đầu năm Đệ Lục, Dũng nghỉ học
một tuần v́ cha chết trận. Dũng c̣n có một người em gái nhỏ tên Quế
Thi. Từ đó, hằng ngày Dũng đến nhà tôi. Dũng cũng gọi cha tôi là cha
nghe thân thiết.
Tôi là con trai cả trong một gia đ́nh năm con. Cha tôi kể rằng người
nhập ngũ từ khi c̣n rất trẻ. Rồi lần lươt bốn người chú của tôi đều
khoác áo nhà binh: Chú Hai lính Hải quân, chú Ba Biệt Động quân, chú
Tư Pháo binh, chú Năm cùng trường Bộ Binh Thủ Đức với cha tôi sau 4
khoá.
Ông Nội tôi giàu có. Ruộng đất nhiều. Nhưng vốn người ít học. Phải
đem tiền mua chức lư trưởng trong làng. Ông bảo:
- Một miếng giữa đàng bằng một sàng xó bếp. Trong nhà dù mâm cao cỗ
đầy đâu bằng chừng đó danh thơm. "
Ông tôi cứ nhắc đi nhắc lại với các con:
- Cha là người quan trọng trong làng. Sau nầy anh cả (tức cha tôi)
phải quan trọng nhất tỉnh. Làm sao cho thế hệ thứ ba thứ tư của nhà
ḿnh phải quan trọng nhất nước. Con hơn cha nhà có phúc mà!
Cha tôi không nghĩ điều dặn ḍ của Ông tôi là tham vọng. Cha tôi cố
gắng học thật giỏi. Đỗ Tú Tài II, vào Đại Học Sư Phạm. Người nổi
tiếng là Giáo Sư Toán nghiêm khắc và cũng đầy ḷng tận tuỵ với học
tṛ. Nhưng rồi tháng ngày binh lửa cận kề. Cha tôi cũng lên đường
làm bổn phận người trai thời chiến ... Từ Trường Bộ Binh Thủ Đức ra,
người đi về miền cao nguyên đất đỏ, đi khắp bốn vùng chiến thuật. Từ
Qui Nhơn vượt lộ 19 lên Pleiku, xuôi theo đường 14 đi Kontum, Dakto.
Rồi Phước Long, Hạ Lào đến Đồng Xoài, B́nh Giả. Từ Quảng Trị đến bên
nầy cầu Hiền Lương. Từ Long An đến Bến Tre. Hạnh phúc giữa cam go mà
có là cha tôi ở đâu mẹ tôi ở đó. Năm anh em chúng tôi ra đời trong
mọi vùng bom đạn tơi bời ấy: Anh Hùng, Anh Tài, Anh Minh, Anh Kiệt
và lúc em Tố Lan chào đời cha tôi vừa được thăng cấp Đại Uư sau một
trận chiến thập tử nhất sinh. Trận chiến đó kỳ thú nhất trong cuộc
đời quân ngũ của cha v́ được Tác giả Bạch Hạc nhắc lại trong
cuốn"Chiến lược lùng và diệt của Tướng Westmoreland".
Mỗi lần cha từ chiến trường về, Mẹ và chúng tôi vô cùng sung sướng.
Hồi đó, tôi hay đội cái mũ của cha lên đầu. Một tay cầm thước kẻ có
cột chéo chiếc đũa. Nâng súng giả lên giả bộ bắn"pằng, pằng". Cha
tôi cũng giả bộ giảy chết. Mẹ tôi không vui về tṛ chơi đó nên nấu
cơm nhanh để cha con kết thúc cuộc chơi. Cha thường đặt tôi ngồi
trên đùi, dù tôi đă 9 tuổi. Cha hỏi:
- Sau này lớn lên con sẽ làm ǵ?
Tay tôi vân vê ve áo của cha:
- Con làm lính.
Cha tôi nh́n Mẹ cười vui vẻ:
- Em thấy chưa? Lại nghiệp nhà binh! Đúng là giỏ nhà ai quai nhà
nấy!
*
Ngày vui không dài. Tháng 4 năm 1975 như một ṿng tṛn định mệnh
thách thức niềm tin yêu, ḷng thuỷ chung và hy vọng của mỗi gia
đ́nh. Mà mỗi cá nhân đều dường như ở tâm điểm.
Mặc cho ṿng tṛn siết chặt, siết chặt: điên đảo, cuồng quay. Suốt
thời gian trong quân ngũ, cha tôi không có một căn nhà riêng. Dù
"tiền lính, tính liền" nhưng mẹ bảo chưa lần nào thấy cha không vui.
Từ chiến trường trở về cha tôi luôn mang theo nụ cười. Nụ cười tươi
với hàm rămg trắng và đẹp như răng con gái. Cha tôi không biết hút
thuốc! Có lần, quà Sinh nhật Mẹ tôi là một cánh lan rừng sắp héo v́
cha về muộn. Vậy mà vẫn hạnh phúc và rất vui. Mẹ tôi hân hoan:
- Làm vợ lính là thế đó.
Cả năm anh em chúng tôi 11 năm mới tổ chức chung sinh nhật duy nhất
một lần. Một lần thôi. Cha bảo:
- Con lính mà! Chờ thanh b́nh cha sẽ bù lại cho.
Đau đớn thay "ngày thanh b́nh" đến, cha tôi phải xa nhà đằng đẳng
nhiều năm. Bao nhiêu quân trang, quân dụng, huân chương c̣n trong
nhà Mẹ tôi đem cất giấu thật kỹ. Mẹ bảo:
- Nhất định cha sẽ về.
Cùng trại lao động khổ sai, có những bạn tù của cha tôi không chịu
nỗi sơn lam chướng khí nên vĩnh viễn không về. Cũng có những người
được trở về ít lâu sau th́ mất v́ kiệt sức. Trong chiến trận cha tôi
anh dũng, kiêu hùng. Lúc sa cơ, người biết cách luyện khí công, cộng
với nội lực của Đệ Nhất Đẳng Huyền Đai - Việt Vơ Đạo. Người bảo: Tất
cả là thời gian và sức chịu đựng của con người. Tôi tự hào về cha
tôi điểm đó. Tinh thần thượng vơ cũng được bày tỏ qua cung cách sống
của cha tôi - Lúc nào người cần giúp cũng sẵn sàng giúp người. Những
trang nhật kư của cha tôi mà tôi c̣n giữ được đă thực sự khiến ḷng
tôi trân quí và khâm phục.
*
Ngày. . tháng. . .năm. . .
Những tấm không ảnh cho chúng tôi biết nhiều đơn vị địch xâm nhập vô
Nam qua đường Nam Lào. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tổ chức một cuộc hành
quân. Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 42 biệt lập được chỉ định tham gia
cuộc hành quân. Từ sân bay Phượng Hoàng, những chiếc UH 1B đưa chúng
tôi vào trận địa. . . Viên Đại Uư cố vấn nói với tôi như là hỏi:
- Leave at 10 o'clock.
Tôi gật đầu trả lời:
- That 's right.
. . .
Đồi 915 đă xuất hiện phía trái... 15 phút sau, viên phi công cho
giảm cao độ rồi vẽ một ṿng tṛn quanh mục tiêu. Đưa mắt kiểm soát
những thuộc cấp lần chót. Xốc lại dây súng và cầm chặt tấm bản đồ
hành quân trong tay trái, tay phải đập nhẹ vào vai viên phi công
trưởng rồi gào trong tiếng gầm rú của động cơ máy bay:
- We're ready, captain!
Bằng thủ hiệu viên phi công trưởng trả lời:
- OK
Chúng tôi đă đổ quân an toàn trên đồi 915 để hướng về Hạ Lào... Tôi
đă đến với rừng núi Hạ Lào nhiều lần như vậy...
Năm 1966 của những ngày tháng cam go nhưng phỉ chí nam nhi. Tôi đến
Hạ Lào. Đến khu rừng nhiệt đới. Cảnh ở đây đẹp và yên tĩnh. Rừng Dầu
mật, Bằng lăng với hoa tím và cành lá giao nhau, tạo thành những cây
lọng che, không để tia nắng mặt trời lọt được xuống mặt đất ẩm. Vùng
đất này loài tảo không tồn tại... Chỉ có gió dạo khúc nhạc rừng thật
nên thơ...
Vật đổi sao dời. Đời trai chưa thoả chí tang bồng vớI 10 năm chinh
chiến... Tôi lại đến với rừng. Một khu rừng nhiệt đới khác. Cũng
tương tự như rừng của đất Hạ Lào âm u - Rừng Phước Long cùng những
nhọc nhằn của kiếp đoạ đày.
Trại chúng tôi có khoảng 200 tù chính trị. Được "bảo vệ" bằng ba lớp
rào. Mùa mưa chúng tôi "được" sản xuất lương thực. Mùa nắng th́
"được" xây dựng nhà giúp dân vùng kinh tế mới.
Cuộc sống đày ải khổ sai của lao tù Cộng sản đă nhiều làm ngă ḷng
và gây ngờ vực giữa một số anh em bạn tù. Cho nên, dù đồng cảnh
nhưng không đồng tâm. Có lúc phải đồng ư nhưng không một ḷng. Tôi
tự hỏi: Nên tiếp tục cúi đầu chịu đựng hay cần t́m một lối thoát
đây? Ư nghĩ đó làm tôi từng ngày đêm nghe ray rứt... Phải quyết định
thôi! Tôi gợi chuyện cùng một người bạn tù tin cậy nhất. Anh nhiệt
t́nh ủng hộ và hối thúc tiến hành ngay. Sau đó, tôi tuyển thêm một
người nữa. Chúng tôi họp bàn kế hoạch. Khẩu hiệu được chọn là: chuẩn
bị kỹ - thành công. Cả nhóm ba người đều đồng ư ba vấn đề ưu tiên
phải có và xếp theo thứ tự:
1/ Cần có sức khoẻ tốt, bền bỉ.
2/ Phải đủ lương thực cho ba ngày đường.
3/ Phải có ít thuốc ngừa bệnh.
Sau cùng, cả nhóm chọn ngày gặp nhau tại điển hẹn. Hai chữ nguyễn
lộc được tôi viết vào tờ giấy, kẹp ngay ngắn trên nhánh cây rừng...
Ba chúng tôi qú xuống thề:
-Tuyệt đối không phản bội.
- Hết ḷng trong mọi hoàn cảnh.
Thế là lớp vovinam việt vơ đạo khai giảng tại rừng Bù Gia Mập với
một thầy hai tṛ. V́ chương tŕnh đặc huấn trong t́nh huống cấp bách
và bí mật nên môn học gồm có:
- Đ̣n tay: Khoá, gỡ dao, mă tấu, súng, côn.
- Đ̣n chân: từ thấp lên cao.
- Chạy bộ.
Sáu tháng gian khổ tập luyện chóng qua. Một hôm, có tên "chó chết"
bắt gặp chúng tôi đang thao luyện. Sợ lộ, chúng tôi quyết định phải
hành động ngay trong đêm ấy.
*
Cơn mưa rừng thật lớn ập đến như để hổ trợ cho những kẻ khốn cùng:
Chúng tôi vượt trại! Tiếng mưa sao mà thê thiết thế. Tiếng nước chảy
ào ào, xoá mất dấu chân rời xa trại trong đêm mưa gió mịt mùng.
Xin cám ơn cơn mưa. Vĩnh biệt vết chân lưu đày! Xin cám ơn những lời
Vơ Đạo. Xin cảm ơn môn phái đă rèn cho chúng tôi một thể chất rắn
rỏi, một sự chịu đựng như thép. Xin cảm ơn Quân Trường Thủ Đức đă
cho tôi những kiến thức cần thiết của một chiến binh. Nhờ thế, chúng
tôi vượt thoát được ngục tù Cộng sản.
Ngày nay, chúng tôi có mặt trên phần đất của thế giới tự do sau cuộc
hành tŕnh dài nửa ṿng trái đất. Những ngày mưa trên Washington
hiền hoà thường đưa tâm tư tôi trở về vùng rừng núi Hạ Lào hay rừng
Phước Long. Những năm tháng trầm luân theo vận nước, tôi vẫn c̣n
niềm tự hào của một người lính và của một môn sinh vovinam.
***
Tôi lại hồi tưởng. . .
Trong ba năm đầu sau biến cố 30 tháng 4, 1975 phải nói Mẹ và năm anh
em tôi điêu đứng.. Cha tôi không về nhà dù là về thất thường như hồi
ra trận. Cuộc sống ở vùng quê không dễ ǵ quen. Hàng ngày, năm anh
em tôi tự chăm sóc lẫn nhau. Mẹ xới đất và geo trồng. Tôi là anh cả
nên vừa là đầu bếp vừa làm "vú em kiêm quản gia".
Ở nhà vất vả. Tới trường khó khăn. V́ là con của Sĩ quan "nguỵ". Dù
vậy, chúng tôi đều được đi học. Có hôm tan trường về thấy bé Tố Lan
ngồi chơi chung với mấy chú heo con. Tôi thật muốn khóc mà không
khóc được. Tuổi thơ của em gái tôi không có búp bê. Không có thú
nhồi bông. Không có kẹo chocolate. Không có các bạn nhỏ để cùng chơi
c̣ chập, ô quan, nhảy dây, bày bán hàng. Tuổi thơ của anh em tôi
không có những cánh diều bay trong gió chiều thôn dă. Không có sân
để đá bóng. Lây lất rồi cũng qua. . . .
Bảy năm!
Bảy năm là chớp mắt,
Ôi! Mai mỉa làm sao!
Cha c̣n ǵ để mất?
Ngoài một trái tim đau.
**
Vợ hiền giờ xơ xác,
Con thơ nheo nhóc buồn
Gặp nhau rơi nước mắt,
Vận nước, nhà: tang thương!
**
Từ trại tù về, cha tôi đi Long An chăn vịt.
Mỗi ngày, khi chiều xuống, dùng một cây sào dài lùa vịt băng ngang
qua cánh đồng lúa vừa mới gặt. Gót giày sô từng xông pha chiến trận
th́ những vết cứa từ gốc rạ có đáng ǵ đâu!
Sau này, cha tôi kể:
- Chăn vịt cực mà vui. Mỗi lần nh́n đàn vịt di động, lố nhố như lượn
sóng trắng nhấp nhô cha thấy nhớ trường lớp. Nhớ bảng đen phấn
trắng. Nhớ những buổi tan trường . Và... tưởng tượng đó là đám học
tṛ ḿnh. . .
Năm 1987 tôi vượt biên bằng đường bộ. Sang Thái Lan, đi Philipine
rồi đến Mỹ.
Một ḿnh tôi. Tuổi đời chưa đủ lớn. Đến vùng đất lạ. Lạ cảnh, lạ
người. Không cùng ngôn ngữ, tập quán.
Tôi đă sống trong ơn lành của Thượng Đế: vừa đi học vừa đi làm. Năm
năm sau nữa, cả nhà đoàn tụ. Dù tuổi ngoài năm mươi, cha tôi vẫn
khát khao và quyết định đi học.
Mẹ tôi hơi lo:
-Học ba, bốn năm ra trường. Anh sẽ làm ǵ với bằng cấp đó? Anh tính
lại đi anh.
Cha tôi cười khiêm hoà:
- Anh biết! Anh không phải là giáo sư trực tiếp dạy ngôn ngữ văn
minh nước Mỹ hay định hướng tương lai cho các con. Nhưng anh muốn
nêu gương hiếu học cho các con noi theo. Em à, dù ở tuổi nào, sự học
vẫn luôn cần thiết! Hồi trước, cha anh giàu ngang, nhưng xuất thân
từ ḍng tộc nghèo nên thiếu chữ. Đời anh sương gió cũng nhiều. V́
chiến tranh, đường học vấn gần 20 năm gián đoạn. Cám ơn Thượng Đế là
qua những năm lao tù, Cộng Sản không thể nhuộm đen hay "tẩy năo" anh
được. Con tim có vết hằn nhớ đời nhưng khối óc c̣n tốt mà.
Ba năm sau. Nh́n tấm ảnh cha ngày ra trường, Mẹ tôi nói như trách
yêu:
- Gớm! Nh́n xem! Mặt tṛn quay lại cười tớn tởn và tươi như bông
nylon ấy.
Thoáng chút buồn Mẹ tôi nhớ lại mấy năm cơ cực lo cho chồng, cho con
khi chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ. Về sau, cả năm anh em chúng tôi
đều bước chân xuống cuộc đời từ thềm Đại Học. Người vui vẻ nhất là
cha tôi. C̣n chúng tôi, chúng tôi hiểu cha tôi thật là người cha
toàn hảo. Nói như thế có quá đáng chăng? Nếu người đă từng là một
nhà giáo nổi tiếng trong học đường. Một vị Sĩ Quan chỉ huy tài ba
ngoài trận mạc. Một vơ sinh xuất sắc ở vơ đường. Một sinh viên già
nhất trong lớp của trường Đại Học Mỹ giữa Cộng Đồng người Việt.
Cha thật là niềm tự hào của chúng tôi. Cảm tạ Thượng Đế v́ Ngài cho
cha tôi từ chiến trường trở về nguyên vẹn. Từ trại tù trở về b́nh
yên. Ǵn giữ và dẫn đưa cả gia đ́nh tôi đến vùng đất tự do.
Ngày nay, cận kề với tuổi "thất thập cổ lai hi" cha tôi vẫn c̣n nét
cương nghị trong tia nh́n, quắc thước trong dáng vẻ. Vẫn phong cách
sống b́nh lặng: thương người, yêu lư tưởng cuộc sống. Trong sinh
hoạt cộng đồng, cha tôi không nổi bật nhưng người luôn luôn t́m cách
dự phần những khi cấp thiết. Cả năm anh em tôi đều khẳng định: Cha
là niềm tự hào của chúng tôi.
HOÀNG YẾN
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng