Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công tại Tân Nam và Tây Bắc tỉnh Quảng Tín
-Trong ngày 16/3/1975, tại miền Trung, lực lượng
Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đă tung quân tấn công cường tập khu vực
B́nh Tú, thuộc quận Thăng B́nh và nhiều vị trí đóng quân của Địa
phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư
lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh(trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng;
tùy theo t́nh h́nh, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín),
đă điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi
đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó,
Cộng quân đă tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916
Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận
kịch chiến với Cộng quân).
* Đoàn quân đầu tiên của Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku
Cũng trong ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của
Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xă Pleiku như đă trù liệu. Nhưng
khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến th́ tin này được dân chúng
biết. Mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào
sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ ǵ có thể mang
theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một
đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy
nguyhiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu...
-Theo lịch tŕnh, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo
binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự
yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đă khởi hành ra khỏi thị
xăPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.
16.3.1975: Quân Đoàn 2 Triệt Thoái
* Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt
thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn
Thiệu đă ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975,
Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đă cho
lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và
Kontum của Cao nguyên Trung phần.
Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2,
được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.
(Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số
sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư
lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng
Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan
thân cận bay đi Tuy Ḥa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ
Pleiku và Kontum về) .
Theo lịch tŕnh triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày
16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của
Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị
Thiết Giáp, đă khởi hành ra khỏi thị xăPleiku, đây là lực lượng đi
đầu của của đoàn quân triệt thoái.
Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như
sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh c̣n lại cùng
Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do
Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2,
đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng
khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng
được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu
gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
Theo lộ tŕnh, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc
lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xăPleiku
khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ
tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên
qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Ḥa.
* Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và
cuộc rút quân của Quân đoàn 2.
Trong phần tŕnh bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đă lược tŕnh về
quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho
Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.
Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ư, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rơ t́nh h́nh an ninh lộ tŕnh là "quá sức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không t́m ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đă được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
Nhận định về địa h́nh liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn c̣n dùngđược, đoạn c̣n lại không biết t́nh h́nh giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đă bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Ḥa th́ nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đă gài ḿn dày dặc.
Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ tŕnh rút
quân, th́ Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo
Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có
đèo Cheo Reo) về Tuy Ḥa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm
chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này,
Thiếu tướng Phú tŕnh bày rằng yếu tố bất ngờ đă khiến ông có dự
tính như thế.
Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện
cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu
trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng
Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng "đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết t́nh h́nh an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉhuy sáng suốt th́ lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước t́nh trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó".
Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đă nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đă đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 th́ vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đă bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót c̣n lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là "những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rơ v́ địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy".
Về t́nh h́nh Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào
ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam
Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến
số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban
Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng
Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt
khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang
Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem c̣n lực lượng nào có thể
tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết
rơ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên
đoàn 7 Biệt Động Quân đă được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu
tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy
quân lục chiến th́ đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.
Theo lời Đại tướng Viên th́ vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ
Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng
thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của
quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm ǵ.Khi
cuộc họp chấm dứt, th́ Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng
một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng
cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2.
Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: "Tôi không quen
thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng
làm tư lệnh chiến trường th́ không có bằng chứng nào chứng minh ông
ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối
trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy
tôi nói có lư nên không đồng ư việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu
tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu cũng đồng ư thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Bụi đất và hư vô
Mùa Noel cũ
Cuối năm tiễn biệt Mẹ
Giọt máu rơi của
người lính chết trẻ
Chữ tín
Chọn Năm Căn
Nỗi bất hạnh đời tôi
A-1H Skyraider Tarin65
Thằng láng giềng
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Việt Cộng pháo kích trường Tiểu Học Cai Lậy 9/3/1974
Chuyện 10 năm trước. Ngày 3 tháng 12-2004
Bạn bè
Tấm thẻ bài
Ngôn ngữ lính
tráng Sài G̣n xưa
Tiểu Đoàn 66 Biệt Động
Quân Biên Pḥng
Hương Tràm Trà Tiên
Người cựu chiến
binh già
Tàn cơn binh lửa
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -
Ngọn Cờ Đại Nghĩa
Chuyện một lá cờ
Cờ
vàng trong trái tim tôi
Nắng chiều
bên ghềnh thác Niagara
“Trâu Điên” Và Cố Vấn Mỹ...Muộn Vẫn Phải Nói...
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nhật kư trên tiền đồn Do Thái
Tảo
một mùa thu Arlington
Tướng Đỗ Cao Trí - Người chết không yên
Những người lính cùng chiến tuyến bảo vệ tự do
Mang các anh về miền đất tự do
Bầu trời đánh mất
Bằng Lăng
Như vạt nắng chiều
Đời sống người Việt tại Úc
Truyện một người lính gương mẫu
Sự thật cuối cùng đến quá trễ!
Hồi ức Sài G̣n thời lính tráng
Mẫu chuyện về Thống tướng TMT Lê Văn Tỵ
Mùi áo lính
Ôi! Chareles
Vở mănh tinh cầu
Chúng tôi mọc
rễ và yêu thương...
Thủ Đức - Một thời khó quện
Ba Tôi, Người Lính VNCH
Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Sống với đàn anh không phải dễ
Chiều lạnh giáo đường
Hoài niệm
Những v́ sao
của một thời tuổi thơ
Ngọn đuốc Lê Xuân Việt
Một chút mặt trời...
Trốn trại
Chuyến ra khơi đầu tiên
Hữu Loan và màu tím hoa
sim
Hệ thống thông tin gián điệp toàn cầu Echelon
Cho cuộc t́nh đầu
Ngày Quân Lực 19/06 tại Melbourne
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Một kỷ niệm xa xưa
Bố tôi, người
lính Việt Nam Cộng Ḥa
Điệp vụ
U2
Vụ tấn công USS Liberty
Ngày 19
tháng 6 dưới mắt một hậu duệ VNCH
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 lần thứ 49
Cha là niềm tự
hào của Con
Vượt qua khỏi con
Trăng
Con gái của Ba
Nếu bạn
muốn thay đổi thế giới
Người
lính già trên chuyến tàu đêm
Trên đỉnh cô đơn
Một thoáng qua
hồn
Ban Mê Thuộc -
Ngày đầu ngày cuối
Mênh mang mùi
biển mặn
Rừng lá thăm anh
Vợ và những ngày
đầu đời lính
Hành quân lưu động biển LLĐN Duyên-Pḥng 213
Chị hai
Bóng ngả đường
chiều
Bài thơ t́nh
Thị Nở - Chí Phèo
Giọt nước mắt... v́ niềm kiêu hănh
Sức mạnh t́nh
chiến hữu
Những tản mạn về "Cố Vấn"
Đuờng chinh chiến
Chết tại Ban Mê Thuột
Bài t́nh ca ngày đó
Người trở lại
Pleime
Nhà thơ đi lính
Con rạch nhỏ quê ḿnh
Chuyện cái nón lá
Chuyến Taxi cuối
cùng của đời người
Chuyện của một người không có tội
Hoa Dă Qùy của anh!
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Tháng Ba t́m về tử
lộ
Như cánh diều bay
10 tội đại ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN
Gió ơi! xin đừng thổi
Bánh ḿ và hoa
Hồng trong ước mơ của Mẹ
Những người vợ cùng
tuyến đầu
Đại Uư dũng cảm
Người Việt viết
tiếng Việt. "Người Giệc Giết" tiếng Việt
Đời Phi Công
Nợ Đời một nửa,
còn một nửa nợ ơn em
Từ trại tù ra biển khơi
Trường Phi Hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola
Chỉ v́ một câu hỏi
Trại "tù" cải tạo – địa ngục trần gian ở VN
Con gái người ta
Bùi Giáng:
Diogenes thời đại !
Năm Ngọ nói
chuyện ngựa
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng