When sorrows come, they come not single spies,
But in battalions.
- Hamlet, Act IV, Scene V / William Shakespeare
. . .
“Ngày nào Việt Nam tang tóc, đời ta chim xa bầy.
Nặng nề xoải đôi cánh bay, thiên đường càng xa vời quá.
Là thời thuyền ghe chết đuối, biển sóng gió tơi bời.
Nhận ch́m đời không tiếng than, ước mơ cuốn theo nghiệt oan …
Suốt hai mươi năm qua, ta vẫn nhớ trước sau đời ta” *
1975 – 1995!
Hai mươi năm đă qua!
Ta vẫn nhớ trước sau đời ta!
Bốn mươi năm sắp qua, không c̣n bao xa!
Bước Chân Việt Nam, viết năm 1995; lời ca như kể chuyện. Câu chuyện
thật, rất thật. Chuyện của từng người. Câu chuyện thật của cả dân
tộc!
Chuyện thương tâm của Việt Nam, khởi từ lúc Công Lư bị cưởng chiếm
bởi loại quân xưng là “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” và Tự Do bị những kẻ mệnh
danh là “Đồng Khởi” cướp đoạt. Đất nước đắm ch́m trong tang tóc. Con
dân nước Việt phải bỏ lại người thân, gia đ́nh, xa ĺa quê hương.
Người ra đi v́ tự do, vẫn đi, dù biết ḿnh phải chết trong rừng sâu
hay vùi thây trong ḷng biển.
“Bầu trời ngh́n năm bao la, đời vẫn cứ lao tù.
Người v́ tự do cứ đi, đi hoài, dù không hề tới” *
. . .
Qua một đêm dài bơi trên biển, ánh b́nh minh mang lại niềm hy vọng.
Hy vọng: ḿnh sẽ được người trên tàu thuyền qua lại nh́n thấy, được
cứu vớt. Mặt trời lên nhanh; quay đi, ngoảnh lại, mặt trời đă nằm
lên bên trên sóng. Ánh vàng cam rực rỡ, nhưng hăy c̣n dịu mát để
nh́n ngắm.
B́nh minh trên biển yên b́nh thật đẹp!
Rồi trời sáng hẳn ra, vẫn chưa có bóng dáng chiếc tàu nào quanh
ḿnh. Nắng chan ḥa, mang lại hơi ấm, nhưng nỗi lo âu c̣n đó.
- Không thấy ghe tàu ǵ hết?!
Thành, người ôm chung tấm ván với tôi, kêu than. Tôi nh́n quanh
quẩn, cũng không biết tại sao:
- Ừ!... lạ thiệt!
Trời sáng cũng khá lâu rồi. Mặt trời lên cao, chói chang. Gió nồng
vị biển mặn. Thân người ch́m trong nước vẫn c̣n lạnh, nhưng nắng và
gió nóng trên mảng lưng trần khi sóng đẩy lên bên trên mặt biển.
Ḷng nao núng, thời gian càng ngột ngạt, nặng nề hơn. Ngóng trông
măi, sóng nước vẫn bất tận. Không thấy tàu buôn, cũng chẳng thấy ghe
đánh cá lớn nhỏ nào cả. Giữa đại dương mênh mông, hai sinh vật đeo
bám bên tấm ván tàu làm phao, đang ngoi ngóp trong sóng cuộn, như là
những vụn vỡ trong mảng bọt biển.
- Tàu ḱa?
Thành nói như hét bên tai tôi.
Theo hướng chỉ của Thành, loáng thoáng có hai vệt khói nhỏ. Không ai
bảo ai, chúng tôi đạp nước bơi, cùng quay tấm ván qua bên phải, để
nh́n và hồi hộp trông ngóng. Một lúc sau, bên dưới vệt khói có h́nh
dạng hai chiếc tàu hiện ra rơ dần, như mong đợi.
- Tàu!
Thành và tôi reo vui trong ḷng.
Trôi dạt theo sóng biển từ tối đến sáng, tưởng đă chết mất trong
đêm. Bây giờ gặp tàu, gặp ghe, mừng lắm mà cũng lo lắm. Vừa lo cho
người ta không thấy ḿnh, vừa lo ḿnh lại gặp tàu của bọn cướp biển
hôm qua. Khi chiếc tàu c̣n ngoài khơi, Thành và tôi đă kêu gọi và
vẩy tay làm hiệu. Biết rằng tiếng người giữa biển chẳng vang đi được
bao xa, cả hai vẫn ráng hết sức lực mà gọi thật lớn. Lúc này, ngôn
ngữ để hiểu nhau, không c̣n là điều cần thiết. Chúng tôi cứ kêu, cứ
gọi. Nhưng, tiếng kêu cứu bị dập vùi trong sóng gió. Chính ḿnh c̣n
không nghe rơ tiếng của ḿnh.
Tàu chạy gần hơn, thấy rơ h́nh dạng và cả màu sơn trên thân tàu. Hai
tàu đánh cá nhỏ, chạy ngang thật gần, trông như ngay trước mặt ḿnh.
Mặc t́nh cho chúng tôi ra hiệu và hối hả kêu gọi, chiếc sau nối
chiếc trước cứ thản nhiên lướt qua.
Gió biển vô t́nh cuốn đi tiếng kêu cứu. Sóng ào ạt nhận ch́m niềm hy
vọng của hai sinh mạng trôi dạt giữa đại dương mênh mông. Hai chiếc
tàu đánh cá xa khuất dần. Hai chiếc tàu thật gần bên ḿnh. Thấy đó,
phút chốc biến mất; bàng hoàng như chợt tỉnh: tất cả chỉ là giấc mơ.
Biển cả mênh mông, giờ như nhạt nḥa, mờ mịt hơn.
Thân phận con người thật bé nhỏ giữa đại dương.
Tiếng kêu cứu chơi vơi, lạc lơng.
Chúng tôi nh́n nhau:
- Có phải, đây là ngày sau cùng c̣n được sống và được làm người Tự
Do?!
“Ta thấm thía tử sinh, cuối bước nhọc nhằn.
Ta níu ánh b́nh minh, giữa cơn tử sinh.” *
. . .
- Văn pḥng gọi đại diện tàu ḿnh lên gặp Cao Ủy… kêu hai lần rồi
đó… lẹ đi!
Duyên, em của người cùng tàu, hối hả chạy vào trong nhà báo tin.
Tôi lấy cái khăn lớn, khoác lên người và bước nhanh lên văn pḥng
của trại tỵ nạn. Khi bơi trong biển, không có áo che người, ngực và
bụng bị phỏng v́ sứa lửa bám vào, nên tôi được miễn mặc áo khi gặp
các nhân viên trên văn pḥng.
Trong nhóm thuyền nhân c̣n sống sót này, không có chủ ghe, tôi chỉ
là người giúp lái chiếc ghe vượt biển. Dựa theo chữ “boat pilot”,
kèm theo tên tôi, trong hồ sơ nhập trại của tàu, văn pḥng chỉ định
tôi làm người đại diện. Văn pḥng gọi tới số tàu của ḿnh th́ tôi có
bổn phận phải lên gặp. Mới sang tuần thứ hai làm người tỵ nạn trên
đảo Bidong này; nên tôi chưa quen biết được tất cả các nơi, các việc
trong trại tỵ nạn. Tôi chẳng biết chuyện ǵ, gọi th́ phải đi gặp
vậy!
Sau khi thăm hỏi, giới thiệu nhau, tôi được biết “Cao Ủy Tỵ Nạn” hôm
nay là phái đoàn Canada. Nghe tin về chiếc ghe bị hai chiếc tàu cướp
Thái Lan tấn công và sát hại, phái đoàn Canada muốn gặp người sống
sót trên ghe để thăm hỏi.
Tôi kể lại chuyện của chiếc ghe vượt biển. Chuyện của 73 thuyền nhân
cương quyết không khuất phục trước bạo lực của hải tặc Thái Lan. Họ
không chịu xuôi tay cho bọn cướp biển sang ghe ḿnh, để tự tung tự
tác, mặc t́nh cướp bóc, hăm hại người thân. Họ chọn đối đầu với cướp
biển, để rồi bị bọn chúng gọi thêm đồng bọn và điên cuồng dùng hai
tàu cùng lúc húc găy chiếc ghe nhỏ. Người không ch́m theo ghe, lặn
ngụp trong sóng biển đến khi tàn lực. Người may mắn hơn, c̣n sống,
bơi qua suốt đêm đen. Trong tuyệt vọng, khi ánh mặt trời đă lên cao
và không c̣n thấy tàu ra khơi để đánh cá, họ được ơn phúc của Ơn
Trên và ḷng nhân của con người, của những ngư dân Mă Lai đă quay
lại, cứu vớt người trên biển.
Chiều tối.
Tàu chở mười sáu người chúng tôi cặp bến đảo Pulau Bidong.
Mười sáu bóng người, không hành lư, mỏi mệt, lếch thếch lê bước trên
đoạn cầu dài thẳng tấp, cầu Jetty. Cầu nối liền những hành tŕnh
vượt biển lắm nước mắt và tử biệt, từ biển khơi vào trại tỵ nạn cộng
sản; khởi đầu của một đoạn đời làm người lưu vong trên các nước Tự
Do.
Vâng!
V́ hai chữ Tự Do!
. . .
Người phỏng vấn, đọc qua hồ sơ của tôi một lúc. Ông nh́n tôi:
- Anh có biết: Anh thuộc diện ưu tiên của Mỹ?
- Vâng! Tôi biết.
- Thế nhưng, nếu anh thích đến Canada, chúng tôi sẽ nhận anh?
Tôi không thiết tha làm công dân nước Mỹ, nên nhận lời phái đoàn
Canada ngay.
- Cám ơn anh đă chọn đi Canada. Chúng tôi nhận hồ sơ anh.
Tôi được cám ơn, trước khi tôi kịp cám ơn. Câu nói nhận lời, cùng
bàn tay thắt chặt, ân cần: “Welcome to Canada!”
Thật ấm ḷng và an tâm với t́nh người và đất nước Canada. Nghĩ đến
các thuyền nhân cùng chuyến tàu, tôi ngỏ lời:
- Cám ơn Phái đoàn đă nhận tôi!... Tôi biết: c̣n rất nhiều người
cùng tàu, cũng quư mến quốc gia Canada như tôi, xin Phái đoàn Canada
vui ḷng giúp cho họ!
- Được! Anh mời tất cả những người muốn đi Canada lên gặp chúng tôi,
để được cứu xét và lập hồ sơ đi định cư.
Chỉ vài ba người muốn đoàn tụ với người thân ở Anh và Úc, Thành đi
Úc; tất cả đă được phái đoàn Canada nhận cho đi định cư cùng lúc với
tôi. Chúng tôi đă được rời đảo Bidong rất sớm, ngay trên chuyến bay
kế tiếp; chưa đầy ba tháng sống trên đảo Bidong.
“Thank you Canada, for the liberty…
We, thank the world, for its true freedom.
Thank you, we thank you all” *
Hai mươi năm trôi qua, 1975-1995, bước chân người Việt Nam in dấu
khắp thế giới.
Hơn hai mươi năm qua, biết bao lần tôi lắng nghe chuyện kể “Bước
Chân Việt Nam”.
Tháng Tư năm 2008, Gift of Freedom của Brian Buckley là quyển sách
lưu niệm quư giá, cho những thế hệ thuyền nhân Việt Nam, trên đất
nước đă cưu mang ḿnh: Canada. Tác giả Brian và Mary Ann đă tham gia
Project 4000, là thành viên của đơn vị bảo trợ Alta Vista, tại
Ottawa.
Mười năm sau, cuối năm 2018, Michael J. Molloy đến Vancouver, với
quyển Running on Empty, Exodus of refugees from Indochina,
1975-1995; biên soạn cùng Peter Duschinsky, Kurt F. Jensen, Robert
J. Shalka.
Với 582 trang, Running on Empty là bộ tài liệu sống thực, đầy t́nh
nhân đạo, của chính quyền Canada đối với người tỵ nạn Đông Dương,
qua các viên chức được giao trọng trách như tác giả. Chỉ hơn chục
người và trong thực trạng vô cùng khó khăn, thiếu thốn mọi bề, như
tựa đề “running on empty”; phái đoàn của Canada đă tận lực, nhanh
chóng cứu giúp đến 70,000 người tỵ nạn cộng sản từ Việt Nam, Lào và
Cam Bốt. Ngay sau tháng Tư năm 1975, và không đầy một năm, Canada đă
nhận đến bảy ngàn người tỵ nạn cộng sản. Chỉ trong mười tám tháng,
từ 1979, năm mươi ngàn thuyền nhân đă được định cư!
Chuyện người, như chuyện ḿnh, như sóng uất hờn muôn đời c̣n cuộn
dậy trên Biển Đông.
Theo Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc, khoảng 200.000 đến 400.000
thuyền nhân đă chết trên biển.
Bao chuyện thương tâm của thuyền nhân Việt Nam đă được nghe biết.
Hăy c̣n biết bao nỗi hăi hùng, đă theo thân xác của người vượt trốn
chế độ cộng sản, vùi chôn trong rừng hoang hay dưới đáy biển. Biết
bao chuyến đi đă không bao giờ đến được bến bờ tự do. Họ ra đi mà
không bao giờ đến!
Người ta không thể quên, nhưng với ḷng nhân từ, có thể tha thứ cho
bọn cướp biển; họ chỉ v́ ham muốn nhục dục, ḷng tham nhất thời mà
gây nên tội ác. Trái lại, chính sách bất nhân của chế độ cộng sản
man rợ, đối với đồng bào ḿnh, th́ cả dân tộc phán quyết và sử sách
muôn đời khắc ghi.
Thời gian qua mau, nhưng vết thương đau của thuyền nhân Việt Nam vẫn
c̣n đó!
Có những mất mát không ǵ thay thế được, mà thời gian cũng không thể
nào mang vào dĩ văng!
Bùi Đức Tính
………………………………
* trích lời ca Bước Chân Việt Nam - Trúc Hồ và Trầm Tử Thiêng,
1995
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi