Qua rồi một thuở chim non
Dù cho tóc bạc lòng son vẫn còn...*
 

***

“Anh viết bài thơ gửi các em
Mùa Thu hanh nắng rụng bên thềm
Đôi con bướm lượn vờn trong gió,
Mạ thắm xanh đồng thoáng bóng êm
Em đến trường rồi buổi sáng nay.
Bạn cùng mươi cuốn vở trong tay,
Giấy thơm như tấm ḷng trong trắng;
Lớp mới thầy vui quyển sách dày
Em ơi hăy gắng mà chăm học.
V́ gót thời gian qua rất mau;
Tuổi xanh đâu có là bao nả.
Đừng để ngày mai chịu cúi đầu.
Hăy trau dồi, hăy gắng công
Làm sao cha mẹ được vui ḷng
Ngày mai rồi sẽ như anh nói.
Đem sức tài ra gánh núi sông”

Đầu tháng Mười, ngày tháng Vancouver mới vào mùa thu.

Mùa thu nơi đây cũng hanh nắng như mùa thu của tác giả Ngô Tường Đặng; hôm ông viết bài thơ Gửi Cánh Chim Non, in trong sách Việt Văn Toàn Thư - Lớp Tư của miền Nam ngày xưa ấy.

Nắng đấy, nhưng trong gió có hơi lạnh. Hơi lạnh lạnh khô làn da trần. Gió đùa lá trên sân rào rạt. Lá trên cây đây đó bắt đầu nhuộm ánh thu vàng. Ngày tựu trường đă qua được một tháng. Hơn sáu mươi năm qua, mùi hương tập giấy mới chừng như vẫn c̣n thơm trong gió, mỗi khi nhớ lại những ngày đầu niên học. Tập vở học tṛ hồi đó “giấy thơm như tấm ḷng trong trắng”.

Cánh chim non, tuổi thơ của những năm 1955 đến 1965, chắc vẫn nhớ những quyển tập giấy trắng có gạch hàng để viết, với các tên quen thuộc, dựa theo h́nh trên b́a tập như “hiệp sĩ”, “ba cô gái”, “con nai”… in nét đơn giản, một màu đen hay xanh đậm trên giấy màu vàng nhạt. Hồi đó, giấy viết cần nhất là không lem mực. H́nh như, tập “xích lô máy” giá mắc hơn các hiệu khác chút ít, có tiếng là giấy trắng và tốt nhất v́ mực không lem. Tôi được hai quyển tập “lực sĩ”; v́ b́a trước có h́nh lực sĩ, tay cầm đuốc Thế Vận Hội đứng sau quả địa cầu và hàng chữ Olympic. B́a sau giống các tập vở cho học tṛ, có in Bảng Cửu Chương. Cầm tập vở ngang mặt, chỉ cần hé mở trang giấy bên trong là có hương thơm nhẹ nhẹ. Tập giấy mới thơm thanh thoát, quyến rũ vô cùng; tôi hít lấy vài hơi, rồi khép vở lại, để mùi hương c̣n lưu giữ lâu hơn.

Thật vậy, trang giấy thơm và trắng tinh khiết quá, làm bàn tay trẻ con ngần ngại; tôi phải nh́n lại mấy ngón tay của ḿnh xem có khô và sạnh không, rồi mới rụt rè sờ nhẹ nhẹ lên trên trang giấy. Tôi vừa háo hức mong đến ngày được đặt ng̣i viết để viết thành chữ, vừa lo ngại nét không thẳng, ṿng không tṛn, vết mực của ḿnh lầm lỗi, lem luốc làm vấy hư trang giấy ấy đi. Với tuổi thơ, cái ǵ đó mơ hồ về hai chữ kiến thức, tôi như thấy khát khao, cả bầu trời đầy ấp ước mơ. Ước mơ gần nhất là học lên lớp, lên lớp Tư, để có thêm b́nh mực và cây viết có ng̣i lá tre, lá bầu. B́nh mực là một phát minh ly kỳ đối với tuổi thơ. B́nh bằng nhựa cứng, nhẹ và nhỏ để nằm lọt gọn trong lỗ tṛn trên góc phải của các bàn học. Phần trên b́nh mực có nhiều màu để chọn lựa lắm: xanh, đỏ, vàng, tím…, bên trong có cái phểu để ngăn mực. Phân nửa bên dưới làm bằng nhựa trong để thấy lượng mực trong b́nh c̣n ít hay nhiều và chỉ nên châm mực đầy đến bên dưới của nửa b́nh mà thôi. Dù không đậy nắp, mực c̣n thấy sóng sánh trong b́nh, nhưng lật nghiêng hay úp lại vẫn không tạt đổ ra ngoài. Mực cho học tṛ có hai màu là xanh dương và tím; được ép khô thành viên nhỏ h́nh trụ tṛn dài, dạng giống viên thuốc tàu đen bóng. Bỏ viên mực vào nước, khuấy vài ṿng cho tan ra rồi đổ vào b́nh là xong, là có mực để viết. Cũng có mấy đứa con trai dùng mực tím, nhưng con gái hầu như thích chọn màu tím.

C̣n một loại mực tím khác, h́nh dạng như hạt cát thô, đựng trong những túi nylon nhỏ, giá mắc hơn loại mực viên thông thường và màu tím có khác màu mực tím của thời c̣n là các em bé tiểu học. Không biết màu tím này đẹp thế nào hay lăng mạn ra sao, nhưng biết chắc là các cô các cậu mới lớn, sớm biết mộng mơ đều thích hơn. Các cậu cũng tập tành thay màu mực xanh sang màu tím, tím hoa sim, “tím cả chiều hoang” như chuyện t́nh nồng thắm của nhà thơ Hữu Loan và người vợ ḿnh; màu mực tím cho thêm t́nh tứ, cho đủ nghĩa yêu đương những tà áo trắng hay áo vàng, áo xanh, áo tím nào đó của anh chàng thi sĩ Nguyên Sa, ở Tuổi Mười Ba:

“… Nàng đến gần, tôi chỉ dám quay đi,
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất, th́ thầm: "chưa phải lúc..."
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường.
Sợ thư t́nh không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực cho vừa màu áo tím…”

Hồi đó, nam sinh tiểu học mặc áo vải trắng, ngắn tay và quần sọt màu đen. Tôi cất hai miếng tiền 10 su trong túi quần, để dành khi đói khát. Đồng tiền su lớn cỡ ngón tay cái, đúc bằng nhôm. Đồng tiền 20 su và 10 su khắc h́nh giống như nhau. Cái khác là đường kính đồng tiền trị giá 20 su lớn hơn đồng 10 su và có khắc 20 SU, thay v́ 10 SU. Một mặt tiền có h́nh ba cô gái cùng nh́n về hướng bên phải của đồng su; gương mặt, kiểu tóc và trang sức được điêu khắc thật khéo, nh́n là biết ba phụ nữ của miền bắc, trung và nam. Một mặt có chữ “VIỆT NAM” bên trên h́nh bó lúa trĩu bông. Tiếng đồn rằng bó lúa khắc trên đồng su kim loại và h́nh con voi trên tờ giấy tiền Đông Dương linh ứng theo sấm của Trạng Tŕnh, qua sự kiện quân Pháp rút quân khỏi Việt Nam, Đông Dương:

“Khi nào lúa mọc trên ch́, voi đi trên giấy: Tây th́ về Tây!”

Hai mươi su là số tiền khá nhiều cho đứa nhỏ học lớp Năm (lớp 1 bây giờ). Chỉ cần 10 su là mua được ổ bánh ḿ ngọt nhỏ, người bán c̣n múc cho muổng kem kẹp giữa bánh; ăn vừa mát lạnh, vừa ngọt lịm. Ổ bánh ḿ nóng gịn, chan nước thịt với mỡ hành thơm ngon, bán 20 su thôi. Có 50 su trong túi, vào quán nhỏ ven đường là có quyền gọi tô hủ tíu. Lúc này, chỉ cần 3 đồng bạc là mua được ổ bánh ḿ Ḥa Mă, ở đường Phan Đ́nh Phùng; vài năm sau, tiệm dời về đường Cao Thắng. Bánh ḿ Ḥa Mă là loại bánh ḿ kẹp thịt nguội kiểu Pháp, có bơ, có Pâté thơm béo, gọi là “cát-cút” theo chữ casse-croûte; sang và ngon nhất Sài G̣n ḿnh, từ năm 1958.

Cả tuần trước ngày tôi được đi học, ngày ngày, ra vào nh́n ngắm bộ đồng phục học tṛ, tôi thấy thời gian mỗi ngày sao chậm thêm ra. Tôi rất may mắn được học trong lớp của d́ Tư, em của mẹ tôi, làm cô giáo. Có em ḿnh trông lo, dạy cho thằng con ḿnh học, cha mẹ tôi an tâm lắm.

Sáng tựu trường, dượng chở D́ đi dạy bằng chiếc Vespa ngang nhà, dừng lại đón tôi. Tôi lên đứng trên sàn xe, giữa hai chân và cánh tay của dượng. Chờ tôi vịn hai tay vào tay lái xe xong, dượng cho xe chạy tiếp đến trường. Trước khi bước vào cổng trường, D́ nghiêm nghị dặn tôi phải ngoan, chăm học như bạn cùng lớp, không được ỷ lại có d́ là cô giáo. D́ “hứa hẹn” là nếu tôi phạm lỗi th́ d́ sẽ phạt nhiều gắp đôi. Tôi vâng dạ, rồi đi theo phía sau D́ đến lớp.

Niên học khai giảng vào ngày thứ Hai. Sáng thứ Hai có lễ Chào Cờ. Xe và người khi đi ngang công sở hay trường học đều dừng lại, nghiêm chỉnh đến hết bài Quốc ca. Từ nhỏ, đă quen với nghi thức Chào cờ sáng thứ Hai. Sáng nay, trong bộ đồng phục học sinh, tôi được cùng các bạn học đứng ngay bên trong sân trường, ṿng quanh cột cờ. Tôi nh́n xe, nh́n người trên đường phố dừng lại khi trường làm lễ Chào Cờ, nh́n lá quốc kỳ màu vàng tươi thắm tung bay thật gần, chợt thấy khác lạ, thấy ḿnh như lớn hẳn ra.

Năm 1958, Bộ Quốc gia Giáo dục của Việt Nam Cộng Ḥa, dưới thời Bộ trưởng Trần Hựu Thế, có triệu tập Đại hội Giáo dục Quốc gia - Lần thứ Nhất, tại Sài G̣n. Ba nguyên tắc Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng được hội nghị quyết định làm nền tảng cho triết lư giáo dục của Việt Nam Cộng Ḥa.

Trên nền tảng này, miền Nam đă gầy dựng được một kho tàng sách giáo khoa thật phong phú. Trong đó, có quyển “100 Bài Tập Đọc”, có bài Anh Hùng Vô Danh của Việt Tâm (giáo sư Nguyễn Ngọc Huy), được rút gọn thành 4 đoạn chính, dành dạy cho học sinh Lớp Nhất & Lớp Nh́:

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.

Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước,
Đă phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu,
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dăy san hà gấm vóc…

Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi,
Trong loạn ly như giữa lúc thanh b́nh,
Bền một ḷng dũng cảm, chí hy sinh,
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.

Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vàng, bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên,
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.

Nhưng máu họ đă len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông,
Và anh hồn cùng với tấm trinh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.


Tiếc thay, sau khi chiếm miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản ra lệnh tiêu hủy các loại sách của niền Nam kể cả sách giáo khoa môn quốc văn các cấp. Những kẻ mệnh danh là “cách mạng” đă nguyền rủa nền văn hóa của miền Nam là “văn hóa đồi trụy”. Đảng và nhà nước cộng sản c̣n đầu độc và xúi dục thanh thiếu niên miền Nam ồ ạt biểu t́nh, phát động phong trào tịch thu và đốt sách; các núi sách lớn nhỏ theo nhau trở thành tro tàn.

Có phải chăng, văn hóa miền Nam bị đảng kết án là “văn hóa đồi trụy”, v́ đă không viết sách tôn vinh đảng cùng các lănh tụ là “đỉnh cao trí tuệ” của nhân loại, v́ thiếu những lời hô hào xúi dục đầy man rợ và khát máu như Tiến quân ca, cũng là quốc ca của nhà nước cộng sản: ”Thề phanh thây uống máu quân thù”, v́ đă không giảng dạy chữ nhân đạo theo chánh sách bất nhân của cộng sản, như lời thơ của các hung thần Chế Lan Viên, Tố Hữu:

“Miền Nam ta ơi!
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất”
“Ngọn súng trường ta ơi,
ngọn súng rất nhân t́nh”

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung ḷng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”


Thật ra, chẳng quá ngạc nhiên khi con người cộng sản không quan tâm đến tốt xấu, thiện ác; cái quan trọng nhất của họ là cộng sản hay không cộng sản. Chính Mao Trạch Đông, thầy tổ của đảng và cái nhà nước đang cai trị Việt Nam ḿnh hiện nay, cũng đă từng dạy rằng:

“Chủ nghĩa cộng sản không phải là t́nh thương mà là cái búa để chúng ta đập nát kè thù” (Communism is not love. Communism is a hammer which we use to crush the enemy)

Gần đây, trang Văn Hóa Nghệ An, vào ngày 3 tháng 4 năm 2019, có đăng bài “Đọc sách - Bổn cũ soạn lại: Những bài học thuộc ḷng - Tân Quốc Văn Giáo Khoa Thư". Tác giả Nguyễn Văn Tuấn nh́n nhận, dù muộn màng, về bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư của các soạn giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc và Đỗ Thận, thuộc chương tŕnh giáo dục của miền Nam, trước khi bị cộng sản cưởng chiếm, như sau:

“Dù được xuất bản gần 100 năm trước, nhưng cho đến nay vẫn được xem là một cuốn sách giáo khoa thuộc vào hàng hay nhất và có ảnh hưởng lớn nhất. Những câu chuyện trong sách nhắm đến việc hun đúc t́nh thương yêu đồng bào; tôn trọng mạng sống của con người; ḷng nhân ái; trọng của người; không vọng ngữ, v.v... cho đến nay vẫn c̣n nguyên giá trị.”

Một nền giáo dục nhân bản sẽ đưa con người và đất nước đến hạnh phúc, tự do. Nhưng một nền giáo dục vô luân sẽ biến con người thành loài bất nhân, vô đạo. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ. Thế nhưng, người ta không thể điên cuồng thừa thắng mà xông lên “cách mạng” giáo dục một cách quá khích, vô ư thức, tùy tiện, tùy thích, theo thói hung tàn, bạo ngược của cộng sản.

Qua trang Facebook, Nguyễn Việt Khôi đă luyến tiếc cho nền giáo dục của miền Nam:

“Ngày xưa đẹp đẽ ấy, thể chế thanh b́nh nhân bản ấy, đă lo lắng đào tạo con người từ những góc cạnh căn bản nhỏ bé nhất. C̣n bây giờ, cái chế độ man rợ đă làm đủ cách đánh mất chữ "người", để chỉ c̣n chữ con. Như những tṛ chơi bẩn thỉu dâm ô mà chúng đưa ra cho đám đoàn viên đi theo, hầu quên mất hết những ǵ gọi là Luân Lư-Đạo Đức và Quốc Gia-Dân Tộc.”

“Mùa Thu hanh nắng rụng bên thềm”

Thêm một niên học mới!

Tội nghiệp cho những cánh chim non trên quê hương Việt Nam ngày nay. Từ lúc tập tễnh bước vào đoạn đời làm học sinh, phải tập lếu láo, nghêu ngao hát mừng cho cái giấc mơ kỳ dị, mơ gặp người đă chết, chết chưa chôn. Chim non phải cắm cúi học theo lời đảng dạy, để tập làm quen, ru hồn trong giấc mơ cộng sản, cơn ác mộng của nhân loại, mà an hưởng những ǵ đảng ban bố cho đời ḿnh!

BK Tính 323
 

* Thơ - BK Nhan Diễm Phước 352

 


VĂN CHƯƠNG

2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


C̣n nhớ không em?  
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường  
Đêm trắng  
Nước mắt trong cơn mưa  
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS


I’ll be home for Christmas  
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10  
Vợ hiền
Dạy con  
Lễ hội sinh nhật  
Chọn lựa  
BS Đặng Tuấn Long  
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca kinh hoà binh  
Môt thoáng ngậm ngùi  
Đường về không xa
Năm mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục  
Vá đường
Chăn gà  
Một người làm quan  
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời

Thuyền đi đâu, về đâu?  
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm  
Mẹ cài cho con đóa hồng  
Những mùa Trung Thu  
Thầy Trân  
Tháng Tư nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă  
Trái tim Bồ Tát  
Người Hạ Sĩ Nhứt
Lá thư t́nh trong cặp
Người pháo binh già...
Thức trắng đêm nay!
Mặt trận Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép  
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào  
Làm việc cho Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973  
Người chiến sĩ không quân phục  
Tôi cưới vợ 
Buổi họp mặt vui vẻ  
Cơi bụi hồng
Chiều buồn biên giới  
Mùa đi tù!  
Nếu có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước tôi  
Người Mẹ thời chiến 
Má tui  
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại 
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku 
C̣n thương rau đắng …  
Ngày lễ Mẹ 
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4 
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn  
Người về có nhớ thương binh?  
Từ những trang thơ 
Tự tử đi anh em! Tao không đầu hàng!  
Chuyện trên QL 20  
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH

Mùa xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta  
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống  
Bỗng dưng anh tới  
Để nhớ một thời...  
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến  
Trong nỗi khốn cùng   
Giờ phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về  
Phụng Dực, trận đánh để đời  
Buổi họp mặt vui vẻ  
Trạm cuối cuộc đời
Nhớ nhà  
Khép lại núi rừng  
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"  
Nhức nhối con tim  
Trái tim cao cả  
Hạt tình hồi sinh  
Hai con khỉ già 
T́m chốn thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt  
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt  
Đại gia ở Mỹ  
Chỉ c̣n nỗi nhớ  
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một cuôc chơi
Sự ra đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác và Hèn Hạ!  
Phi vụ "Ong Chúa" 14-4653 cuối cùng

Một cái Tết khó quên  
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?  
Vơ Ân và tôi  
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt  
Hạnh Phúc… Rơi  
Bông Mồng Gà  
Rồi người lính có về không?  
Tạ ơn Thiên Chúa !  
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít ướt
Những chuyện ngày xưa
Chân dung người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm cũ
Ơn đời chứa chan  
Câu truyện t́nh trong quân ngũ  
Trong lâu đài kỷ niệm  
Người nữ tù và giải Nobel  
Đùa của tạo hoá  
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH  
Con c̣n nợ ba
Cái bằng... lái xế !  
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân  
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường  
Con búp bê của mẹ 
Sự c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô Giáo Ngụy Người Huế  
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ  
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt biển...  
Huế, tôi và Mậu Thân  
Hương  
1 đồng giấy, 7 đồng phở  
Vui buồn với UH1  
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt  
Khoe chữ  
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....  
Truyện hai h́nh ảnh một đời người  
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi  
Nén hương ḷng cho một người vừa đền xong nợ nước  
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông  
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh  
Quê hương của tôi  
Chim trời bạt gió 
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Nó và biến thiên cuộc đời

Có những mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Các ngày tết ở VN trong năm 
Nói chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất 
Những người lính Dù bị lăng quên 
Gói trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....  
Người đưa thư  
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi
Chọn tuổi xông nhà đầu năm