Lam Hà
LTS: Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uư, cựu Học Sinh TH Phan Chu
Trinh Đà Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư
Lệnh QĐ1/QK 1 /VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Kư của một Tuỳ Viên
Tưởng Ngô Quang Truởng.
Hôm nay, ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá
Đặng văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng
Không Đoàn 51, và chính ông là người đă nhận tín hiệu cuả tôi qua
cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đă can đảm đáp xuống cột cờ
BTL/HQVI Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân
Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29
tháng 3 năm 1975.
Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Chà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư
Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh
em Thủy Quân Lục chiến Việt Nam.
Tôi muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến binh chuyên
nghiệp khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của Tiến Sĩ
Lê Mạnh Hùng đă đăng trong tuần báo Viet Tide cuả ông Vũ quang Ninh
(chủ nhiệm) và cô Mai Khanh (chủ bút).
Là người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những
người có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng, xin
diễn đạt vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con cháu
biết sự thật là tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đă chiến
đấu như thế nào.
Bài báo đă đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)
Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đă bị phớt lờ.
Chúng tôi, những người đă tận t́nh phục vụ quê hương xứ sở, quên cả
thân ḿnh, cha mẹ, vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đă làm hết khả
năng và bổn phận của người quân nhân trong cuộc chiến, rất buồn ḷng
khi bị đánh giá sai sự thật.
Hôm nay, giờ này, khi tôi đang viết những ḍng chữ nầy th́ có nhiều
người đă ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có nhiều người
đang chịu trăm cay ngh́n đắng trong khắp bốn phương trời ở xứ người.
Trong lúc đó những ngựi bạn cũ cũng như quân thù đă t́m cách bôi
nhọ, hay đổ tội cho QLVNCH , để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che
dấu mặc cảm phản bội đồng minh.
Ba câu hỏi của tôi không được trả lời th́ bây giờ tôi cũng xin được
nói lên để mọi người cùng biết:
1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đă theo sát Tư Lệnh Quân Đoàn I
cho đến ngày ra khỏi nước.
2. Tương quan lực lượng đôi bên.
2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:
Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng gồm :
- Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,
- Một Trung đoàn chiến xa,
- Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.
Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.
-Một nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu
Kỹ Nghệ An Ḥa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam
Đà Nẵng.
Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.
Tôi nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng
phái và thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi biết dân
biểu Phước (cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là Phước
Lít), Giáo sư Trần ngọc Quế( giáo sư trường Phan chu Trinh và là một
thành viên cuả một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh
Quân Đoàn có biện pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa
pháo như ḷng chảo Điện Biên Phủ.
Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như
- Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải
chúng đang ở sau lưng những nổ lưc chính không?
Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên v́ QĐ II đă
mất trước rồi.
2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:
- Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (v́ Lữ Đoàn 147 xem như đă xoá sổ
ở phía bắc đèo Hải Vân).
- Không Quân th́ tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham
Mưu.
- Pháo binh c̣n vài khẩu.
- Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.
- Sư Đoàn Dù th́ đă hoàn toàn rút về Nam.
Quân thất trận đi t́m gia đ́nh, dân lánh nạn từ phía Bắc và phiá Nam
đổ về Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. B́nh thường Đà Nẵng chỉ có
khoảng 300,000 dân. Người đi đứng chật đường không thể chen chân
được; dĩ nhiên trong số hổn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền sát
viên pháo binh Cộng Sản..
Đến đây th́ Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đă thấy được quân
số tham chiến đôi bên.
Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:
- Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh các lực
lượng ở Huế rút về ĐN.
- Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng dọc theo
bờ biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau
di chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa
Thiên. Kế đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng th́ chạy lẫn lộn trong
đoàn quân và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đ́nh quân nhân.
Trông thảm thương như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dă chạy về Diễn Châu
trong chuyện Tam Quốc Chí.
Trung Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng nói chuyện
với Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được biết qua
Trung Tâm hành Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền th́ tan tác v́
không qua được cửa Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lănh công tác
đánh đắm một chiếc tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi
họp trước đó tại BTL/QĐI, nhưng họ đă không thực hiện được
Thêm nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và
ĐPQ/NQ về đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng trong
hổn loạn để lo đi t́m gia đ́nh nên không c̣n kiểm soát được.
Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc đèo Hải Vân.
Trong ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ
Đoàn đă chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch
bắt.
Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đă mất.
T́nh h́nh phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém ǵ Huế.
Ngày 10 tháng 3 th́ hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi
Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của VC.
Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày
nầy Tiểu khu Quảng Ngăi rút về Chu Lai.
Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2 rút ra Cú Lao Ré. Thành phố Đà Nẵng lên
cơn sốt hổn loạn. Cướp bóc đă xảy ra tại kho gạo gần thương cảng.
Sáng ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các cấp chỉ huy
để t́m biện pháp văn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị có
mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được v́ không đủ
quân số tác chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đă bỏ pḥng sở để
đi lo chuyện gia đ́nh. Tôi thấy chỉ có văn pḥng Tư Lệnh c̣n làm
việc c̣n tất cả pḥng ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.
Vào khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng Nam xem như
mất liên lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi khu Hoà Vang
rồi phải trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Ḥa Vang ở sát phi trường Đà Nẵng.
Như vậy QĐI chỉ c̣n lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường chưa bị VC
chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để pḥng thủ Đà Nẵng chỉ c̣n Sư Đoàn 3 và 3 Lữ
Đoàn TQLC mà thôi
Trong suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn thường gặp
và đặt giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu khi ấy
chúng ta tử thủ Đà Nẵng th́ chúng ta có giữ được không? Và việc ǵ
sẽ xăy ra.?
Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.
Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3.
Sư Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả SĐ1 BB cùng
với quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân văn pḥng, quân phạm, hay
bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư Đoàn nầy ra trấn ải địa
đầu giời tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy làng” khi VC ồ ạt tràn
quavùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân ta . Ai giỏi hơn ai
để không “chạy làng”?
Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, th́ lực lượng cuả họ gồm
- Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ
- Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.
- Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,
- Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.
Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoản 1,500 quân
nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.
Hoả lực cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH không
địch nổi. Họ có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất một
sư đoàn là rung chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả
250 triệu người yểm trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo
Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam th́ một hồi
chánh viên nói cho biết rằng các đơn vị VC rất sợ đụng trận với Mỹ.
Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải
vậy không th́ anh ta trả lời rằng không phải vậy - Chúng tôi ít sợ
các anh v́ các anh bắn ít hơn nhiều, c̣n Mỹ th́ họ bắn như mưa. Anh
xem các cây trong làng, có cây nào không đầy vết đạn chằng chịt. Thế
nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa Kỳ, tăng phái cho Sư
Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận
pháo kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui cộng sản mấy tháng trời.
Đám quân sinh Bắc tử Nam c̣n dám tấn công các đơn vị Mỹ ở vùng phi
quân sự như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống ǵ một Sư Đoàn tân lập như
Sư Đoàn 3?
Những ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn 3, th́ Sư Đ̣an
/ TQLC / VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đă bị hi sinh ngăn
chận địch và không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.
Tổng Thống Thiệu đă đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng là nếu rút,
th́ rút được bao nhiêu quân? . Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn Dù, Sư
Đoàn /TQLC để có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả VNCH.
Lữ Đoàn I Dù c̣n lại sau cùng chỉ được dùng để ứng chiến nhằm nâng
cao tinh thần quân dân mà không được phép xử dụng tác chiến. Sư Đoàn
/ TQLC cũng vậy; phải làm sao rút được về Sài G̣n.
Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng đêm 28 tháng 3 tại BTL /
Hải Quân/ VIDH th́ chỉ được biết bất ngờ là phải rút về vùng Horse
Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư Đoàn 3.
Phương tiện và t́nh thế chỉ có thể lo cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị mà
thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả Đại Tá Phạm Bá Hoa trong
“Đôi Ḍng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào khuyên đừng đánh cả.
Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng chỉ muốn bảo toàn
lực lượng để lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo cho
hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đă bị làm con chốt thí.
Trong quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng Sản Trung
Hoa ồ ạt tấn công th́ quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá Nam. Sư
Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui . Sư
Đoàn nầy đă chiến đấu oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt:
hơn 800 Sĩ Quan và nhiều ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu
và rút sau cùng.
Sư Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có quân bạn
gíúp đở, để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đă
phải tứ bề thọ địch.
Hơn nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC / Hoa Kỳ không bỏ
rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ rơi. Các bạn (
Sư Đoàn 3) đă chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh nghiệt ngă.
Xin đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đă nằm xuồng, hoặc
đang quằn quoại đau thương tại quê hương Quảng Đà.
Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:
Sáng sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ biển để lội
lên tàu. Ngoài TQLC ra, tôi đếm BB có khoảng 13 người: Tr/T Trưởng,
Tôi , Đại Tá Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng
Quảng Trị), Trung Tá Tuân (Pḥng 3 QĐI) và mấy người nữa tôi không
nhớ tên.
Tôi đi ḷng ṿng để t́m một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng không t́m
được. Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng
cái mũ sắt. Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi
đến đâu th́ những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.
Tôi gặp thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng cho Tr/T
Trưởng, và ông la to,
” Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”
Ông hỏi: “ Mầy có đi th́ lên đi với tao.”
“Không,” tôi trả lời”
Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”
“ không, tao không có.
Mầy có đi không?” Ông lại hỏi
” Không, tôi c̣n phải lo cho Tr/T Trưởng ” tôi trả lời.
Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.
Tôi trở lại t́m TR/T Trưởng th́ thấy Thiếu Tá Phương (TQLC) đă
nhường cái phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết
lội. Đại Tá Trí kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên th́ Th/T Phương
kẹp. Tôi vớ một khúc gỗ cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một
tay tôi nắm thắt lưng TR/T Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và
cả ba chúng tôi d́u ông lội ra tàu.
Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ tôi bị
ch́m lĩm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu th́ lên được tàu.
Sau khi lên đến nơi th́ TR/T Truởng mê sảng và tôi cũng ngất đi một
khoảng thời gian dài v́ một phần đói, một phần uống nhiều nước mặn
khi sóng phủ, một phần v́ quá mệt.
Theo Trung Uư B́nh, Hạm Phó LST 404, th́ Tr/T Trưởng đă nói trong
lúc mê sảng:
”Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm ǵ?”
“Làm như vậy th́ làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”
Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng th́ chúng tôi nhận được
lệnh Tổng Thống Thiệu phải tái chiếm ĐN.
“Bây giờ tôi đi với ai và lấy ǵ để tái chiếm.”
Tr/T Trưởng nói một ḿnh và ông ra lịnh cho HạmTrưởng đưa ông và
TQLC xuôi Nam.
Trên đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh , mỗi bữa hai người
chia nhau nửa muỗng cơm và nữa muỗng nước của anh em hải quân nhịn
miệng để dành cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống. Theo
anh em HQ cho biết tàu vừa xong công tác và trên đường về bến th́
nhận được lệnh quay trở ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có tái
tiếp tế
Về đến Sá G̣n th́ Tr/T Trưởng đă kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y
Viện Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đă khóc khi tôi đứng
bên giường bệnh cuả ông, và ông đă than thở rằng: “Nhờ trời giúp tôi
với Ḥa mới vào được tới đây.”
C̣n nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào thuân tiện
tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi xin thưa
rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn Tiến
Hưng vừa mới phát hành có đề cập đến Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở
Huế là không đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do
một Thiếu Úy chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và
tôi đă toát mồ hôi hột v́ sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại
đơn vị cấp Sư Đoàn tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết,
th́ không thể nào có thể xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất
nhất cuả Tổng Thống Thiệu th́ có và đúng “solid 100%”. Tôi c̣n vài
tài liệu để chứng minh điều này.
Ngày tháng qua đi, qua đi…Mọi sự rồi cũng chẳng c̣n ǵ cả. Tổng
Thống Thiệu đă ra đi, Đại Tướng Viên đă ra đi, vị tướng tài ba và
đức độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của ḷng tôi kính mến cũng đă
ra người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như Chuẩn Tướng Khánh,
Đ/T Duệ, Đ/T Phước cũng đă ra đi, và rồi chúng tôi cũng sẽ mờ dần
theo năm tháng…Nếu có c̣n chăng là đôi ḍng lịch sử vây xin tôn
trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong ng̣i bút v́ bất cứ lư do nào.
“Biết th́ nói rằng biết, không biết th́ nói rằng không biết.” Nếu
dẫn chứng cho lập luận cuả ḿnh th́ xin nêu rơ xuất xứ (foot notes).
Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô căn cớ.
Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đă làm buồn ḷng
những người đă ra đi và những kẻ c̣n ở lại. Chúng tôi đă từ bỏ tất
cả kể cả gia đ́nh thân yêu để làm hết sức ḿnh cho tổ quốc, cho quân
đội và cho lư tưởng.
Quân đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch chưa đến
đă bỏ chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm thường
đó; nhưng không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến
Sài G̣n trong lúc c̣n 100,000 quân c̣n ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.
Tôi là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn c̣n sống sót sau
biến cố 1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đă thấy, đă nghe và đă
chịu đựng những điều đă xảy ra v́ vậy tôi phải nói cho những người
không c̣n nói được nữa, hay họ không bao giờ muốn nói.
Hà Lam
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng