Duyên Anh
10 giờ 40, mười phút sau lệnh đầu hàng cộng sản của Dương Văn Minh,
Đặng Xuân Côn và tôi ra vỉa hè trước cửa nh́n Sài G̣n chờ đợi Cộng
Sản vào. Tại sao chưa đánh đă đầu hàng? Tôi nghe rơ câu hỏi nghẹn
ngào đó trong những ánh mắt ngơ ngác của người Sài G̣n quanh tôi.
Trời hết âm u, nhưng vẫn chưa có nắng. Vẫn thiếu nắng vàng rực rỡ.
Dân Xóm Lách kéo lên. Lề đường Công Lư, gần nhà tôi đông nghẹt. Dẫu
ḷng ngổn ngang bối rối, tôi c̣n chút hạnh phúc trên những khuôn mặt
buồn bă của đám dân "vô sản" Xóm Lách. Không một nụ cười. Khó t́m ra
niềm hân hoan. Ngay cả những người đă truy nă kỹ thân phận ḿnh, sự
nghiệp của ḿnh ṛng ră hai mươi năm Việt Nam Cộng Ḥa, thấy chẳng
dính líu ǵ tới "nợ máu" với cộng sản, cũng hồi hộp v́ "biển máu."
Chưa bao giờ tôi thấy, kể từ nhận Sài G̣n làm quê hương, một cảnh
tượng Sài G̣n năo nề đến thế. Tôi có cảm tưởng Sài G̣n đang sợ hăi
cơ hồ tôi đang sợ hăi, cơ hồ mọi người đang sợ hăi. Xe cộ ngưng
chạy. Những gia đ́nh có "máu mặt" rút hết vào nhà. Cổng đóng kín
mít. Cửa sổ gác cao he hé mở. Ai đă nh́n tôi qua ô cửa kính mắt lệ
mờ?
Tôi sinh ra ở miền Bắc, thị xă nhỏ bé, êm đềm Thái B́nh. ấu thơ của
tôi, trải dọc theo hàng cây hồi thấp và vương vấn cùng khắp cầu Bo.
Niên thiếu của tôi lăng đăng vùng trời Hà Nội. Tôi khôn lớn ở Sài
G̣n. Sài G̣n cho tôi những bước xuống đời cay đắng để tôi làm cuộc
đời tôi Sài G̣n cho tôi t́nh yêu, cho tôi thi ca, cho tôi tiểu
thuyết. Công sinh không nặng bằng công dưỡng. Sài G̣n đă nuôi dưỡng
tôi. Sài G̣n là mẹ tôi. Mẹ Sài G̣n săn sóc tôi hai mươi năm. Tôi đă
làm ǵ cho Sài G̣n? Đă làm ǵ, vẫn chưa đủ, vẫn chỉ mới là cái hữu
hạn trong cái vô hạn. Bây giờ, đứa con phóng đăng ôm gh́ mẹ ḿnh
bằng đôi tay rời ră, nước mắt ṛng ṛng. Đứa con bất lực, đứa con
hèn hạ, đứa con khiếp nhược, đứa con mải rong chơi nỡ để mẹ ḿnh lạc
vào tay thù. Mà chỉ biết khóc. Mà chỉ rên rỉ Mà chỉ luyến tiếc hàng
me xanh, ghế đá công viên và những cuộc t́nh phù phiếm. Tôi hiểu
những giọt nước mắt của tôi vô nghĩa, chẳng dám khóc, chẳng thiết
khóc, mà mắt tôi cứ căng mọng và lệ cứ rơi. Tôi đă biết khóc v́ Sài
G̣n, v́ một thành phố kỷ niệm.
Một toán quân xuất hiện. Quân ta. Tôi đếm: 19 người. Mười chín người
lính, mười chín người chiến sĩ, đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo
thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống, mặt cúi gầm, lầm lũi bước.
Tối hôm qua, tôi đă thấy quân ta ngang qua đây. Quân ta và xe tăng.
H́nh ảnh người lính sửa xích tăng đă in vào tiềm thức tôi. Tối hôm
qua, tôi đă thấy Tướng Vĩnh Lộc chủ chiến. 10 giờ 30 hôm nay, tôi
nghe Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Và, sau lệnh đầu hàng của
Dương Văn Minh, tôi lặng người ngắm toán quân chiến bại. Cảm giác
đầu tiên của tôi là ngậm ngùi. Tôi nhớ một câu thơ của Corneille: "O
cruel souvenir de ma gloire passée" mà Thế Lữ cảm hứng viết: "Than
ôi, thời oanh liệt nay c̣n đâu? Thời oanh liệt đâu? Những chiến tích
rực rỡ dội vang sông núi của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, những chiến
tích làm bàng hoàng thế giới, làm vỡ mộng xâm lược của cộng sản, nay
c̣n đâu? Tôi không bao giờ quên người Do Thái đă bầy tỏ công khai
với nhân loại rằng, họ mơ thành người An Lộc. Tôi vốn không ưa các
chế độ, các nhà lănh đạo, một số tướng lănh bất tài vô học, tham
nhũng của miền Nam sau 1963, nhưng, luôn luôn, tôi yêu mến và cảm
phục quân đội. Chế độ đă xóa bỏ chế độ, lănh đạo đă hạ bệ lănh đạo,
quân đội tồn tại như quê hương. Bởi v́ quân đội bảo vệ quê hương.
Quân đội không phải là công cụ riêng của chế độ, của lănh tụ. Một số
tướng lănh hèn mạt, v́ quyền lợi cá nhân, v́ địa vị khốn kiếp, đă
bán ḿnh cho chế độ, cho lănh tụ để bán xương máu của quân đội và
làm nhạt nḥa cái kiêu sa của người lính. Kẻ bán xương máu của lính
nhiều nhất, kẻ dùng quân đội làm thang lưng leo lên danh vọng là
Nguyễn Văn Thiệu.
Bây giờ, Thiệu đă bỏ đi. Cao Văn Viên đă bỏ đi. Vô số tướng lănh đă
đào ngũ chạy trốn. Dương văn Minh đă đầu hàng. Quân đội tiếp tục
chiến đấu. Quân đội sẽ tiếp tục chiến đấu, nếu Dương Văn Minh không
hám cái hư vị "tổng thống miền Nam trung lập" đến nỗi thỏa hiệp với
cộng sản. Tham vọng bằn tiện của Dương văn Minh c̣n là tham vọng của
vài ông tướng, vài ông nghi sĩ, vài ông dân biểu "nhất định" ở lại
làm Tổng trưởng. Bùi Tường Huân là một thí dụ. Những người khác đă
đi học tập cải tạo, đă vượt biên sang Âu Châu, Mỹ Châu th́ xin miễn
kể tên, sợ mất ép-phê chống Cộng của quư vị ấy.
Thế giới đă thiếu sự công b́nh tối thiểu để khắc nghiệt lên án sự
tan hàng bệ rạc của quân đội ta. Họ không thèm quan tâm tới sự tôn
trọng kỷ luật tối đa của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Quân đội không
tuân lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh mà tuân lệnh đầu hàng của vị
tổng thống nước Việt Nam Cộng Ḥa kiêm tổng tư lệnh quân lực Việt
Nam Cộng Ḥa. Quân đội nước nào cũng thế cả, trừ trường hợp người ta
làm cách mạng, làm đảo chính lật đổ tổng thống. Tôi yêu quân đội của
đất nước tôi. Tôi không xuẩn ngốc phán xét quân đội. Tôi có bổn phận
ngưỡng mộ quân đội quốc gia. Và tôi đau đớn nh́n quân đội của tôi
đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi
chúc xuống, mặt cúi gằm, lầm lùi bước. Ông Nguyễn văn Thiệu không
chứng kiến thảm cảnh này. Các ông tướng đào ngũ không chứng kiến
thảm cảnh này. Tôi nghĩ các ông ấy chẳng nên nói về quân đội, nhắc
đến quân đội nữa.
Một bà mẹ hớt hơ hớt hái, từ dốc chợ Xóm Lách, chạy lên đuổi theo
toán quân, (tôi quả quyết quân đội ta không thua trận. Quân đội ta
măi măi chiến thắng, măi măi anh dũng. Chế độ Nguyễn Văn Thiệu thua
trận, các ông tướng đào ngũ thua trận và chính sách Mỹ ở Việt Nam
thua trận). Bà mẹ già ôm chặt lấy một người lính:
- Mày đi đâu nữa con? Sao không về nhà? Hết chiến tranh rồi, ḥa
b́nh rồi. Về thôi, con?
Người lính cố gỡ nhẹ tay mẹ ḿnh ra:
- Con không thể về được.
Bà mẹ khóc. Bà mẹ khóc tức tưởi:
- Sao vậy? Có lệnh hàng rồi mà.
Người lính lắc đầu:
- Con không thể về được.
Toán quân đă băng qua ngă tư Công Lư - Yên Đổ. Bà mẹ vẫn níu chặt
người con chiến sĩ lại:
- Mày đă đi đánh nhau bao lâu nay, có được hưởng ǵ đâu?
Người lính nghẹn ngào:
- Con không thể nào bỏ các bạn con.
Bà mẹ rên rỉ:
- Bỏ hết, bỏ hết đi con, về với má, không sao đâu.
Người lính gỡ mạnh tay mẹ ḿnh ra:
- Má về đi, con phải theo các bạn con.
Người lính chạy nhanh để bắt kịp các chiến hữu. Bà mẹ đứng bên đường
mắt đẫm lệ, nh́n theo con ḿnh...
***
- Rồi người lính có về không?
Đó là câu hỏi của kư giả Patrick Sabatier của nhật báo La libération
đă đến tận nhà tôi ở Ivry sur Seine phỏng vấn tôi để làm số báo đặc
biệt cho ngày 30-4-1985. Tôi đă kể câu chuyện trên nhằm trả lời câu
hỏi "Điều ǵ c̣n làm ông nhớ Sài G̣n nhất"?
- Tôi không biết, ông Patrick ạ! Sau 6 năm tù đầy trở về, tôi hỏi
thăm người Xóm Lách, được rơ là bà mẹ c̣n sống, và người con vẫn
biệt tăm...
- Anh ta đi đâu?
- Tôi nghĩ rằng anh ta đi làm cuộc chiến đấu mới, không cần viện trợ
Mỹ, cố vấn Mỹ và lính Mỹ. Dân tộc tôi cần thiết cuộc chiến đấu mới
mẻ này.
- Tại sao?
- Nó mới đích thực là cuộc chiến đấu của dân tộc tôi nhằm tiêu diệt
chế độ cộng sản, chủ nghĩa cộng sản để giành lại tự do, dân chủ, độc
lập cho Việt Nam. Cuộc chiến đấu mới của dân tộc tôi loại bỏ hết tay
sai của Mỹ, của ngoại bang. Như thể, chúng tôi gọi là một cuộc chiến
đấu có chính nghĩa, tuy cô đơn, lăng mạn nhưng tổ tiên chúng tôi đă
lăng mạn, cô đơn chiến đấu.
- Rất đẹp, rất cao quư.
- Ông ủng hộ cuộc chiến đấu mới của chúng tôi chứ?
- Vâng, tôi hết ḷng.
Số báo đặc biệt của La libération, một tờ báo khuynh tả, xuất bản
ngày 30-4-1985 viết về Việt Nam đă như gáo nước lạnh hắt vào mặt
đảng Cộng Sản và nhà nước xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Số báo này có
đăng thêm một đoạn trong bài thơ Sài G̣n ra đường của tôi trên trang
nhất.
***
19 người lính đi tới đâu, đi về đâu, tôi không biết. H́nh ảnh bi
thảm của họ khiến ḷng tôi se lại nhưng cũng sưởi ấm tâm hồn tôi. ít
ra, tôi c̣n được tự hào là người Sài G̣n, người miền Nam. 19 người
lính quốc gia đă anh dũng chiến đấu cho tới phút giây nghe lệnh đầu
hàng. Vẫn 19 người lính này, biểu tượng của quân lực Việt Nam Cộng
Ḥa bất khuất, tháo bỏ quần áo Mỹ, giầy nón Mỹ, tiếp tục chiến đấu
sau lệnh đầu hàng. Tôi đă thèm sống hèn, càng thèm sống hèn hơn. Để
nói lên được cái hào hùng của người lính, cái tâm sự năo nề của
người lính, những con người không được phép chiến thắng, những con
người bị tước đoạt quyền chiến thắng cộng sản. Thế giới đă không có
hân hạnh nh́n 19 chiến sĩ Việt Nam. Thế giới đă không có hân hạnh
nghe người lính giă từ mẹ ḿnh lên đường nhập cuộc chiến đấu mới.
Thế giới, cái thế giới mù ḷa, điếc, ngọng đă bảo chúng ta thua trận
đă miệt thị quân đội chúng ta tan hàng bệ rạc. Tôi đợi, tôi đă đợi,
tôi đang đợi những kẻ tự nhận ḿnh sống hùng viết những trang tâm sự
của người lính sau 30-4-1975.
Thú thật, tôi đă chai lỳ từ dạo cắm sừng nhọn vào đầu đề đương đầu
với cuộc đời và người đời. Thế mà tôi c̣n khóc được hôm nay, khóc
như kẻ mau nước mắt nhất. Giống hệt người mẹ anh lính, tôi cũng mắt
đẫm lệ nh́n theo anh ta.
- Buồn quá hả, Long? Côn hỏi.
- Buồn hơn một chuyện t́nh buồn trong tiểu thuyết. Tôi nói.
- Nếu mày c̣n sống và có cơ hội viết nhỉ?
- Ở đâu?
- Mỹ.
- Ông mơ mộng hơn cả tôi rồi.
- Sống phút nào mơ mộng phút ấy.
11 giờ, đường Công Lư nườm nượp những người đầu trần, chân đất, quần
xà lỏn, áo thun cắm cúi rảo bước. Nhiều người chạy. Đó là lính, là
sĩ quan của chúng ta. Họ đă liệng súng đạn. Họ về nhà ḿnh, nhà thân
nhân của ḿnh. Khuôn mặt họ, sự sợ hăi pha trộn sự phẫn nộ. Dân
chúng hai bên đường im lặng. Không một nụ cười rè bỉu. Không một ánh
mắt khinh khi. Người ta đă thù ghét chế độ, thù ghét Nguyễn văn
Thiệu và tập đoàn thống trị tôi mọi cùng đám tướng lănh dốt nát,
hống hách nhưng chẳng bao giờ người ta thù ghét quân đội* . Chỉ
thiếu những tiếng hoan hô nồng nhiệt, những tràng pháo tay bất tận
như những lần quân ta chiến thắng sau mỗi chiến dịch trở về thành
phố. Tiếng nhạc quân hành, tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay, lúc này, là
tiếng vỡ của trái tim, tiếng nứt của mạch máu, tiếng rơi của nước
mắt. Lúc này, cả thành phố thấy ḿnh chiến bại, cả thành phố chia xẻ
nỗi đau chiến bại, bởi v́, những kẻ đầu trần, chân đất, quần xà lỏn,
áo thun là anh, là chồng, là cháu, là em của người Sài G̣n. Của Sài
G̣n. Có phải khi người ta đă quá sợ chết th́ người ta hết biết ḿnh
sợ chết? Tôi bỗng quên nỗi sợ chết của tôi. Hoặc là tôi đă chết rồi,
linh hồn tôi đậu trên chân đất của người lính t́m về nhà ḿnh. Người
lính ấy, hai mươi năm ṛng ră đứng giữa biên giới sống chết, hai
mươi năm chưa một lần cúi đầu, nửa tiếng đồng hồ trước vẫn ngẩng mặt
và, lúc này... Tôi hết biết ḿnh sợ chết. Hơn cả thế, tôi biết ḿnh
nên sống hèn, không nên sống hùng để cùng bị chết hèn lăng nhách.
- Côn!
- Hả?
- Ông nhớ sau hôm đảo chính 1945 chứ?
- Nhớ.
- Thực dân Pháp đă chạy dài, đă lột bỏ quần áo, giày vớ, đă chân
đất, đội nón mê cắm cúi bước. Đă bị phát xít Nhật truy lùng.
- Chúng ta đứng bên kia cầu Bo nh́n các ông Tây kéo xe ḅ chở đất,
các bà Đầm khóc sướt mướt và phát-xít Nhật cười hoan hỉ.
- A, chúng ta đă vỡ lẽ chiến bại và chiến thắng từ năm mười tuổi.
Chúng tôi trở vào nhà, đóng cổng kỹ lưỡng. Chuông điện thoại reo
vang. Tôi nhấc máy.
- Alô, alô, tôi muốn nói chuyện với Duyên Anh.
- Chính tôi.
- Phạm Lê Phan đây...
Phạm Lê Phan, nhà văn, nhà thơ, tác giả nhiều truyện ngắn đăng rải
rác trên các tạp chí Bách Khoa, Chi Đạo từ 1960 là bút hiệu của
Thượng Sĩ Phạm văn Kiệm, phục vụ tại Cục Tâm Lư Chiến. Anh ta đă
viết thi phẩm Chiến Ca Mùa Hè mà Phạm Duy phổ nhạc. Chiến Ca Mùa Hè
như những trang quân sử bằng thơ ghi lại mùa hè đỏ lửa.
- Mày chạy không thoát à?
- Ừ.
- Tao gọi bạn bè, chẳng c̣n thằng nào. May quá, c̣n mày.
- May cái con c...? Mày chưa về nhà ư?
- Về hả? Tao là thượng sĩ nhưng là chiến sĩ, hơn cả, tao là kẻ sĩ.
Tao đại diện quân lực Việt Nam Cộng Ḥa chuẩn bị tiếp xúc với Việt
Cộng.
- Cục mày hết người... lớn rồi à?
- C̣n mỗi ḿnh tao. Tao là tân cục trưởng. Cục trưởng cút lâu rồi.
Cục Phó Phan Trọng Thiện vừa về... nhà.
- Mày cũng nên về đi.
- Tại sao tao lại phải về? Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu
Thị Nghè. Tao thủ trái lựu đạn, ngồi tại văn pḥng cục trưởng Cục
Tâm Lư Chiến thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị của Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa. Chai whisky trên bàn vơi quá nửa rồi. Ông tu chất cay.
Bọn nó vào mà tử tế, ông giao Cục, dở tṛ hỗn láo, ông cho lựu đạn
nổ... Tao sẽ gọi mày sau. Thôi nhé!
Người lính văn nghệ, Thượng Sĩ Phạm Lê Phan không muốn Cộng Sản vào
Cục Tâm Lư Chiến như vào nhà hoang. Anh ta ngồi đợi kẻ thù tới tiếp
thu. Không c̣n cấp bậc và huy chương nào tưởng thưởng anh ta cả. Anh
ta có quyền về nhà, được phép về nhà ḿnh mà không ai dám kết tội
anh ta đào ngũ hèn nhát. Nhưng mà "lính văn nghệ đang chơi nhau dữ
dội ở cầu Thị Nghè." Anh ta kiêu hănh nói "tại sao tao phải trở về"?
Sẽ chẳng một ai đủ liêm sỉ bắt chước Phạm Lê Phan tự vấn ḷng ḿnh
"Tại sao tôi lại đào ngũ". Tôi ngồi hút thuốc, chờ điện thoại của
Cục trưởng Tâm Lư Chiến: Thượng sĩ Phạm văn Kiệm.
XÁC T-54 BÊN KIA CẦU THỊ NGHÈ
"Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè". Tôi biết rơ
những người lính ấy. Họ là nhà báo vô danh, là kép cải lương thứ
yếu, là ca sĩ tân nhạc hạng xoàng. Họ c̣n là thanh niên Chợ Lớn,
thanh niên con nhà giàu sợ hăi chiến trường, được ẩn thân ở Cục Tâm
Lư Chiến dưới sự "bảo trợ" của tướng bà Cao Văn Viên. Hai hạng người
dưới, lương quân đội lĩnh xong phải cộng thêm tiền gia đ́nh nộp cho
người bảo trợ hàng tháng, chưa kể khoản tiền nặng ra mắt và được
chấp thuận bảo trợ. Lính văn nghệ cơ hữu của Cục Tâm Lư Chiến chỉ có
bổn phận canh gác giữ an ninh cho Cục ngày và đêm. Sự canh gác mang
tính cách tŕnh diễn, dù đă học 9 tuần quân sự ở Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung. Ṿng đai an ninh của Cục bé nhỏ. Đă có lực lượng
bảo vệ an ninh của Cục An Ninh Quân Đội, của Đài phát thanh Sài G̣n
lo giùm hết. Vậy bên đây cầu Thị Nghè, kế sát Cục, là nơi lính văn
nghệ canh gác ban đêm để bảo vệ đài phát thanh quân đội, ṭa soạn
nhật báo Tiền Tuyến, văn pḥng của các quan văn nghệ... Nói ra hơi
buồn, lính văn nghệ gác cầu, chỉ nhằm tŕnh diễn tinh thần kiểng và
tạo oai phong cho các quan Tâm Lư Chiến chơi x́-phé, mạt chược những
đêm trực.
Truyện kể về những người lính văn nghệ gác cầu Thị Nghè sáng
30-4-1975 như sau:
Xe tăng cộng sản vào thành phố Sài G̣n để vô Dinh Độc Lập bằng hai
ngả. Ngả thứ nhất: Từ ngă tư xa lộ Hàng Xanh, T-54 của cộng sản chia
đôi. Không nhiều ǵ đâu. Có 10 chiếc thôi. 5 chiếc rẽ phải vô Hàng
Xanh, qua đường Bạch Đằng, qua đường Chi Lăng, Vơ Tánh Phú Nhuận,
bọc lên đường Cách Mạng, Công Lư. 5 chiếc rẽ trái vô Thị Nghè, qua
cầu, qua đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, qua đường Thống Nhất. Chiếc thứ
nhất bị lính văn nghệ chặn đánh ở bên kia cầu. Với súng M- 16, lính
văn nghệ đă nhắm T-54 mà khạc đạn. Lúc ấy, 10 giờ 45 phút, sau lệnh
đầu hàng của Dương văn Minh 15 phút. Lính văn nghệ đă gây cảm hứng
cho quần chúng. Sự phẫn nộ nổi lửa, nhiệt t́nh và ḷng tự phụ của
tuổi trẻ Thị Nghè bốc phừng phừng. Bất chấp cái chết, thanh niên Thị
Nghè đă viết những trang sử đấu tranh mới bằng những chai xăng châm
lửa ném tới tấp vào T-54 của kẻ thù. Lửa cháy trên nóc T-54. Lửa
cháy dưới T-54. Lửa cháy xích T-54. Lửa cháy đàng trước T-54. Lửa
cháy đàng sau T-54. Lửa Thị Nghè bất khuất. Lửa Thị Nghè của Sài
G̣n. Ngọn lửa tiên phong của cuộc chiến đấu mới. Chiếc T-54 dẫn đầu
đứng khựng. Nó bất động. Năm người bộ đội xe tăng, công cụ tội
nghiệp của Cộng Sản, đă chết thảm dính chùm trong một sợi xích khốn
kiếp. Đă chết mà không biết ḿnh bị mê hoặc:
Năm ngón tay trên một bàn tay
Như năm người con cùng một mẹ
Năm ngón tay trên một bàn tay
Không xa rời nhau
Như năm người con cùng một mẹ
Năm người bộ đội trong xe tăng
Như năm ngón tay trên một bàn tay
Như năm người con cùng một mẹ
Không xa rời nhau
Sống bên nhau và chết bên nhau*
Một chiếc T-54 bị bốc cháy. Là thừa thắp sáng cuộc chiến đấu mới. Là
thừa mở mắt thế giới đui mù. Bốn chiếc sau phải dừng lại, ngơ ngác.
Kẻ thù hoảng sợ. Nó hung hăn khạc đạn. Nó trấn áp. Nó vất vả qua cầu
Thị Nghè. Hà Nội phải hiểu họ không có đại thắng. Bởi v́, theo Ngô
Khởi, chiếm được đất mà không chiếm nổi ḷng người th́ không bao giờ
chiến thắng cả. Xác chiếc T-54 nằm nhục nhă bên kia cầu Thị Nghè
trọn ngày 30-4 và những ngày kế tiếp là biểu tượng bất hủ của lịch
sử ṇi giống và của quân sử Việt Nam Cộng Ḥa.
Tôi nhớ đă xem một phim, h́nh như tên phim là El Alamein do
Frederick Stafford thủ vai đại úy quân đội Ư, diễn tả một trận đánh
tuyệt vọng giữa đám quân đồn trú ở sa mạc Phi Châu với đạo quân xe
tăng của Tướng Montgomery lừng danh Anh Quốc. Tăng của tướng
Montgomery đă phơi xác lớp lớp. Và rồi, kẻ chiến thắng đă nghiêng
ḿnh kính cẩn chào tinh thần chiến đấu quả cảm tới phút chót của kẻ
chiến bại. Người Cộng Sản, chắc chắn, thiếu sự hào sảng đó. Và, tôi
c̣n thấy, thiếu cả những trang sách vinh tôn những người lính văn
nghệ đă chết hay vẫn sống đă hạ chiếc T-54 của Cộng Sản bên kia cầu
Thị Nghè buổi trưa ngày 30-4-1975 của những ông quan văn nghệ tự cho
ḿnh sống hùng trong ngục tù cộng sản rồi thoát ra ngoại quốc. Tôi
cố t́m ở hồi kư dầy cộm của họ. Chẳng thấy ǵ ngoài sự kể khổ, lên
án Cộng Sản man rợ và phô diễn cung cách sống bần tiện của ḿnh.
Duyên Anh
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi