Phạm Tín An Ninh
Thời học trung học, tôi có người bạn thân, không những tướng tá mà
cả cái tên cũng đẹp: Phan Ái Minh. Hai đứa học chung trường. Minh
học Ban B và trước tôi một lớp, c̣n tôi dốt toán nên học Ban C. V́
vậy mà bạn c̣n là “ông thầy” kèm toán cho tôi. Nhà Minh ở trên Thành
(Diên Khánh), cách thành phố Nha Trang, nơi có ngôi trường Vơ Tánh
của bọn tôi hơn mười cây số. Minh cùng người anh thuê căn nhà nhỏ
trong một con hẻm ở gần đ́nh Phương Sài để trọ học. Mỗi chiều Thứ
Sáu, sau khi tan trường, hai anh em đạp xe về thăm nhà đến chiều Chủ
Nhật lại ca bài đường trường xa trở lại Nha Trang, mang theo thức ăn
cho một tuần sau đó. Tôi cũng từ một vùng quê khác vào Nha Trang
học, ở nhà ông chú, một tiệm buôn giữa trung tâm thành phố. Để tránh
ồn ào và khỏi bị sai vặt, tôi thường đạp xe lên nhà Minh vừa chơi
vừa học. Có khi tôi ngủ lại hoặc cuối tuần theo anh em Minh về thăm
quê bên kia Cổ Thành Diên Khánh.
Minh luôn hănh diện khoe với bọn tôi về quê hương “Cổ Thành”. Anh
thường gọi đó là “la Citadelle” và gần như thuộc ḷng sử tích: “được
chúa Nguyễn Phúc Ánh xây từ thế kỷ 17 và lần lượt do các ông Nguyễn
Văn Thành và Vơ Tánh trấn thủ. Vơ Tánh là một dũng tướng bất khuất,
sau này đă tự thiêu tuẫn tiết trước khi thành B́nh Định lọt vào tay
tướng Trần Quang Diệu của Tây Sơn. Có lẽ v́ vậy mà ngôi trường trung
học lớn nhất miền duyên hải của chúng ta mang tên Vơ Tánh, để nêu
gương sĩ khí cho đám học tṛ.” Minh c̣n đọc đi đọc lại bài thơ của
công chúa Ngọc Du khóc phu quân tướng công Vơ Tánh, làm bọn tôi
thuộc nằm ḷng cho đến măi bây giờ:
Những tưởng ra tay giúp nước nhà
Ai dè binh địa nổi phong ba.
Xót người vị quốc liều thân ngọc,
Khiến thiếp cô pḥng ủ mặt hoa.
Gối mộng mơ màng duyên nợ cũ,
Đài mây xiêu lạc phách hồn xa.
Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt,
Nóng ruột thuyền quyên giọt lệ sa!
Có lẽ chính quê hương Cổ Thành và h́nh ảnh dũng tướng Vơ Tánh in rất
đậm trong trí óc và tâm hồn Minh từ thuở ấu thơ, đă hun đúc trong
Minh một mẫu người lư tưởng sau này.
Vào những mùa thi, căn nhà trọ khá oi bức và đèn điện không đủ sáng,
bọn tôi thường rủ nhau đạp xe xuống bờ biển, nơi có các trụ đèn tỏa
sáng, vừa học bài vừa nh́n biển trời mênh mông mà xây mộng tương
lai. Có lần Minh bảo“ sau này nhất định tao sẽ chọn binh nghiệp để
đọ sức cùng nắng mưa và tha hồ xông pha trận mạc”. Tôi cười đùa:
“Mày nói hay như đang hát tuồng Thuyền Ra Cửa Biển!” (lúc ấy gánh
hát Thanh Minh Thanh Nga đang diễn vở tuồng này tại rạp Minh Châu -
Nha Trang)
Là bạn, nhưng dường như tất cả mọi thứ trên đời ông trời đă dành cho
Minh nhiều hơn tôi: đẹp trai hơn, to con hơn, vơ nghệ, đàn hát và
nhất là học hành cũng giỏi hơn. Chơi đàn và đọc sách là hai món tiêu
khiển của Minh. Anh đọc rất nhiều sách, từ truyện Tam Quốc Chí đến
Đệ Nhi Thế Chiến, từ các sách nghiên cứu Khoa Học đến Thiên Văn Học.
Trí nhớ của Minh rất tốt, anh nhớ từng chi tiết và làm bọn tôi mê
mẩn mỗi lần ngồi nghe anh kể lại. Ngoài ra Minh rất tư cách, tính
t́nh bộc trực, thẳng thắn. Một lần có tay “anh chị” ở đầu hẻm hiểu
lầm, tưởng tôi làm ngă cái xe gắn máy của y, lớn tiêng ăn hiếp, Minh
bênh vực tôi, ôn tồn nói điều phải trái, nhưng gă kia hung hăn ra
tay trước, Minh không đánh lại, chỉ đỡ vài đ̣n mà hắn đă té nhào
không đứng lên được. Minh đưa tay kéo hắn lên và phủi bụi đất bám
trên mặt hắn. Thấy Minh vơ nghệ cao cường, có khí phách và ḷng hào
hiệp, hắn ta phục, bắt tay xin làm bạn, đăi bọn tôi một chầu phở Hợp
Lợi. Sau lần ấy, tôi mới biết bạn tôi “văn vơ song toàn”.
Cứ đến mùa Hè, tôi đạp xe lên quê Minh ở chơi một vài tuần. Nhà Minh
ở gần con sông chảy uốn khúc qua một vài khu xóm làng và ruộng đồng
tĩnh mịch. Ban đêm, tôi theo Minh và đám bạn bè, ra cắm lều, đàn
hát, câu cá và ngủ lại bên bờ sông. Khung cảnh êm đềm thơ mộng. Đêm
mùa Hè, trời trong vắt, bọn tôi thường đua nhau đếm thử có bao nhiêu
v́ sao, t́m trong các dải ngân hà, xem nơi nào có cái cầu Ô Thước
của Ngưu Lang Chức Nữ. Minh biết tên khá nhiều các ngôi sao, và lúc
ấy Minh đă dạy bọn tôi biết cách nh́n sao trời để định hướng và dự
đoán cả thời tiết nữa. Minh c̣n giải thích về các thiên hà, tinh tú
trong vũ trụ mênh mông, có những v́ sao mang cái tên kèm theo một
huyền thoại, rồi kể cho bọn tôi nghe truyện Les Étoiles của nhà văn
Alphonse Daudet mà thầy Cung Giũ Nguyên có nói qua trong giờ Văn Học
Sử Pháp. Có những v́ sao sáng lấp lánh, bọn tôi đua nhau giành lấy.
Ai “xí” được ngôi sao nào lóe lên trước nhất sẽ được đặt tên ḿnh và
tên một cô bạn học tṛ đă từng khuấy động trái tim. Trong bọn, Minh
là người t́m được cho ḿnh nhiều ngôi sao nhất. Nhưng có một điều
lạ, là ngôi sao nào anh giành được và đặt tên ḿnh, đều lóe sáng
lên, nhấp nháy vài lần rồi bỗng dưng vụt tắt, biến mất trên bầu
trời, giữa hằng hà tinh tú khác. Nằm chờ măi không thấy hiện lên,
Minh bèn phân tích hiện tượng này, nhưng rồi cả anh và bọn tôi đều
xuưt xoa nuối tiếc.
Ngày ấy, chúng tôi đều con nhà nghèo lo đi học, chưa có người yêu và
cũng không dám mơ tưởng tới chuyện yêu đương, nhưng dường như trong
trái tim khờ khạo của đứa nào cũng phảng phất bóng h́nh một cô bạn
học tṛ cùng lớp hoặc chung trường. Trong những lần tâm t́nh, hay
lúc đặt tên cho những v́ sao, Minh cũng thường nhắc tên một cô học
tṛ cùng quê, học sau Minh hai lớp. Cô bé có làn da trắng, đôi môi
mọng đỏ, hiền hậu dễ thương, mà bọn tôi đă gặp một đôi lần.
Xong tú tài, đang học ở Đại Học Khoa Học Sài G̣n th́ Minh t́nh
nguyện vào Khóa 20 Vơ Bị. Con đường vơ nghiệp mà Minh đă từng nhiều
lần tâm t́nh với đám bạn bè là anh sẽ chọn, mặc dù với khả năng, anh
c̣n có thể tiến xa trên đường học vấn. Bạn bè có người khuyên Minh
vào Trường Hải Quân ở ngay Nha Trang để được gần nhà và sau này
trong các chuyến hải hành tha hồ ngắm sao trời mà đặt tên cho người
t́nh trong mộng. Nhưng Minh nhất quyết chọn Trường Vơ Bị. Lúc ấy tôi
thầm nghĩ, một người có khả năng, phong độ và tư cách như Minh, lại
được đào tạo bởi một quân trường danh tiếng, chắc chắn sẽ trở thành
một sĩ quan, một cấp chỉ huy đảm lược và mẫu mực sau này.
Đúng vào một ngày Giáng Sinh, đám bạn bè chúng tôi tiễn Minh lên Đà
Lạt. Cùng nhập học Khóa 20VB với Minh c̣n có một số các anh cựu học
sinh xuất sắc khác của trường Vơ Tánh: Phạm Cang, Hoàng Văn An, Hồ
Đắc Tùng, Cao Đ́nh Phú, Quách Giám, Vơ Anh Tuấn, Nguyễn Công Lắm vv.
Chia tay Minh, bọn tôi cũng mỗi thằng mỗi ngă. Sau đó hơn tám tháng,
tôi và hai thằng bạn khác vào quân trường Thủ Đức.
Những ngày đầu năm 1965, khi chúng tôi đang thực tập hành quân tại
băi tập bên bờ sông Đồng Nai, th́ nghe các sĩ quan cán bộ và anh em
SVSQ bàn tán về trận chiến B́nh Giă rất khốc liệt. Tiểu Đoàn 30, 33
BĐQ và nhất là Tiểu Đoàn 4 TQLC bị tổn thất rất nặng nề. Cả tiểu
đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, y sĩ trưởng và gần 20 sĩ quan khác đă hy
sinh. Chúng tôi bàng hoàng khi biết được trong số các sĩ quan tử
trận có ba thiếu úy tân khoa vừa mới tốt nhiệp Khóa 19VB Đà Lạt, 1
BĐQ (Nguyễn Thái Quan) và 2 TQLC (Vơ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng).
Họ đă hy sinh ngay trong trận đánh đầu đời, chỉ sau hơn hai tuần
tŕnh diện đơn vị. Đặc biệt trong số này có vị thủ khoa Vơ Thành
Kháng. Người sĩ quan tân khoa ưu tú đă bắn bốn mũi tên đi bốn phương
trời trong ngày lễ ra trường, và mang theo rất nhiều hào quang cho
con đường binh nghiệp. Bọn tôi không ai quen biết anh Vơ Thành Kháng
cũng như các anh cùng khóa 19 VB vừa tử trận, nhưng tất cả đều ngậm
ngùi tiếc thương những sĩ quan rất trẻ, chọn binh nghiệp bảo vệ
giang sơn, nhưng vừa được đào tạo văn vơ song toàn mà đă hy sinh khi
chưa kịp thi thố tài năng, chưa có cơ hội để “đem hết sở tồn làm sở
dụng”, mà nếu c̣n sống chắc chắn sẽ trở thành những cấp chỉ huy tài
giỏi sau này. Khi ấy, bỗng dưng tôi nhớ tới Phan Ái Minh, người bạn
thân tài hoa của tôi đang theo học Khóa 20 Đà Lạt, và tất nhiên cũng
thoáng một chút âu lo cho số phận của chính ḿnh. Cuộc chiến đang có
dấu hiệu bắt đầu khốc liệt.
Một sự kiện trùng hợp đặc biệt khác làm tôi không thể nào quên.
Người kể cho chúng tôi nghe chi tiết trận B́nh Giă và danh tánh các
sĩ quan hy sinh trong trận chiến khốc liệt này là anh Dương Văn
Chánh, người bạn cùng trung đội SVSQ Thủ Đức với tôi. Nhờ có người
thân quen ở TQLC nên anh biết rơ từng chi tiết một. Chánh đang học ở
đại học luật khoa th́ nhận lệnh động viên. Tướng tá phong trần, nước
da sạm đen, giọng nói khàn khàn, đôi mắt sáng, tính t́nh hiền lành
và trầm ngâm, ít nói. Ra trường, anh là một trong số rất ít (h́nh
như chỉ có bốn người) được chọn về binh chủng Nhảy Dù. Sau ngày măn
khóa, khi chúng tôi đă ra đơn vị và tham dự nhiều cuộc hành quân,
th́ Dương Văn Chánh vẫn c̣n đang học nhảy dù. Vậy mà đến giữa tháng
6/65, tôi bất ngờ được tin Chánh vừa hy sinh trong trận Đồng Xoài.
Có lẽ đó cũng là trận đánh đầu đời của Chánh. Và cũng khi ấy, chúng
tôi mới biết Chánh được bổ sung về Tiểu Đoàn 7 thuộc Chiến Đoàn 2 ND
mà vị Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Trương Quang Ân, là anh rể của
Chánh. (Ba năm sau ông là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn của tôi).
Là một sĩ quan trừ bị, khi bước chân vào quân trường, Chánh không
phải là người chọn binh nghiệp, nhưng với một người có nhiều khả
năng và cá tính như Chánh, nhất định phải là một người lính can
trường, được hầu hết bạn bè cùng khóa kỳ vọng trở thành một cấp chỉ
huy tài giỏi sau này, nhưng anh đă hy sinh quá sớm. Cái chết của
Chánh làm tôi lại nhớ đến bầu trời tuổi thơ ngày xưa của bọn tôi ở
quê Minh, bên kia Cổ Thành Diên Khánh và mơ hồ như nh́n thấy một v́
sao nữa vừa mới lóe lên rồi vụt tắt!
Khi đang hành quân ở Phú Yên, tôi nhận được thư Minh báo tin anh
chuẩn bị làm lễ ra trường. Minh bảo sẽ cố gắng để được đi Nhày Dù
hay TQLC, c̣n nếu ra Bộ Binh th́ sẽ chọn về Sư Đoàn 23 để được gần
tôi cùng một số bạn bè khác cho vui.
Tôi vào quân trường Thủ Đức sau hơn nửa năm nhưng lại ra đơn vị
trước Minh. V́ thời gian học ở Vơ Bị lúc ấy gấp ba lần ở Thủ Đức.
Hơn nữa, đặc biệt so với các khóa trước, Khóa 20 VB, sau khi tốt
nghiệp,c̣n phải theo học khóa Rừng Núi Śnh Lầy tại TTHL/ BĐQ Dục Mỹ
thêm 42 ngày.
Khoảng đầu tháng 2 năm 1966, h́nh như ngay sau Tết nguyên đán, tôi
rất vui mừng được tin Minh bổ sung về cùng Trung Đoàn với tôi. Minh
về Tiểu Đoàn 4, c̣n tôi đang ở Tiểu Đoàn 3. Lúc ấy, đơn vị tôi đang
hành quân ở Di Linh (Lâm Đồng) c̣n tiểu đoàn của Minh th́ hành quân
ở Lạc An (Khánh Ḥa). Hai đứa hẹn gặp nhau sau cuộc hành quân, uống
một chầu mừng cho cuộc trùng phùng. Nhưng rồi cuộc hẹn đă không
thành và tôi không bao giờ có cơ hội để được gặp lại Minh, người bạn
đa tài mà tôi hằng mến mộ cả một thời đi học.
Cuộc hành quân dài hạn ở Di Linh vừa kết thúc, tiểu đoàn tôi không
trở lại Nha Trang như dự trù mà lại nhận lệnh di chuyển đến Phan
Thiết, tăng phái cho TK B́nh Thuận, phối họp với một đơn vị Thiết Kỵ
của Hoa Kỳ, hành quân giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong. Một mât khu
rộng lớn và địa thế hiểm trở bị Cộng quân chiếm cứ khá lâu. Tại
tuyến xuất phát, tôi được anh sĩ quan truyền tin Tiểu Đoàn, cùng quê
với Minh, cho biết Phan Ái Minh đă hy sinh tại Lạc An trước đó hai
ngày, khi đang điều động trung đội tiến chiếm mục tiêu. Tôi bàng
hoàng, xót xa khi vừa mất một người bạn mà ḿnh hằng mến phục, quân
đội cũng vừa mất đi một sĩ quan ưu tú, mà nếu c̣n sống chắc chắn sẽ
trở thành một cấp chỉ huy tài giỏi sau này. Tôi mang h́nh ảnh của
Minh theo suốt cuộc hành quân cam go hôm ấy. Cuộc hành quân kết thúc
toàn thắng. Tôi nghĩ, có thể h́nh ảnh của Minh đă tạo thêm sức mạnh
cho tôi để đơn vị tôi có được chiến thắng vẻ vang này.
Mấy đêm liền sau đó, tôi nằm trằn trọc nghĩ tới Minh, nhớ lại bao
nhiêu kỷ niệm vui buồn. Nhớ những đêm cùng Minh và đám bạn bè nằm
bên bờ con sông quê dưới bầu trời lung linh những v́ sao, mầu nhiệm.
Bỗng tôi giật ḿnh khi nghĩ tới một điều kỳ lạ: các v́ sao mà Minh
đă chọn để đặt tên ḿnh, tất cả chỉ vừa lóe sáng lên rồi vụt tắt. Và
nhớ tới người con gái nào đó, được Minh trầm trồ tha thiết đặt tên,
không biết nếu nghe được câu chuyện thơ mộng này ḷng cô có nhiều
xúc động? Tôi (và chắc có cả Minh nữa) thầm cầu mong cho cô được
tṛn hạnh phúc sau này.
Khóa 20VB được bổ sung về đơn vị tôi c̣n có các anh Vũ Phúc Sinh,
Hoàng Văn An, Cao Đ́nh Phú, Bùi Hữu Kiệt, Dương Đ́nh Chính, Hồ Đắc
Tùng, sau này đều là những cấp chỉ huy giỏi. Anh Vũ Phúc Sinh, người
cùng về TĐ 4 với Minh, đă được đặc cách lên trung úy chỉ 9 tháng sau
ngày ra đơn vị, Anh Hoàng Văn An là sĩ quan đẹp trai nhất Trung
Đoàn, tính t́nh vui vẻ, cương trực, được mọi người từ quan tới lính
yêu thương. Rất tiếc là các anh đă thuyên chuyển, rời khỏi đơn vị
khá sớm, sau khi nắm đại đội và đánh thắng vài trận, để lại bao
luyến thương và tiếc nuối cho tất cả mọi người. Dương Đ́nh Chính đă
tử trận (mất tích) tại chiến trường Kontum đầu năm 1973, khi vừa lên
nắm Tiểu Đoàn 1. Bùi Hữu Kiệt thuyên chuyển về TK Ninh Thuận, nắm
một tiểu đoàn ĐPQ và hy sinh tại B́nh Định cuối năm 1972 khi dắt
tiểu đoàn tăng cường cho mặt trận này. Người cuối cùng c̣n ở lại đơn
vị là anh Hồ Đắc Tùng, sau này là một tiểu đoàn trưởng đă đóng góp
nhiều chiến công trong chiến thắng Kontum mùa Hè 1972.
Khóa 20 VB đă có rất nhiều cấp chỉ huy lỗi lạc ở các quân, binh
chủng, làm rạng danh quân lực. Một số đă thăng tiến rất nhanh, giữ
các chức vụ trung đoàn trưởng BB, liên đoàn phó BĐQ. Sau này khi
biết được một số trong những tên tuổi của Khóa 20 VB từng nổi danh
trên các chiến trường: các anh Hoàng Măo, Lại Thế Thiết, Huỳnh Bá
An, Vương Mộng Long, Phạm Cang, Quách Vĩnh Trường, Nguyễn Thái Bửu,
Trương Phúc, Đoàn Minh Phương, Trương Dưỡng, Nguyễn Văn Măng, Phạm
Văn Tiền…tôi luôn nghĩ đến Phan Ái Minh, người bạn đa tài của tôi,
và nhớ tới những v́ sao sớm vụt tắt trên bầu trời tuổi thơ của chúng
tôi thuở trước.
Phạm Tín An Ninh
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng