Xa xa tiếng đại bác vẫn không ngừng dội về.
Trời đă về đêm, tướng Lee cho lệnh dừng quân, đặt
bản doanh bộ chỉ huy trong một cánh rừng, gần toà thị xă Appomattox,
nằm vào phía Nam tiểu bang Virginia. Đây là một nơi hẻo lánh, có độ
chừng 20 căn phố, chỉ vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán.
Cuộc nội chiến Hoa Kỳ xảy ra trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống
Lincoln từ 1861 đến 1865, bắt đầu vào ngày 12 tháng 4-1861.
Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền
Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính
phủ liên bang Hoa Kỳ c̣n lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.
Quân đội chính phủ liên bang Hoa Kỳ, do tướng Ulysses Grant chỉ huy,
gọi là quân đội miền Bắc hay quân đội Potomac, lấy tên của ḍng sông
diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông,
cương quyết đ̣i giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp.
Tổng thống miền Nam là ông Davis. Thủ đô là Richmond và quân đội do
tướng Rober Lee chỉ huy được gọi là quân đội Virginia, hay quân đội
miền Nam.
Sáu ngày trước, lực lượng của tướng Lee đă di chuyển không ngừng
nghỉ về dăy núi Blue Ridge, nơi ông từng tuyên bố là quân đội của
ḿnh có thể kiên cường chiến đấu ít nhất là 20 năm. Thế nhưng, đêm
nay, khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu của ông quyết định đóng quân tại
đây th́ tất cả quan quân đều mệt mỏi, sa sút tinh thần. Tất cả hy
vọng của tướng Lee lúc này chỉ c̣n đặt vào John Gordon, một vị tướng
trẻ gan dạ. Hy vọng rằng, sáng sớm ngày mai, lực lượng của tướng
Gordon sẽ tiến quân phá vỡ tuyến bao vây của quân đội miền Bắc.
Khởi từ 5 giờ sáng, từng đợt tấn công của tướng Gordon đă đánh bật
tuyến pḥng thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng đại bác,
và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng sau đó, khi qua phía bên kia đồi, lực
lượng này đă đụng phải hai đơn vị bộ binh dàn quân kéo dài hơn 2
dặm. Lại thêm, từ phía sau là hai đơn vị bộ binh khác đang tiến lên.
Quân lính của tướng Gordon bị vây ép vào giữa, tiến không được, lui
cũng không xong, không c̣n lối thoát nào cả.
Được tin thất trận của tướng Gordon, tướng Lee triệu tập Ban Tham
Mưu để có quyết sau cùng. Trong Ban Tham Mưu có người đề nghị phân
tán để giữ lực lượng và chuyển sang đánh du kích, nhưng tướng Lee
chọn quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao
nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng đành chấp nhận thua cuộc và xin hẹn
gặp nhau.
Nhận được thư chấp nhận đầu hàng của tướng Lee, tướng Grant rất vui
mừng, chuẩn bị đón tiếp tướng Lee. Ông ra lệnh nghiêm cấm các sĩ
quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô
lễ với vị tướng tư lệnh bại trận.
Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, tướng Lee và một đại tá tùy tùng
cưỡi ngựa vượt qua pḥng tuyến đến nơi hẹn ước. Nửa giờ sau, tướng
Grant đến. Ông tự tay thảo điều kiện về đầu hàng trao cho tướng Lee,
như sau:
“ Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải được liệt kê, sắp xếp và
giao nộp cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ
không gồm có vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư
trang của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép
trở về nguyên quán, và sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm
quyền, nếu họ tôn trọng lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa
phương nơi họ cư ngụ.”
Gương mặt lo lắng của tướng Lee giờ tươi hẳn. Qua cam kết của tướng
Grant, ông an tâm khi biết là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của ông
sẽ không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Họ cũng sẽ không bị
bắt giữ và truy tố về tội phản loạn. Ông đồng ư với các điều kiện đề
ra, nhưng tŕnh bày: hiện nay quân đội của ông không c̣n lương thực
và xin cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, v́ lính của ông
đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu; không như quân đội
miền Bắc, ngựa do chính phủ cung cấp.
Nghe vậy, tướng Grant cho biết là không sửa chữa chính thức trên văn
bản nhưng tuyên hứa là sẽ cho lệnh để lính miền Nam được phép đem
lừa ngựa của ḿnh về nhà mà xây dựng lại nông trại, tạo sinh kế. Ông
cũng không ngần ngại hứa hẹn cung cấp 25,000 khẩu phần cho quân đội
miền Nam.
Thi hành văn kiện đầu hàng đă kư kết, ba ngày sau, binh lính của
tướng Lee đi trên con đường hướng về phía Đông rừng Appomattox. Hai
bên đường có quân đội của tướng Grant nghiêm chỉnh dàn chào nghênh
đón, do tướng Chamberlain, thay mặt tướng Grant, chỉ huy nghi thức
tiếp nhận quân đội đầu hàng.
Tướng Gordon, một trong những cận tướng can trường của Đại tướng
Lee, thừa lịnh tướng Lee, hướng dẫn toàn quân đến đầu hàng.
Không thông báo trước và ngoài nghi thức sắp đặt, tướng Chamberlain
ra lệnh cho quân đội của ông thi hành nghi thức chào kính. Kèn lệnh
vang lên, đoàn quân nghiêm chỉnh thi hành, tiếng báng súng đồng loạt
vang lên.
Phía đối diện, tướng Gordon của quân đội đầu hàng, thúc nhẹ con tuấn
mă khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt
trần chúc mũi trân trọng chào đáp lễ. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc
chuyển qua thế bồng súng chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”. Họ
bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa
Kỳ.
Buổi lễ và các thủ tục đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000
người, trao nộp trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược,…
Người chiến thắng cùng người chiến bại đều tôn kính lẫn nhau. Người
đích thực chiến thắng năm 1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ!
* * *
Chiếc GMC, loại quân đội dùng chở quân lính, dừng lại. Tấm bạt che
kín người bên trong xe, mở lên từ phía sau. Ánh mặt trời buổi chiều
bất chợt hắt vào những tù nhân bên trong xe, làm bàn tay đưa lên che
vội bên trên khuôn mặt hốc hác nhễ nhại mồ hôi, đôi mắt hấp háy
tránh né tia sáng chói chang và đột ngột. Hai bộ đội trẻ, rất trẻ,
đứng canh chừng bên lối xuống xe, tay gh́m cây AK với lưỡi lê dài
nhọn đe dọa.
- Cho xuống xe!
Cán bộ “quản giáo” rời buồng lái, tay đeo ṿng cái túi vải qua bên
trái, cho khỏi che vướng cây súng ngắn K54 đeo lủng lẳng bên hong,
ra lệnh. Những người tù lếch thếch nhích dần ra phía sau và mỏi mệt
lần lượt xuống xe. Chân rảo bước về phía sau xe, có vẻ chưa vừa
ḷng, hắn cáu kỉnh hét:
- Khẩn trương lên!
- A!
Bất chợt có tiếng người kêu lên. Hai cái lon sữa Guigoz cột đeo trên
vai anh, rớt xuống, lăn lóc nghe loảng xoảng. Mớ nước uống c̣n sót
trong lon đổ tuôn ra, nhuộm ướt lớp sỏi đất trên sân trại thành màu
đỏ sẫm. Tiếng kêu thảng thốt, khe khẻ, nhưng đủ làm những người
quanh anh cùng cảm nhận. Các bạn tù c̣n trên sân khựng lại, nh́n
xem. Bàn tay trái của anh cầm chặt nơi cổ tay mặt. Mắt anh kinh ngạc
nh́n ngón tay của ḿnh. Lúc xuống xe, chiếc nhẫn trên ngón tay,
không may, máng vào đầu cây đinh ốc bị tuôn và nhô ra bên ngoài
thanh gỗ dựa lưng của băng ghế. Sức nặng của thân thể và tốc độ nhảy
xuống làm ṿng kim loại cắt và tuột trọn da thịt trên ngón tay của
anh quá nhanh, trong chớp nhoáng. Cảm giác thật sự chưa kịp đến. Cái
đau lúc này ít hơn nỗi kinh hoàng khi mắt ḿnh nh́n thấy các lóng
xương ngón đeo nhẫn phơi bày ra trần trụi.
Dùng lưỡi lê trên đầu cây AK ghim chọc vào giữa ṿng kim loại đang
nằm trong nhúm thịt và máu. Đưa chiếc nhẫn máng trên thân lưỡi lê
lên xem:
- Báo cáo cán bộ: chiếc nhẫn này của “ngụy”!
Thực vậy, không cần phải đọc cho được hàng chữ “Trường Vơ Bị Quốc
Gia – Việt Nam”, quanh viên ngọc trên mặt nhẫn; h́nh ảnh con rồng
uốn quanh cây kiếm và bản đồ Việt Nam, quá đủ để quân cộng sản nhận
ra: đây là dấu hiệu liên hệ với Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Bây giờ,
máu tuôn trào. Cảm giác đau nơi ngón tay lúc này thật sự là đau
buốt. Nh́n gương mặt im lặng chịu đựng, của nạn nhân, viên cán bộ
cay cú:
- Cực kỳ ngoan cố! … Cách ly nó!
Quay sang những người tù c̣n đứng gần đó, dợm chân, có ư muốn bước
đến giúp đồng đội của ḿnh, hắn gằn giọng:
- Cấm mọi quan hệ! Cấm cứu thương!... Không băng bó chi cả!
Anh bị giam riêng. Rừng về đêm giá lạnh, ngón tay không thuốc men
hay băng bó càng thêm đau đớn. Cái đau đớn tận cùng không chỉ ở vết
thương!
Đến trưa hôm sau, người ta đem anh ra xe và chở đi…
Sau khi quân cộng sản chiếm trọn miền Nam tự do. Những người lính
miền Nam Việt Nam, những công chức, nhà văn, nhà báo và tất cả những
thường dân bị nhà cầm quyền cộng sản kết tội có liên hệ với chế độ
Tự do của miền Nam, đều bị tống giam vào các trại tù, dưới tên gọi
là “trại cải tạo”. Ngay cả thương binh cũng không thoát khỏi chính
sách trả thù hèn hạ, hiểm độc. Họ bị tống đuổi ra khỏi bệnh viện,
bất kể t́nh trạng thương tích trên người, với vải băng bê bết máu
kéo lê trên mặt đất dơ bẩn.
Năm 1975, Trung tá Vũ văn Sâm, phục vụ tại Trường Sĩ quan Bộ binh
Long Thành. Ông bị cộng sản giam giữ tại Long Giao, rồi chuyển đến
trại tù Tân Hiệp (Biên Ḥa). Ở đây, nhạc sĩ Thục Vũ có sáng tác nhạc
phẩm "Suối Máu" với 8 câu thơ cảm đề của chính ḿnh:
"Em ở Sài G̣n anh ở đây
Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy
Ngẫn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược
Để nhớ nhung về che khuất mây
Tôi vẫn thường đêm thương nhớ con
Thương em t́nh nghĩa vẫn vuông tṛn
Thương ḿnh ray rứt từng đêm trắng
Thương bạn anh trong chuyện mất c̣n”
Cũng v́ lời nhạc thương nhớ bày tỏ t́nh cảm của ḿnh, người viết
nhạc bị quân cộng sản đày đọa lên trại tù Sơn La, ở chốn rừng thiêng
nước độc. Tại đây, Thục Vũ sáng tác thêm nhạc phẩm “Anh Ở Đây”; chỉ
một thời gian ngắn bị giam giữ và gục chết cũng tại nơi đây, vào
ngày 15/11/1976. Tấm mộ bia đơn sơ với đôi hàng nguệch ngoạc "Vũ Văn
Sâm, 1932", được bạn bè ghi lại, cắm làm dấu xác người tù bạc phận
đă phải nằm lại tại trại tù Sơn La.
Người tù Sơn La Nguyễn Quang Tuyến, cũng là nhà văn Văn Quang.
Nhà văn Văn Quang được biết đến qua rất nhiều tác phẩm văn chương.
Bốn tác phẩm được làm thành phim. Chân Trời Tím là phim có rất nhiều
người biết đến, cùng các ca khúc như Nửa Hồn Thương Đau, Chân Trồi
Tím.
Sau năm 1975 ông bị bắt giam hơn 12 năm tù.
Trong bài “Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải Tạo”, nhà văn Văn
Quang có viết về cái chết của bạn tù Vũ Văn Sâm, tức nhạc sĩ Thục
Vũ:
“Anh Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động”
bị ngă găy tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976
khi được đưa ra Sơn La “học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật
là Vũ Văn Sâm, ở cùng đội với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Khi
bệnh t́nh quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá,
chứ ở đây cũng chẳng có thuốc men ǵ chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm
chí mỗi lần lên khám bệnh xong, anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào
tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để “cán bộ y tế” nhỏ cho
vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong. Bệnh nhân nặng chỉ c̣n
việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy.
Một buổi sáng sớm, …
Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi
“đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên
mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:
- Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ
đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc
được nữa”. Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này
cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn c̣n khỏe, vậy mà đêm qua đă
ra đi.
Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất
và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay nó không c̣n biết đói rét
và không ai hành hạ được nó nữa”.
Đám tang Thục Vũ, h́nh ảnh bi thảm nhất trong cuộc đời chúng tôi.
Vào buổi chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu chạng vạng, bất
chợt nh́n sang lối ra từ bệnh xá một khung cảnh hết sức đau ḷng.
Trên con đường đá cũ nhỏ, ṿng theo sườn núi cao vút chập chùng,
cách vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp. Hai
cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén nhang,
đến 4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng lại là 2 cai tù vác
súng AK. Suốt con đường dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ
chuyển động như những bóng ma.
Ở vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo sương mù mỏng
dăng ngang triền dốc dựng đứng như những bức tường đá của nhà giam
thiên nhiên, chẳng cách nào thoát ra được. Chúng tôi biết chắc đó là
đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ. Tất cả hơn ba chục tù nhân
trong đội đứng ngẩn ra, dán mắt nh́n theo cái đám ma thê thảm ấy.
Ông Phan Lạc Phúc, đến bên tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu
nước mắt. Nh́n sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ
trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ ngẩn. Ngân vẫy
tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm ǵ. Là một sự cảm
thông tận cùng hay nói lời từ biệt.
Mấy tay coi tù cũng đứng lặng, nh́n chúng tôi và họ hiểu rằng lúc đó
dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù có bị
bắn tại chỗ. Tất cả đứng như tượng gỗ dơi theo đám tang đi trong
buổi hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường cong phía
chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống…
H́nh ảnh cái đám ma Thục Vũ c̣n in đậm trong tâm khảm chúng tôi cho
đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng chưa quên
được h́nh ảnh này. Nó trở thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng
lại rất chung của những ai đă từng sống dở chết dở qua những cái
được gọi là “trại cải tạo”.
“Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng ngh́n cay
Khúc sắn bát ngô vơi đầy
Sầu nuôi thân xác hao gầy
Bao ngày qua đợi chờ tin vui chẳng thấy
Hận thù yêu thương c̣n đấy
Vui đành như cánh chim bay” *
Cho đến nay, cứ đến ngày 30 tháng 4, đảng cộng sản lại thản nhiên
tưng bừng ăn mừng ngày chiếm miền Nam tự do và gọi là Đại thắng mùa
Xuân.
Hơn 40 năm qua, đă có hàng trăm hồi kư, truyện ngắn, truyện dài viết
về trại tù “cải tạo” của cộng sản. Biết bao câu chuyện thương tâm đă
được ghi lại trong Thân Phận Người Lính Găy Súng, Xử Tử Tù Cải Tạo,
Nữ tù nhân "cải tạo" ở Z30D, Những Người Tù Cuối Cùng, Núi Lạnh,
Cuối Tầng Địa Ngục, Trại Tập Trung, Trại Kiên Giam,… và hăy c̣n biết
bao câu chuyện không thể nào được kể lại trọn vẹn, hay chưa bao giờ
được biết đến; v́ người tù đă vùi thân xác đâu đó trong rừng hoang
khi vượt trốn trại, hay trong các băi chôn tù, như nghĩa trang Đồi
Bà Then trên Cổng Trời. Hoàn cảnh khắc nghiệt tại trại giam Cổng
Trời khiến tù nhân chết do bệnh tật, thiếu ăn, biệt giam hay lạnh
giá hầu như xảy ra hàng ngày. Đồi Bà Then là cái tên mà người nào ở
Cổng Trời đều biết. Nó là một mảnh đất nhỏ được dành làm nghĩa trang
mà cán bộ trại giam luôn lấy làm biểu tượng để cảnh cáo những người
tù cứng đầu nhất. Biết rằng: không ai thoát khỏi cái chết trong cơi
đời này, nhưng người tù “cải tạo” phải chứng kiến và chấp nhận cái
chết đến với ḿnh. Chỉ riêng trại giam có tên là Trại Cổng Trời đă
có quá nhiều hồi kư ghi nhắc đến.
Thảm cảnh đày đọa và chết chóc trong trại tù cộng sản đă được biết
bao nhân chứng viết kể lại. Nhưng ngôn từ không thể nào diển tả trọn
vẹn được nỗi đau đớn của họ cùng thân quyến. Nỗi đau của những vết
thương nhục h́nh này không bao giờ lành được theo thời gian, sẽ c̣n
đó măi măi cùng xương cốt của những người tù vẫn c̣n nằm lại trong
các mồ hoang.
Anh ở đây!
Anh vẫn c̣n ở đây!
Chiều Suối Máu, chiều Sơn La,….
Chiều Việt Nam mưa vẫn rơi, mưa rơi nḥa nước mắt!
BK Tính 323
……………………………………………………………………………..
* “Anh Ở Đây” nhạc: Thục Vũ & Vũ Đức Nghiêm
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi