Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Nghìn trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - Tìm về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài Gòn
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện còn
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
Còn thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
Còn nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng nghìn cay
Con đường
tôi về
Hãy còn đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Bãi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ mình!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai mì
Khinh Binh 344
Tết
Thấm thoát đến nay đã tròn 45 năm của
một đời người!
Biến cố 30-4-1975 xảy ra khi hầu hết người lính VNCH đang thời thanh
xuân. Thấm thoát đến nay đã tròn 45 năm. Người lính năm xưa nay đã
già; vào những ngày trời mây u ám, lại thêm nạn dịch COVID-19 hoành
hành nên cảm thấy cô đơn tưởng chừng “ngộp thở”, thì chớ vội nghĩ
rằng mình bị . . . mắc dịch! Dù sao chúng ta vẫn may mắn hơn những
người hiện sống trong bốn bức tường khu dưỡng lão, hay kẹt cứng
trong chuyến hải hành trời biển mênh mông.
Hôm nay Houston trời mưa dầm suốt ngày. Mặc dù tai nghễnh ngãng
nhưng tôi vẫn nghe được tiếng mưa tí tách tạt vào khung kính cửa sổ
phòng học. Nhìn ra hồ sen sau nhà làm tôi nhớ đến ao sen đầm súng ở
quê khi xưa lúc trời mưa, có con cò trắng lêu khêu dò dẫm từng bước
in rõ trên nền trời màu tro xám, như bà mẹ quê không quản nhọc nhằn
lặn lội nuôi con. Khúc phim ngày xưa thân ái hiện về có lớp lang,
cha mẹ, anh chị em, họ hàng, làng xóm, và chiến hữu đã hy sinh tuổi
thanh xuân cho đất nước; có hình ảnh người tài xế vận tải của đơn vị
đã bỏ mình trong chuyến công tác tiếp tế một quận lỵ nhỏ ở miền
Trung, mà tôi là người nhận xác anh cũng vào buổi sáng ảm đạm như
hôm nay.
Bao nhiêu biến đổi trong đời đưa đến vận nước nguy ngập như con bệnh
đang hấp hối; và 30-4 là tiếng sét kết liễu một chế độ. Hình ảnh
cuối cùng ngày 30-4 còn như in trong đầu: buổi họp cuối cùng với vị
tướng công thần Nguyễn Khoa Nam; đường phố đầy ắp người đi lên kẻ
trở ngược; người vợ lính chờ chồng ngoài ngõ; đứa trẻ khóc trông mẹ
đi chợ chưa về . . . Trách nhiệm, bổn phận, gia đình, đồng đội, quần
chúng là những cơn gió lốc khai mào trận đại-hồng-thủy mà mỗi chúng
ta đã trải qua. Đến nay âm hưởng vẫn còn dù biến cố đã sang trang.
Là những nạn nhân trong cuộc chiến mấy ai tránh khỏi vết thương vì
chiến cuộc; mà thời gian chỉ có thể làm mờ tỳ vết đã hằn sâu trên da
thịt, nhưng không thể tẩy xóa đau thương đóng băng trong lòng.
Bốn-Mươi-Bốn năm qua sau khi cuộc sống ly hương được ổn định, cứ vào
ngày này tháng này, người Việt tỵ nạn CS khắp thế giới tổ chức Ngày
Quốc Hận để đừng quên căn cước tỵ nạn đau buồn. Riêng năm nay, sẽ
không có buổi lễ rình rang như mọi năm vì tình trạng Đại Dịch COVID
hoành hành khắp thế giới, nhất là tại Hoa Kỳ đang trong thời cao
điểm. Người lính sẽ không có dịp gặp nhau để ôn lại kỷ niệm ngoài
trận tiền, trong lao tù, lúc bôn ba hải ngoại và những thăng trầm
đời lính. Dù vậy, trong lòng mỗi chúng ta đều khêu nén hương để
tưởng niệm thân quyến, bè bạn, chiến hữu đã hy sinh trong cuộc chiến
. . . Vậy mà, có sự hy sinh cao như núi rộng như biển thường bị quên
lãng cũng như chiếc bóng bên mình mấy khi được nhắc đến. Đó là hình
ảnh Cái Cò của người vợ lính ngày sau cuộc chiến 30-4 vừa làm mẹ vừa
làm cha thay chồng đang bị đày đọa trong lao tù CS.
Vậy hãy hứa là đừng quên sự hy sinh của Cái-Cò trong ngày 30-4 năm
nay!
Không có sự hy sinh nào hơn hay kém, lớn hay nhỏ. Cái Cò chính là
chiếc bóng âm thầm song hành cùng người lính trong cuộc chiến; và
giờ đây là cây gậy để tựa, là ngọn đuốc đêm đêm giúp
người-lính-già-xa-quê-hương khỏi bị vấp ngã. Lúc quốc biến, người vợ
lính tảo tần buôn thúng bán bưng, chắt chiu để nuôi con nên người
khôn lớn, lặn lội qua vùng đèo heo hút gió, sơn lam chướng khí, nuôi
chồng trong lao tù để mong còn sống chờ ngày đoàn tụ.
Trong khi bên kia đại dương nơi xứ lạ quê người Cái Cò cũng vất vả
không kém, giành dụm từng đồng cắc để sanh tồn nơi vùng đất mới;
mượn quê người làm quê hương mình để mong có ngày trở về quê cha đất
tổ.
Người đàn bà trong xã hội vốn dĩ bị thiệt thòi, nhưng họ âm thầm câm
nín. Đức tính cần cù, chịu đựng là thứ ánh sáng kỳ diệu của người
đàn bà Việt Nam. Và, bằng ngòi bút sống động Nguyệt ánh đã kể lại
nỗi thống khổ của người vợ lính VNCH trong bài “Cái Cò” sau đây,
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non
Thương em dạ sắc lòng son
Một thân đơn chiếc, nuôi con thay chồng
Bàn tay ai tốt vàng rồng
Bàn tay em nứt, máu hồng tuôn rơi
Nhìn nhau muốn nói vạn lời
Mà tim se thắt rối bời tâm can
Cái cò ngày nay, không còn gánh gạo
Gạo đã thành, một quá khứ xa xôi
Cái cò ngày nay, xuống biển tìm mồi
Ngô sắn khoai sùng, ăn cầm chừng nước mắt tuôn rơi”
“Cái cò lặn lội bờ ao
Bán giọt máu đào, nuôi dưỡng đàn con
Thương em lội suối trèo non
Vùng Kinh Tế Mới, nuôi con thay chồng
Biển dâu đã hóa ruộng đồng
Nhà tan nước mất, vợ chồng chia ly
Chồng đi cải tạo không về
Vợ đi tay cuốc, tay cày đất hoang
Cái cò ngày nay, mơ tìm chén gạo
Giọt máu đào dành để bán nuôi con
Cái cò ngày nay, gối mỏi chân mòn
Vai gánh vai gồng, đi thăm chồng cách núi ngăn non”
“Cái cò lặn lội bờ đê
Đói khổ trăm bề, nước mắt đầy vơi
Thương em tuổi mới đôi mươi
Vì cơn quốc biến, hoa trôi hương tàn
Chiều trên quốc lộ kinh hoàng
Chồng em tuẩn tiết, máu tràn như sông
Chồng em chiến sĩ anh hùng
Vì dân chiến đấu, thác cùng muôn dân
Cái cò ngày nay, đã thành góa phụ
Tay dắt mẹ chồng, tay dắt đàn con
Muốn về làng quê, quê cũng không còn
Giặc bắt lên rừng, đi vào vùng chướng khí Lam Sơn”
“Cái cò lặn lội bờ mương
Vét cống đào đường, gió rét lạnh căm
Chồng em giặc bắt biệt tăm
Tù Nam Tù Bắc, biết thăm nơi nào
Một đêm gió lộng mưa gào
Được tin anh đã đi vào thiên thu
Chồng em chết giữa ngục tù
Khổ sai đói rét, Cộng thù giết anh
Cái cò một thân, lên vùng đất lạ
Đến trại tù, tóc quấn vành tang
Đếm từng mồ hoang, máu lệ hai hàng
Đau xót cho chồng, không mộ phần, không khói, không nhang.”
(Trích “Cái Cò” của Nguyệt Ánh)
* * *
Hãy ngược dòng thời gian, xưa kia Con Cò là chân dung bà Mẹ Việt
Nam!
Thân cò lặn lội bờ ao,
Đêm đêm lặn lội kiếm mồi nuôi con (Ca Dao),
Thuở ấy, người nông dân rất gần gủi với Con Cò. Hình ảnh người nông
dân dắt trâu kéo cày theo sau là đàn cò bay lượn trên thửa ruộng
“thẳng cách cò bay”, trong khung cảnh thanh bình lòng người phơi
phới. Dáng cò mảnh khảnh, bộ lông trắng muốt ta chợt liên tưởng đến
dáng vẻ người mẹ, người vợ. Hình ảnh Con Cò trắng trên bờ ruộng vào
lúc trời mây u ám nói lên đức tính chịu thương chịu khó, chăm chỉ,
cần cù của người phụ nữ Việt Nam:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non . . .
Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà . .. .
Giờ đây, dưới cung điệu của Nguyệt Ánh, “Cái Cò” chẳng những thoát
ngoài khuôn thước của bức tranh thủy mạc, mà còn là chi tiết lịch sử
mà người vợ lính miền Nam Việt Nam trong thời ly loạn đã gánh chịu.
Mấy ai đánh giá sự hy sinh của con người bằng đơn vị đo lường, vì tự
nó vô giá: cao hơn Thái Sơn, rộng hơn Nam Hải. Nếu ta chiêm ngưỡng
nét oai nghi của đại bàng, dũng mãnh của chúa sơn lâm, uy vũ của
kình ngư; thì hãy đừng quên hình ảnh diệu hiền như từ mẫu, tận tụy
như dã tràng và đẹp như thiên thần của Cái Cò, đã và đang là chiếc
bóng bên chồng khi khốn cùng hay lúc tuổi già bóng xế.
30-4 năm nay đánh dấu 45 năm Quốc Hận, ngoài nén hương lòng tưởng
niệm Quân Dân Cán Chính đã hy sinh trong cuộc chiến hay đã bỏ mình
trên đường tìm Tự do; xin hãy đừng quên “Cái Cò” đã đóng góp vào kho
tàng văn học, quân sử và lịch sử Việt Nam Cộng Hòa thân yêu . . . mà
lâu nay bị quên lãng.
Phạm văn Hòa
(Viết theo cảm xúc ca khúc “Cái Cò” của Nguyệt Ánh - vào lúc
COVID-19, 2020)
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Giánh Sinh trong trại tù cs
Người Việt cao quý
Trung Tá Hoàng Tích Hữu Ái
VNCH đã dũng cảm khai hỏa lại TQ tại Hoàng Sa
Những dấu hiệu quân Mỹ đã sẵn sàng ở Biển
Đông
Một thoáng “Hương Xưa”
Mơ chuyến ra khơi
Những người lính cũ
Truyện những con tàu : Gia đình.. Cô Năm
Hỏng
rồi tiếng nước Tôi!!!.
Tấm thẻ
bài
Tìm vui
cuối đời
Giấc mộng không bình thường
Xưa rồi diễm
Trường Bộ Binh Thủ Đức - Đoạn đường chiến
binh
Những cánh dù không về đến điểm hẹn
Ghé bến Cao Hùng
Hồi ức của một người Mỹ về cấp chỉ huy
QL/VNCH
Một phiên
gác đêm
Cái nón sắt của người lính VNCH
Con Ba Đồng
Tháp
Câu chuyện về một người VN tình nguyện đi
lính Mỹ
Nghỉ hè ở Mallorca
HQ 602 - Vụ thảm sát HT Ngô Minh Dương
Trà cú từ trại LLĐB đến căn cứ Hải Quân
Khấn người tình địch
Quên chuyện phải
nhớ....
Chỉ là kỷ niệm
Căn cứ Tuyên Nhơn
Tôi đi tù
Anh ở
đây! Sao anh ở đây?
Nhật ký buồn!
Lực lượng Hải thuyền (1960-1965)
Bên
nhau đi nốt cuộc đời
Sài Gòn - Trăm nhớ nghìn thương
Cái bóng
cuộc chiến và món nợ 45 năm
Lý do then chốt dẫn đến 30-04-1975
Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/1975
Truyện những con tàu : Hộ tống hạm (phần 1)
Chuyến bay
cuối
Ai
đầu hàng, nhưng tao thì không!
Ngày
30-4 lại đáo hạn năm 2020!
Chuyện bên
đường
Vietnam
War: Ai thắng ai thua?
Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Truyện những con tàu: Tuần duyên hạm (PGM)
Làng Yuba City trong cơn ác
dịch Corona
Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo vị Tướng bất tử
Tách cà phê muối
Tình yêu thời chinh chiến
Hội chợ Tết Canh Tý do CĐNVTD/VIC Tổ Chức
Vạt nắng bên đồi
Có đêm nào buồn
bằng đêm 30
Dòng sông ngày ấy
Lạc giữa
mùa Xuân
Năm Canh Tý 2020 nói chuyện chuột
Đêm xuân trên vùng biển chết
Tại sao Vũ Hoàng Chương bị bắt?
Quả Phụ Hoàng Sa