PHẠM TÍN AN NINH.
(Đặc biệt tặng các bạn Thiết Đoàn 3/KB và
tưởng niệm Trung Tá Trần Lư Hưng)
Đúng vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tư (1972) khi chuẩn bị cho buổi tiệc
khao quân tất niên tại bản doanh Sông Mao, đơn vị tôi nhận lệnh phải
di chuyển gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái,
thành lập một Chiến Đoàn Đặc Nhiệm, thay thế vị trí của một Lữ Đoàn
thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước và làm lực
lượng trừ bị ứng chiến cho Quân Đoàn. Thời điểm này, chúng tôi đă có
một tiểu đoàn (1/44) ở An Khê, tăng phái cho Thiết Đoàn 3/KB từ hơn
hai tháng trước.
Theo khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, giai đoạn đầu,
Chiến Đoàn phối họp với Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn, hành quân tảo thanh
tiêu diệt các lực lượng địch nằm sâu dọc theo hai bên QL-19 và đảm
trách giữ an ninh lộ tŕnh con đường huyết mạch này từ chân Đèo An
Khê đến Pleiku, để kịp thời cho các nhu cầu chuyển quân, tiếp tế lên
chiến trường Pleiku và Kontum. Thời gian này Sư Đoàn 22/BB tại B́nh
Định đang bổ sung quân số quân dụng, chuẩn bị di chuyển lên Tân Cảnh
để đối phó với t́nh h́nh đột biến. Một lực lượng lớn Cộng quân từ
miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên giới, tăng cường cho Mặt
Trận B-3 của Tướng CS Hoàng Minh Thảo, trong ư đồ đánh chiếm Tây
Nguyên.
Ông c̣n nhắc nhở chúng tôi, những khúc quanh từ An Khê đến Đèo Mang
Yang là đoạn đường đầy hiểm nguy, tử địa, mà trước kia, tháng 6 năm
1954, Lữ Đoàn 100 Cơ Động, gồm nhiều đơn vị thiện chiến của quân đội
Pháp đă phải thảm bại gần như tan ră, khi bị một lực lượng Việt Minh
phục kích. Vị Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng và rất nhiều sĩ quan đă bị bắt
sống, gây chấn động cả Đông Dương và nước Pháp.
Buổi tiệc khao quân tất niên bị hủy bỏ, thực phẩm được nhanh chóng
phân phát cho binh sĩ và trại gia binh. Chúng tôi rời bản doanh Sông
Mao lúc 12 giờ trưa. Chi Đoàn 2/ 8 TK tăng phái hộ tống lực lượng bộ
binh đến Đèo Cả, ranh giới tỉnh Phú Yên. Sau đó được lực lượng Thiết
Kỵ của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn mở đường và đón đơn vị chúng tôi từ
Đèo Cả đến Đèo Cù Mông, B́nh Định. Nghỉ đêm và đón giao thừa tại Vạn
Giă, sáng hôm sau tiếp tục di chuyển. Chúng tôi đến căn cứ An Khê
lúc 4 giờ chiều ngày mồng một Tết.
Bộ Chỉ Huy “Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 44” được nhanh chóng thành h́nh.
Trung Tá Trần Quang Tiến, Trung Đoàn Trưởng 44/BB là Chiến Đoàn
Trưởng, Trung Tá Trần Lư Hưng, Thiết Đoàn Trưởng TĐ. 3/KB là Chiến
Đoàn Phó. Cá nhân tôi đảm trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn. Một toán
liên lạc của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn, do một vị Đại Tá chỉ huy, được
đặt bên cạnh BCH Chiến Đoàn. Ngoài Thiết Đoàn 3/KB, Chi Khu An Túc
và hai tiểu đoàn Địa Phương Quân của TK B́nh Định cũng được đặt dưới
quyền chỉ huy, điều động của Chiến Đoàn.
Chúng tôi rất vui khi được hành quân phối họp với Thiết Đoàn 3/KB,
khi biết đơn vị Thiết Kỵ này được mang biệt danh “Thiên Mă”, là một
trong bốn Trung Đoàn Thiết Giáp đầu tiên của Quân Lực, hậu thân của
Trung Đoàn 3 Thám Thính, thành lập từ năm 1954 tại Bắc Việt, là một
đơn vị Thiết Kỵ quá dạn dày trong chiến trận, và từng tạo nhiều
chiến công hiển hách tại các chiến trường vang tiếng một thời:
Pleime, Đức Cơ (1965), An Lăo (1965) Bồng Sơn (1966), Trà Bá- Tết
Mậu Thân tại Pleiku (1968) Dakto, Ben Het (1971). Khi ấy, Thiết Đoàn
đă sáu lần được tuyên dương công trạng trước Quân Đội, nên tất cả
các kỵ binh đều mang giây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương (*).
Đặc biệt năm 1970 được Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng Huy chương
President Unit Citation.
Ba hôm sau, Chiến Đoàn được lệnh tổ chức một cuộc hành quân khẩn
cấp, giải tỏa hai căn cứ cấp đại đội của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn trú
đóng, nằm trên Đèo An Khê, vừa bị một lực lượng Công quân khá hùng
hậu bất ngờ tấn công và đang vây hăm. Nhờ công sự rất kiên cố, nên
bọn chúng không thể chiếm được mà chỉ bao vây, gây thiệt hại cho
quân sĩ trú pḥng và tạo gián đoạn cho việc lưu thông trên QL 19.
Hai căn cứ này nằm trong khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại
Hàn. Sư Đoàn này đă phái một lực lượng tiếp ứng, nhưng bị phục kích,
thiệt hại khá nặng. Lực lượng địch được uớc tính gồm hai tiểu đoàn
và một đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng.
Nhờ hỏa lực hùng hậu và những kỵ binh dũng cảm trên các chiến xa
M-113 của Thiết Đoàn 3/KB, cùng các phi công tài ba gan dạ thuộc Phi
Đoàn Mănh Sư 243 (Phù Cát), sau những kế hoạch nghi binh, tạo các
băi đáp giả, lừa địch rất hiệu quả, từng đại đội bộ binh được tuyển
lựa ra các binh sĩ trẻ, trang bị nhẹ, đổ xuống, vừa khép ṿng vây
vừa ngăn chặn lực lượng tăng viện của địch. Đại Đội 44 Trinh Sát nổi
danh thiện chiến, với hai toán Viễn Thám được trang bị mặt nạ chống
hơi ngạt, chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống ngay sau lưng địch,
từng toán nhỏ lao vào tấn công bằng hơi cay, lựu đạn, và cả M-72,
dưới sự yểm trợ chính xác hữu hiệu của các trực thăng vơ trang,
nhanh chóng tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch ở hai bên dốc đèo,
làm đầu cầu cho lực lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng thiết, đồng
loạt tấn công, nhanh chóng làm chủ chiến trường. Chỉ trong ṿng hai
tiếng đồng hồ, cả hai căn cứ đă được giải tỏa, địch quân tháo chạy,
bị các đơn vị bao vây tiêu diệt, có mấy tên bị ta bắt sống. Chiến
Đoàn đă ghi một chiến tích vẻ vang cho đầu năm mới.
Sáng hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, và Tưóng
Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam từ Sài g̣n bất ngờ bay ra An
Khê quan sát chiến trường và ngợi khen các đơn vị tham chiến. V́ lư
do an ninh, không được báo trước, nên chỉ có vị Chiến Đoàn Trưởng,
Chiến Đoàn Phó, Trung Tá Cố Vấn Mỹ,vị Đại Tá Đại Hàn, đại diện Sư
Đoàn Mănh Hổ và cá nhân tôi (tháp tùng) ra đón hai ông Tướng tại sân
bay. Sau đó dùng hai trực thăng, cùng bay xuống viếng thăm BTL/Sư
Đoàn Mănh Hổ, tại B́nh Định.
Ngày 24.4.72, Tân Cảnh thất thủ, khi BTL/SĐ22BB bị địch quân tràn
ngập, Đại Tá Lê Đức Đạt, vị Tư Lệnh liêm sĩ và khí phách đă cùng
đồng đội chiến đấu tới giây phút cuối cùng, và chấp nhận vùi thây
nơi chiến địa, Trung Đoàn 44 chúng tôi có lệnh di chuyển khẩn cấp
lên phi trường Cù Hanh, Pleiku để được không vận lên Kontum.
Chúng tôi ở An Khê chỉ gần ba tháng. Ba tháng cùng sinh hoạt và hành
quân chung với Thiết Đoàn 3/KB. Nhưng từ vị Thiết Đoàn Trưởng đến
tất cả các sĩ quan tham mưu và ở các Chi Đoàn đă để lại trong ḷng
chúng tôi sự kính mến vô bờ. Tôi nghĩ, có lẽ nhờ những đức tính của
Trung Tá Trần Lư Hưng, một vị sĩ quan thâm niên, vốn xuất thân từ
Trường Thiếu Sinh Quân với truyền thống“Nhân Trí Dũng”, nên đă tạo
được một không khí thắm đẫm t́nh huynh đệ. Những kỵ binh ở Thiết
Đoàn 3/KB đă rất may mắn, dù gian khổ hiểm nguy, nhưng được sống
trong không khí thân t́nh, dễ thương đáng quư ấy, và đặc biệt có một
cấp chỉ huy b́nh dị, hiền lành đức độ.
Cá nhân tôi chỉ là một sĩ quan của một đơn vị bạn, cùng hành quân
hổn hợp, nhưng ông luôn dành cho những t́nh cảm gần gũi, thân t́nh,
quí mến tôi như người anh đối với một đứa em trong gia đ́nh. Mỗi
đêm, ông đều rủ tôi cùng đi một ṿng với ông, kiểm tra các vọng gác
trong căn cứ khá rộng lớn này. Ông rất quan tâm việc pḥng thủ, bởi
hai tuần trước khi chúng tôi đến, một toán đặc công Việt Cộng hóa
trang nấp dưới những cánh lục b́nh trôi theo con sông bên cạnh căn
cứ, bất ngờ xâm nhập, tấn công chiếm một phần vị trí của Pháo Đội
A/233 Pháo Binh, phá hoại một khầu 105 ly và làm thiệt mạng Đại úy
Lê Hữu Chí, Pháo Đội Trưởng. Nhưng ngay tức khắc, bọn chúng đă bị
lực lượng Thiết Giáp của Thiết Đoàn và Tiểu Đoàn 4/44 ( đă được tăng
phái từ trước cho Thiết Đoàn) kịp thời phản công, bao vây tiêu diệt
gần như toàn bộ, những tên c̣n sống đều bị bắt. Ông tỏ ra rất buồn
về sự kiện này.
Là một sĩ quan có thâm niên quân vụ từ khi mới mười lăm tuổi đời ở
Trường Thiếu Sinh Quân Đông Dương Vũng Tàu, rồi sau đó tốt nghiệp
với cấp bậc thiếu úy từ Trường Vơ bị Địa phương Nam Việt Vũng
Tàu,(Nhạc sĩ Đại Tá Nguyễn Văn Đông thủ khoa khóa này), từng làm
huấn luyện viên cho Trường Vơ Khoa Thủ Đức và được tôi luyện trong
Binh chủng Thiết Giáp hào hùng, Trung Tá Hưng là một cấp chỉ huy
thao lược, tài đức vẹn toàn.
Ngay từ buổi gặp gỡ ban đầu, h́nh ảnh của ông đă in đậm nét trong
ḷng tôi, khi thấy ông đứng nghiêm đưa tay lên chào ông Trung Đoàn
Trưởng của tôi theo đúng lễ nghi quân cách. Mặc dù cả hai đều mang
cấp bậc trung tá, không biết vị nào thâm niên hơn, nhưng ông chào
với danh nghĩa là một Chiến Đoàn Phó tŕnh diện ông Chiến Đoàn
Trưởng. Cử chỉ ấy đă làm cá nhân tôi và chắc chắn hầu hết các sĩ
quan của đơn vị tôi thán phục .
Mỗi buổi chiều, khi không bận hành quân, ông đều gọi tôi đến nhà ông
dùng cơm. Gia đ́nh ông ở một căn nhà gỗ trong căn cứ, do đơn vị Hoa
Kỳ giao lại. Trên sân thượng có mấy chậu hoa quỳnh. Ông có thú trồng
hoa, nhưng chỉ duy nhất có hoa quỳnh, nên rất am tường về loại hoa
nở về đêm, và sớm nở tối tàn này. Nh́n nụ hoa, ông biết khi nào,
chính xác hơn là giờ khắc nào, hoa sẽ nở. Mỗi kỳ hoa nở, sau khi
cùng đi kiểm soát việc pḥng thủ trong căn cứ, ông rủ tôi ghé lại
nhà ông uống rượu (thuốc) và chờ đến nửa khuya để xem hoa quỳnh nở.
Ông rất thích thú và trân quư những giờ khắc khi nh́n một cánh hoa
quỳnh bắt đầu nở và từ từ bung ra . Đời lính, với ông, ngoài đánh
đấm, có lẽ đây là cái thú tiêu khiển duy nhất. Ông thường đem binh
pháp trong Tam Quốc Chí phân tích cho tôi nghe, và bảo đó là những
bài học rất hay để dụng binh. Một lần vợ tôi dẫn theo hai đứa con ra
thăm, ông nhất quyết đón về ở chung nhà với ông và bảo vợ ông lo cơm
nước. Tôi đi với vợ, tay xách theo hành lư, c̣n ông hai tay dắt hai
đứa nhỏ, con tôi. Sau đó bọn nó cứ chạy theo đùa giỡn với ông. H́nh
ảnh đẹp đẽ ấy măi in đậm trong ḷng, tôi không thể nào quên được.
Vợ ông, chị Nguyễn Thị Công Nữ, rất b́nh dị hiền lành, không bao giờ
xen vào công việc của chồng ḿnh, và là một người nội trợ đảm đang.
Tôi thích nhất là món cá kho tộ của chị làm. Chị vốn là một nữ sinh
rất nhu ḿ ở Chợ Nhỏ, Vùng Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức, nơi một thời
chàng sĩ quan trẻ Trần Lư Hưng làm huấn luyện viên cho Trường Vơ
Khoa Thủ Đức và sau đó là Trường Thiết Giáp. Một mối t́nh đẹp xảy ra
ở vùng đất hiền ḥa nhưng rất nổi danh này, bởi có rất nhiều chàng
trai trẻ, bỏ sách đèn hội tụ về đây để theo viêc kiếm cung, sẵn sàng
hy sinh để bảo vệ quê hương, đất nước.
Ngày chia tay để cùng đơn vị di chuyển lên chiến trường Kontum, ông
Trung Đoàn Trưởng và tôi được Trung Tá Hưng mời đến ăn bữa cơm cuối
cùng với ông. Ḷng tôi thật buồn như sắp phải chia tay một người anh
thân quí nhất. Trước giờ đơn vị tôi chuyển quân, ông đă đến tiễn
đưa, bắt tay ôm lấy từng người trong anh em chúng tôi. Ai nấy đều
lưu luyến cảm động. Tôi ôm ông mà giấu đi những giọt nước mắt. Nếu
ai không từng là lính chiến, có thể không hiểu được những t́nh cảm
đệ huynh của chúng tôi dạt dào như thế.
Chỉ một ngày sau khi rời An Khê đến Kontum, đơn vị chúng tôi đă tạo
một chiến thắng lẫy lừng khi đánh tan một lực lượng chiến xa và bộ
binh địch thuộc Sư Đoàn Thép 320 CS từ Tân Cảnh tràn xuống với ư đồ
chiếm lấy Kontum. Lần đầu tiên tại chiến trường Quân Khu 2, chúng
tôi bắn cháy sáu chiếc, và bắt sống ba chiến xa T-54 của địch. Tướng
Nguyễn Văn Toàn, vừa nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, cũng đă rất
xứng đáng là một vị tướng Kỵ Binh, khi đứng trên một M-113, đầu đội
bê-rê đen, đến thăm chúng tôi, quan sát chiến trường đang c̣n đầy
khói lửa, và gắn cấp bậc Đại tá vinh thăng cho vị Trung Đoàn Trưởng
ngay tại mât trận. Và chúng tôi rất bất ngờ khi nghe tiếng Trung Tá
Trần Lư Hưng t́m vào tần số đặc biệt của đơn vị gởi lời chúc mừng và
khích lệ anh em. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, nghĩa cử ấy đă làm
chúng tôi cảm động. Nhưng chỉ sau đó vài tuần, chúng tôi lại được
tin ông bị thương khi chỉ huy Thiết Đoàn bất ngờ đánh vào Tây Chư
Pao. Để hoàn thành nhiệm vụ then chốt này, Thiết Đoàn 3/KB đă cùng
BĐQ xuyên rừng dọc theo con đường bỏ hoang 14 bis, đánh vào sau lưng
đơn vị cộng quân đang chế ngự đèo Chư Pao, bắt tay được với Đại đội
44 Trinh Sát của chúng tôi, và thành công phá vỡ tuyến bao vây phía
Nam Kontum, giải tỏa Quốc Lộ 14, con đường huyết mạch từ Pleilu đến
Kontum để cho các đoàn xe lên tiếp tế đạn dược và thực phẩm cho đơn
vị chúng tôi.
Sáu tháng sau, t́nh h́nh Kontum tạm yên, khi các đơn vị địch bị
thiệt hại nặng nề, cần phải có thời gian ẩn quân để tái bổ sung,
Trung Đoàn chúng tôi đặc biệt được Tướng Tư Lênh Quân Đoàn cho về
nghỉ dưỡng quân một tháng tại Đồi Đức Mẹ Pleiku, như là phần thưởng
dành cho một đơn vị góp nhiều chiến công và xương máu nhất để tạo
nên một “Kontum Kiêu Hùng”. Chúng tôi đă t́m đến thăm ông. Lúc này
ông không c̣n ở Thiết Đoàn 3/KB mà vừa được chuyển về làm Chỉ Huy
Trưởng Trường Thiếu Sinh Quân Pleiku (Cao Nguyên), nơi những em TSQ
Kinh Thượng nối nghiệp ông để trở thành những cấp chỉ huy lỗi lạc
sau này.Và với cương vị mới, ông càng xứng đáng là một vị “sư huynh”
hết ḷng d́u dắt, yêu thương em út, đem bao nhiêu kinh nghiệm chiến
trường và cả t́nh “huynh đệ chi binh” tô đậm thêm nét son truyền
thống “ Nhân Trí Dũng” của Thiếu Sinh Quân..
Gặp lại chúng tôi ông mừng rỡ, ôm lấy từng người. Nhưng mắt ông bỗng
nḥa lệ, khi nhắc tên hai người bạn thân của chúng tôi đă hy sinh
trên chiến trường Kontum. Thiếu Tá Vơ Anh Tài và Thiếu Tá Đặng Trung
Đức, hai anh tiểu đoàn trưởng mà ông hằng quí mến khi hành quân
chung với Thiết Đoàn 3/KB ở An Khê. Điều làm chúng tôi bất ngờ và
cảm động hơn, khi ông lấy từ trên bàn thờ Phật, đưa cho chúng tôi
xem tờ giấy có ghi ngày tử trận của hai anh cùng với một số bạn bè
và thuộc cấp của ông, và bảo là ông sẽ thắp hương cầu nguyện cho hai
anh mỗi năm khi đến ngày này. Một nghĩa cử thật hiếm hoi của một cấp
chỉ huy từ một đơn vị bạn mà chúng tôi may mắn được hành quân chung
chỉ trong ṿng ba tháng.
Trong thời gian chúng tôi ở An Khê, Thiết Đoàn 3/KB chỉ có 2 chi
đoàn. Lúc ấy Chi Đoàn 1/3 CX biệt phái cho Quân Đoàn I, kể từ khi
tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào.
Trong Thiết Đoàn, chúng tôi có dịp gặp Thiếu Tá Nguyễn Văn Đêm,
Thiết Đoàn Phó. Anh là người ít nói, nhưng nổi tiếng về sự can đảm
và tài điều quân từ khi c̣n là một Chi Đội Trưởng. Sau này anh về
chỉ huy Thiết Đoàn 8/KB, trực thuộc Sư Đoàn 23 BB của chúng tôi. Sau
các cuộc hành quân, chúng tôi cũng thường đi chơi chung hay ngồi tán
gẫu với bạn Trương Gia Lương, một sĩ quan trẻ giữ chức vụ Trưởng Ban
3 Thiết Đoàn kiêm Chi Đoàn Trưởng 3/3, anh có nhiều khả năng và
tŕnh độ Anh ngữ, được Trung Tá Hưng tin cẩn, cùng các bạn Huỳnh Văn
Mỹ, Nguyễn Văn Hội, Bùi Cán, anh Khôn, anh Phong và một vài bạn nữa
mà v́ thời gian quá lâu, tôi không c̣n nhớ tên. Người nào cũng gan
dạ trên chiến trường và rất vui vẻ thân thiện trong t́nh anh em
chiến hữu.
(Capt. Ferarra- Tr.úy Lương- Tr.Tá Hưng- 2/1972)
Từ ngày rời khỏi An Khê, chúng tôi không có dịp gặp lại những người
bạn Kỵ Binh quư mến này. Nhưng sau đó, vào tháng 4/74, chúng tôi rất
vui mừng biết được anh Huỳnh Văn Mỹ, khi ấy c̣n mang cấp bậc trung
úy, đă chỉ huy Chi Đoàn 2/3 TK, làm nỗ lực chính trong một trận
chiến nổi danh, đánh tan hơn một trung đoàn của Sư Đoàn 2 Sao Vàng
CS, khi bọn chúng chuẩn bị tấn công với ư đồ chiếm lấy Căn cứ Không
Quân Phù Cát, nhằm uy hiếp tỉnh B́nh Định, lợi dụng lúc Sư Đoàn
22/BB, vừa mới hồi sinh sau trận Tân Cảnh, đang phải đối mặt với một
lực lượng lớn Cộng quân tại chiến trường cam go Bắc B́nh Định. Cuộc
phản công đánh phủ đầu tuyệt vời này theo kế hoạch và dưới sự chỉ
huy tài t́nh thao lược của “Mănh Sư” Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường. TK
Phó/TK B́nh Định, tạo một chiến tích lẫy lừng ghi đậm nét son trong
quân sử VNCH.
Tháng 3/ 1975, trong cuộc di tản đẫm máu của Quân Đoàn II theo TL.
7B, đă kéo theo sự sụp đổ miền Nam, khi Lữ Đoàn II/KB bị Cộng quân
bao vây, phục kích , gây thiệt hại nặng nề, Đại Tá Nguyễn Văn Đồng,
Lữ Đoàn Trưởng bị bắt(?). Chỉ duy nhất Chi Đoàn 3/3 do Đại úy Nguyễn
Văn Hội chỉ huy đă anh dũng chiến đấu và đưa toàn bộ chiến xa về tới
Nha Trang, nơi tạm thời đặt BTL/QĐ II (di tản). Anh Hội đă rất xứng
đáng khi được Tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú tiếp đón và gắn cấp bậc
Thiếu Tá, tưởng thưởng công trạng thật xuất sắc của anh. Và có lẽ đó
là người sĩ quan cuối cùng được thăng cấp thiếu tá vào giờ thứ 25
của cuộc chiến.
Riêng Trung Tá Trần Lư Hưng, khi bất ngờ nhận lệnh di tản, ông đă
can thiệp xin cho các em Thiếu Sinh Quân được ưu tiên đi bằng máy
bay, nhưng đến khi phi trường Cù Hanh gần như bị rối loạn, ông vẫn
chưa nhận được một quyết định cụ thể nào. Ông tập trung tất cả các
em lại và đau buồn báo tin “ Pleiku di tản”, khuyên các em nên trở
về với gia đ́nh. Một số TSQ không có gia đ́nh ở Pleiku, ông đă trực
tiếp hướng dẫn, d́u dắt các em, vượt qua bao hiểm nguy chết chóc,
nên có vài nhóm nhỏ bị thất lạc, nhưng cuối cùng đă về đếnTrường
TSQ/Vũng Tàu
Sau ngày tan đàn xẻ nghé, mỗi người trôi dạt một phương, nhưng đều
mang theo cùng một nỗi ḷng và thân phận. Riêng tôi th́ lưu lạc tận
vùng Bắc Âu xa xôi lạnh giá nên lại càng khó có cơ hội để được gặp
lại những anh em đồng đôi cũ ở Thiết Đoàn 3/KB ngày nào, nhưng rồi
tôi đă may mắn liên lạc được với Trung Tá Trần Lư Hưng, và các anh
Trương Gia Lương, Huỳnh Văn Mỹ. Tôi rất cảm động, v́ dù mỗi người
vẫn phải c̣n mang những vết thương không lành được trong ḷng, nhưng
tất cả vẫn c̣n giữ đầy hào khí của những người lính chiến, và nặng
t́nh huynh đệ.
Trung Tá Hưng, sau hơn 9 năm 6 tháng bị đày đọa trong các nhà tù CS,
ông trở về sum họp gia đ́nh vào khoảng gần cuối năm 1984. Ngày
22.10.1996 đến Mỹ theo chương tŕnh HO-44 và định cư tại Houston,
Texas cùng vợ và năm đứa con. Bảy cháu lớn có gia đ́nh c̣n ở lại
Việt Nam.
Được nói chuyện vài lần. Mặc dù sau này sức khỏe ông kém đi nhiều
lắm, nhưng ông vẫn tâm t́nh khá lâu, có lúc ngậm ngùi, nhưng cũng có
lúc tôi nghe được tiếng ông cười, dễ thương độ lượng như ngày nào.
Ông nhắc lại thời trận mạc, nhắc tới đơn vị chúng tôi, ông vẫn c̣n
nhớ tên từng người trong anh em chúng tôi, và dừng lại xót xa khi
chúng tôi nhắc đến một người nào đă không c̣n trên cơi đời này nữa.
Ồng c̣n cười đùa, mỗi lần tôi gọi ông là Trung Tá. Ông bảo,“bộ bạn
không cho tôi được làm anh của bạn nữa hay sao?” Từ hôm ấy, tôi gọi
ông bằng anh Hưng.
Đầu năm 2012, khi biết ḿnh bị ung thư yết hầu trong thời kỳ không
mấy hy vọng vào việc chữa trị, ông đă cùng bà về lại Việt Nam và ở
lại đây gần một năm để vui cùng con cháu, mà ông nghĩ đó sẽ là cơ
hội cuối cùng. Ông đă giấu tôi về căn bệnh hiểm nghèo.Tâm t́nh nhiều
lần nhưng ông chỉ bảo là tuổi già nên hơi mệt. Tôi hẹn sẽ sang thăm
ông vào mùa đông 2013, nhân một dịp đến Mỹ. Nhưng cuộc hẹn đó đă
không thành. Ngày 2 tháng 7 năm ấy ông đă ra đi, để lại cho gia
đ́nh, bè bạn và tất cả những anh em đồng đội cũ ḷng thương tiếc
khôn nguôi.
Vẫn biết thế hệ những người lính ngày nào, giờ cũng đă đến lúc xếp
hàng để chờ đến lượt ḿnh trút bỏ, trả lại cho thế gian này một cuộc
đời tạm bợ với đầy những vui buồn đắng cay, hào hùng vinh nhục;
nhưng sự ra đi của những người như Trung Tá Trần Lư Hưng đă thêm một
lần nữa xác tín lời một bài hát rất xưa mà Tướng Douglas MacArthur
đă dùng trong bài diễn văn đọc trước Lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ,
ngày ông rời quân ngũ: “Những người lính già sẽ không bao giờ chết
mà chỉ mờ đi theo năm tháng – Old soldiers never die, they just fade
aways.”
Xin tạm biệt Anh Trần Lư Hưng, một Kỵ Binh khả kính, mà em vẫn c̣n
nợ Anh món nợ nghĩa t́nh. Hẹn gặp lại Anh ở một nơi không có bom
đạn, chết chóc, hận thù, và cũng không c̣n nghe thấy tiếng xích sắt
của những chiến xa M-113, M-41, M-48 và của cả những T-54,T-59!
Phạm Tín An Ninh
(một người lính Bộ-Binh)
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi