Bốn Mươi Năm (1978-2018) Nhớ Lại Chuyến Vưọt Biển Bi Thảm Từ Phan Thiết Tới Mă Lai

Mường Giang

Từ Phan Thiết chúng tôi gồm 34 người, quyết tâm ra đi nên đă liều mạng vượt biển để t́m tự do trên một chiếc thuyền đanh cá mỏng manh cũ kỹ và thiếu thốn đủ mọi thứ . Thời gian sống với biển cả tuy ngắn ngủi nhưng thập phần nguy hiểm và đầy bất trắc . Cuối cùng, ḷng can đảm đă giúp chúng tôi vượt qua tất cả trở ngại . Chúng tôi đă đến bến bờ tiểu bang Trengganu thuộc Mă Lai Á vào buổi sáng ngày 26-10-1978, chấm dứt 6 ngày hải tŕnh bi thảm .

Tôi ghi lại đây để nhớ măi không quên những tấm ḷng vàng của các vị ân nhân Nguyễn Đức Khôi, Nguyễn Đức Long, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Mến..Quư Ông nay đă trở về cơi vĩnh hằng nhưng ḷng từ tâm trên chiếc thuyền PT.M1109 hôm nào đă giúp chúng tôi vượt thoát khỏi địa ngục trần gian trong thiên đàng xă nghĩa từ sau ngày 39-4=1975. Cũng chính nghĩa cử cao đẹp trên, Quư Ông đă dạy cho tôi long thương người trong cơn hoạn nạn và tôi đă theo đuổi lư tuởng đó cho tới nay, khi đưọc may mắn định cư tại Hoa Kỳ.vào tháng 4-1979.…

Câu chuyện vưọt biên của tôi cũng là một kỳ ngộ, như có một bàn tay huyền diệu nào đó luôn giúp đỡ sắo xếp..Tôi c̣n nhớ cái đêm trước khi vưọt biển, v́ buồn đủ thứ lại thương đứa con gái nhỏ tên Duyên bệnh nặng..nên khi mấy đứa em rũ nhậu, tôi đă quên là ḿnh từ kinh tế mới trốn về sống chui không có giấy phép. Nhưng cũng thật kỳ lạ, giữa lúc anh em đang nhậu th́ tên Hùng công an khu vực vào nhà tôi nhưng hắn không bắt mà chỉ ra lệnh cho tôi ngày mai phải lên lại KTM. Sau đó ai nấy về nhà ngũ riêng tôi th́ ngổn ngang tram mối nên làm sao ngủ đưọc. Giữa lúc đang trăn trở th́ chủ ghe tới kêu đi biển. Rồi đến lúc ghe cập đồn Biên Pḥng Thương Chánh để tŕnh diện. Tại đây lần nữa Tôi không bị công an bắt giữ v́ đi biển lậu, mà chỉ ra lệnh cho chủ ghe đuởi tôi lên bờ v́ không có tên trong sổ hành nghề.. Chủ ghe dạ dâ nhưng vẫn chạy thẳng ra biển..Nhờ những may mắn trên, nên thành phần bị gạt ra bên lề xă hội lúc đó như bọn tôi mới có cơ hội ra đi.

Tôi nhớ sáng hôm đó trời đẹp chi lạ, biển lặng như trên sông Cà Ty . Phương đông mặt trời đă lên cao, thả những tia vàng đỏ óng nhảy tung tăng theo triền sóng . Gió thổi nhẹ từng cơn như mơn mởn làn da thêm thoải mái. Như thường lệ, ghe tôi từ Phan Thiết chạy ra địa điểm đặt cây chà, đúng vào lúc con nước đang lên để làm nghề . Thời gian sống ngoài biển là lúc mà chúng tôi vui sướng nhất v́ được tự do la hét, chửi bới , được nh́n cảnh mênh mông của trời đất bao la và hạnh phúc nhất là ai cũng có quyền hy vọng được tàu ngoại quốc đến vớt sang bên kia bờ đất tự do. .

Bây giờ là 8 giờ 30 ngày 21-10-1978, mọi công tác dành cho việc lùng bắt cá đă chuẩn bị xong . Hai đường neo dài hơn 100m đă được móc cứng sau và trước thuyền, kèm vào đó là hai sợi dây khác dùng để móc giàn lưới sắp sửa bủa xuống biển đón đàn cá trắng đang nhởn nhơ bơi lội dưới làn nước trong xanh thăm thẳm . Chúng tôi đă sẵn sàng bắt một mẻ cá lớn để chốc nữa trở vào bờ dâng cho nhà nước đổi lấy từng kư gạo sống dần ṃn qua ngày . Đó, đời sống của con người nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa là thế

Bỗng một tiếng la từ sau lái : Tàu vượt biển đến, hăy kéo neo lên để chạy cho mau, kẻo chúng đến cướp dầu, cướp ghe . Nhưng đă trễ rồi, v́ không thể nào trong chốc lát triệt nổi hai cuộn neo thật dài, thêm vào đó là lưới đang hứng đầy cá, mà con tàu lạ th́ từ xa chạy xăm xăm đến với một tốc lực tối đa . Đấy là một loại thuyền đánh cá kiểu Bắc Việt, toàn thể sơn màu đen nên nh́n rất cũ kỹ, dài khoảng 8m, trên thuyền lố nhố những người đang ḥ hét vẫy gọi, trông giống cảnh ăn hàng của các phim hải tặc . Con thuyền quá mỏng manh và cổ lỗ nên không có ǵ bảo đảm lắm cho chuyến vượt biển xa xăm mà mọi nguy hiểm như sóng gió, giông băo đang chực chờ, hơn nữa mùa gió Bấc đă đến, biển hay động bất ngờ, chỉ cần một trận cuồng phong nhỏ cũng đủ chôn vùi tất cả bao nhiêu người trên thuyền vào bụng cá . Nhưng nh́n những khuôn mặt cương quyết, chai ĺ của những người đang đứng trên thuyền đối diện, tôi cảm thấy thán phục cho những tâm hồn biết chết trước mắt nhưng vẫn cứ liều lĩnh, mạo hiểm dấn thân vào biển cả muôn trùng để t́m tự do

Ôi tự do cao quư đến thế sao ? Biết chết vẫn lăn xă vào, biết tù đầy khổ ải nhưng cũng cứ bền gan tranh đấu, biết địch mạnh ta yếu mà vẫn cứ âm thầm chịu đựng để chờ ngày quật khởi . Hèn chi tại Nam VN trước tháng 4-75, chỉ v́ “độc lập hay là chết “ mà đă có hơn một triệu thanh niên nam nữ, hơn 20 năm chịu banh thây để giữ lấy nó. Bây giờ th́ một làn sóng người ồ ạt, bỏ tất cả để dấn thân vào cơi chết, chỉ mong mỏi t́m ra con đường sống để nh́n thấy tự do thật sự.

Rồi con tàu lạ cũng tới, tiếng be gỗ chạm vào nhau nghe chói óc, tiếng người la ơi ới, tiếng kéo c̣ lên đạn gây thành những âm thanh hỗn độn, kỳ quái nghe hay hay .

-“Cho chúng tớ xin ít dầu, gạo và nước để ra đi, chúng tớ không thể quay về với đưọc, giúp chúng tớ đi anh em ơi” . Thật là thảm thiết, thật là cay đắng, nẻo đường sống của bọn người quyết ḷng tháo gỡ gông cùm của giặc thù là thế đó . Tôi nh́n kỹ từng khuôn mặt, đều là bạn bẻ cũ thuộc tỉnh/tiểu khu B́nh Thuận cả . Người đứng trên mui để chỉ huy tổng quát là Ng-Đ-M, cùng tôi học Triết ở Đại Học Văn Khoa SG. Trước mũi là Thưọng sĩ Ng-Đ L phục vụ tại Chi Nhánh 2 TMNN., Tài công là Trung sĩ I ĐPQ VS và thuyền trưởng là Thiếu Uư CSQG NĐK. Tất cả đều là khách hàng đắc giá của Công An Thuận Hải cả, thảo nào họ dám dùng con thuyền nhỏ này để vượt biên .

Theo lời M, họ đă khởi hành đêm 19-10-1978 sau khi ba vị chủ ghe đồng nhận được trát của công an thị xă Phan Thiết mời đến để điều tra về vụ vượt biên mới đây có liên quan đến họ . V́ tin đến quá đột ngột nên tất cả số dầu dự trữ dành cho chuyến vượt biên sắp tới không thể đem xuống ghe được, cũng không thể mang nhiều gạo, thuốc và thức ăn v́ sợ đồn biên pḥng số 4 kiểm soát sẽ bại lộ . Nên cuối cùng Ban Chỉ Huy thuyền PTM 1109 quyết định đi liền với số nhiên liệu và thực phẩm dành cho 1 ngày làm cá đúng theo cấp số ấn định, nhưng cương quyết mang theo hai khẩu súng cũ đă chôn giấu từ lâu cùng đồ nghề dành cho chuyến vượt biên thế thôi . Như vậy họ đă quyết định ra đi với 40 lít dầu, 10 kg gạo và ḷng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa sẽ giúp họ thành công . Đúng 5 giờ 30 ngày 20-10-1978, con thuyền trên lại quay về bờ biển Phan Thiết và đâm ngay vào băi Thương Chánh tại Vĩnh Phú, để vớt người như chương tŕnh dự liệu, giữa lúc tiếng chuông nhà thờ Vĩnh Phú rền vang báo hiệu đợt lễ đầu, trong kh[ bọn du kích và công an phường canh gác băi tắm đă lục tục kéo nhau về ăn cơm . Sự liều lĩnh đă đem lại kết quả khả quan nhưng v́ thời gian quá ngắn nên chỉ cứu thêm được một số anh em và người nhà, để rồi vĩnh viễn rời xa quê mẹ, con thuyền sẽ điên cuồng lao vào đất chết .

Đêm đó thuyền đă xông xáo khắp nơi để xin dầu, gạo, nước ngọt dành cho chuyến hải hành, thuyền suưt đụng độ với 2 chiếc mành quốc doanh có trí súng đại liên làm anh em một phen mất vía .

Tiếng của thằng bạn làm tôi bừng tỉnh : “C c̣n chần chờ ǵ mà không nhảy sang đây để đi với tụi tớ, cậu thường ao ước t́m tự do lắm mà . Hăy đi đi, trời c̣n đó, đất c̣n đó và vợ con chúng ta cũng c̣n đó, nếu c̣n sống th́ lo ǵ không gặp lại người thân. Vâng bạn tôi nói đúng lắm, tôi phải ra đi, đây là một cơ hội bằng trời mà tôi hằng mong đợi, tôi phải đi để sống và c̣n sống là c̣n tất cả.

Tôi nhảy sang con thuyền lạ giữa tiếng la khóc của những đứa em, giữa những ṿng tay thân t́nh cật ruột giữ lại . Nhưng tôi đă cắn răng cắt đứt t́nh cảm gởi gấm vợ con trên kinh tế mới cho má tôi, rồi gục mặt ra đi,

Theo chương tŕnh dự liệu, chúng tôi c̣n phải đi mua thêm dầu gạo và nước uống đủ để đi thẳng đến Mă Lai Á, v́ không hy vọng ra đến hải phận quốc tế sẽ được tàu vớt . Bởi thế cần phải được chuẩn bị đầy đủ, ăn ít cũng được nhưng dầu và nước th́ không thể thiếu được . Do đó thay v́ trực chỉ ra hải phận, chúng tôi bắt buộc phải mạo hiểm đến gặp các thuyền bạn để xin dầu và kết quả thật khả quan : Dầu được 300 lít, gạo 50 kư, nước ngọt 2 thùng lớn c̣n thức ăn th́ không cần, tuy vậy cũng tạm sống .

V́ sợ các thuyền quốc doanh bị lấy dầu quay vào bờ báo cho đội tuần duyên nên chúng tôi đành phải ngụy trang, thay v́ chạy chúng tôi neo lại trên phần chà thường đến làm cá giả vờ đang hành nghề, cho tất cả đàn bà con gái trẻ em và những người không phận sự xuống khoang thuyền, chỉ để 7 người trai tráng ở lại lo công tác, súng th́ lên đạn sẵn đầy đủ để quyết tâm chống chọi nếu bất trắc ập đến . Nhưng mọi lo lắng đều qua, 4 giờ chiều ngày 20 tháng 10-1978, chúng tôi chặt đơi, vĩnh viễn xa rời quê hương để ra đi t́m tự do . Hỡi ơi, phút cuối cùng sao nghe ḷng quyến luyến và hờn tủi chi lạ, biết bao giờ mới được quay về để nh́n những thâm t́nh đang tuyệt vọng đợi chờ..

Từ Phan Thiết muốn đi Mă Lai Á, chúng tôi phải qua Côn Đảo và khoảng đường độ 1200 hải lư, với tốc độ của loại máy Kubota, cộng thêm sức nước chảy xuôi và cánh buồm, ước lượng phải mất 6 ngày đêm . V́ muốn bảo tŕ máy móc hầu tạo sự an toàn cho chuyến đi, mỗi ngày bắt buộc phải cho nghỉ máy 2 giờ, thời gian này thay thế bằng buồm, di chuyển tối đa chỉ trừ gặp băo mới phải neo lại mà thôi, dụng cụ đi biển cũng tạm đủ, gồm một địa bàn bộ binh, một ống ḍm của pháo binh và một bản đồ vẽ tay thêm vào đó là kinh nghiệm nhiều năm đi biển của tài công, cựu Trung sĩ I V.S, chúng tôi vững ḷng tin sẽ đến được bờ đất hứa .

Buổi chiều đầu tiên vui chi lạ, mặc dù thuyền vẫn chạy cặp theo bờ biển nhưng anh em ở dưới khoang cũng được cho lên để thở xả hơi, một nồi cơm trắng không độn đang nghi ngút khói ăn với cá vừa mới đánh được hôm qua, không khí và sự thân mật của những người cùng chung cảnh ngộ làm mọi người cảm động muốn khóc . Xa xa, bên trong từng dẫy núi liên tiếp lướt qua, ḱa là Ba Ḥn, Tà Cú, Mũi Đèn, Ḥn Bà, Phước Hải rồi Vũng Tàu, bao nhiêu địa danh, bao nhiêu tế bào của Mẹ, chúng tôi cứ măi lặng nh́n để ghi sâu vào tâm khảm v́ biết chắc rằng chỉ trong khoảng khắc khi con thuyền lướt sóng ra hải phận th́ chẳng bao giờ chúng tôi c̣n nh́n lại được nó .

Buồn lắm, những trở ngại và thử thách đầu tiên đă qua, các em và các cô không quen đi biển cũng bớt nôn ọe. Trời lại đẹp và biển lặng một cách đáng yêu . Đúng 20 tiếng lướt sóng chúng tôi bắt đầu cho mũi thuyền hướng về 180 ly giác, trực chỉ hướng Bornéo, ra ngay hải lộ quốc tế rồi từ đó sẽ bẻ mũi ghe về hướng 220 ly giác để về Mă Lai Á . Theo hải tŕnh này thuyền sẽ không gặp Côn Đảo và Thái Lan . Nhưng đời đâu có bằng phẳng và dễ dàng như thế. Và đúng 3 giờ chiều ngày 23-10-78 thuyền chúng tôi bắt đầu gặp tai họa, một máy bị hỏng, dầu không bơm được, máy bơm nước cũng hư và phía trước mặt là Côn Đảo với 2 ống khói trắng toát .

Dùng ống ḍm chúng tôi có thể thấy được đỉnh của ngôi giáo đường . Nguyên nhân có sự lạc hương này , chỉ v́ tài công V.S trong lúc lái ghe đă nh́n hai ống khói màu trắng tưởng lầm Côn Đảo là một chiếc tàu buôn. Bởi thế đă đổi hướng chạy đến . th́ cũng đă lỡ rồi,. Ngay lập tức buồm được kéo lên, thợ máy Ḥe cố gắng sửa lại bơm dầu và tất cả thanh niên phải thay nhau tát nước

Tai họa bắt đầu giáng xuống với những trận gió lớn làm biển động mạnh với từng đợt song dữ . Bao nhiêu bi thăm dồn cùng một lúc dành cho chúng tôi. Đây là Trường Sa, nơi giao liên của hai con nước vùng biển Đông Hải và vịnh Thái Lan, nên sóng rất lớn . Nhưng việc ǵ đến sẽ đến, giờ th́ phải chạy, kẻo đồn canh của bọn công an trên đảo thấy được th́ chúng tôi một là sẽ vào bụng cá hai là vào Côn Đảo nằm thiên thu .

Mưa xối xả như trút nước, làm giảm tầm quan sát của địch, V.S cho lên ga tối đa 1500, con thuyền lao như điên giữa tiếng gió gào thét, cánh buồm căng cứng gần muốn đứt lèo, sóng bủa tứ tung trên mạn thuyền, tất cả đều ướt át như chuột lội nước, lạnh dói và run sợ . Đêm đó không ai ngủ được cả, mọi người đều lo lắng và theo dơi nhiệm vụ không ai nói với ai một tiếng nào cả . Ban chỉ huy thuyền th́ măi miết chụm đầu vào mặt chiếc địa bàn để canh lại cho được hướng đi, nước trong khoang thuyền được thay nhau tát ra ngoài, và rồi mưa lại tạnh, gió bớt thổi và chung tôi đă ra khỏi vùng biển bảo tố lúc 6 giờ sáng ngày 24.10-1978 khi mặt trời đă bắt đầu mọc, báo hiệu một ngày đẹp đẽ đang trở lại với vạn vật, chấm dứt thăm họa đă hành hạ chúng tôi suốt 15 giờ qua ...

Từ giờ thuyền chúng tôi đă ra khỏi hải phận VN và đang ở trên hải lộ quốc tế. Mỗi lần nhớ lại đêm bảo tố kinh hoàng trên biển , tôi vẫn thấy sợ và càng thương ông NĐK lúc đó, cứ luôn miệng cầu nguyện Thưọng Đế giúp đỡ cho chúng tôi qua khỏi tai họa khốc liệt kinh hoàng..không ai trên thuyền lúc đó nghĩ rằng ḿnh c̣n sống sót với cơn băo cấp 10,

Giờ th́ tất cả mọi người đều có quyền lên boong thuyền để thở không khí, trời đất mênh mông, biển cả miên man, con thuyền không khác chi chiếc lá vàng trôi giạt vô hạn định, trôi măi, trôi măi, tôi bâng khuâng tự hỏi, đời tôi rồi mai này cũng sẽ như con thuyền này xuôi ngược không biết đâu là bờ bến thế thôi .

Chúng tôi đang sống ngày thứ tư trên biển, gạo sắp hết, nước cũng gần cạn và dầu chỉ c̣n độ 100 lit . Ban chỉ huy ra lệnh tiết kiệm để sống cầm hơi nếu thuyền không t́m được bến . Trong ngày thứ tư này, chúng tôi 3 lần thấy tàu lớn, đă làm tín hiệu S.O.S, đổi phương hướng để xin cầu cứu, nhưng các con tàu kia đă vô t́nh bẻ lái bỏ trả chúng tôi lại với biển nước mông mênh . Cuối cùng lúc 12 giờ khuya đêm thứ 5 thuyền chúng tôi đă cập được vào giàn khoan dầu của Anh Quốc (trong hải phận Mă Lai Á) thế là chúng tôi đă t́m được đất sống .

Hỡi ôi đă 5 ngày qua, sống lầm lũi giữa biển khơi mịt mù mây nước, hôm nay mắt lại được nh́n thấy những ngọn đèn biểu hiện của cuộc sống . Đèn bốn hướng, đèn mông mênh, cả một vùng trời trước mặt toàn đèn, chúng tôi muốn thét to lên để tỏ sự sung sướng của những con người về từ đất chết, ai cũng vui cười hồ hởi . Làm sao diễn tả cho hết từ tâm của những người làm việc trên chiếc tày dầu Anh Quốc mang số EG 8721 mà chúng tôi đă gặp . Họ đă tiếp tế cho chúng tôi đầy đủ nào dầu, nước ngọt, gạo, thuốc lá, bánh ngọt, sữa v.v..đồng thời cho chúng tôi hướng sắp đến và khuyên nên đi Tân Gia Ba đừng đi Mă Lai Á . Chúng tôi rời chiếc tàu trên mà không khỏi ngậm ngùi và cám ơn đấng tối cao đă dành mọi ưu ái cho chúng tôi trên chuyến đi này.

Những ngày sau cùng không c̣n ǵ trở ngại, đồ tiếp tế đă có, anh em lại được chia sớt để ăn uống, biển cũng rất lặng, ban đêm trăng sáng vằng vặt cộng sự thoải mái cho mọi người và rồi đúng 3 giờ sáng ngày 26-10-1978 thuyền chúng tôi bỏ neo tại bờ biển làng Merang thuộc bang Trengganu, Mă Lai Á . Sau đó chúng tôi được thuyền đánh cá Mă Lai Á hướng dẫn vào vàm sông Mérang, được phép lên bờ nghỉ ngơi, lập thủ tục, giao thuyền và vật dụng cho cơ quan chánh quyền địa phương để rồi đúng 7 giờ tối cùng ngày, một chiếc xe đến chở tất cả mọi người về thị trấn Trengganu, nhập vào cộng đồng những người tị nạn đă đến từ những nơi khác để ngày 27-10-78 xuống tàu đến tạm cư tại đảo Pulau Bidong . Thuyền chúng tôi chính thức mang số 100 tại trại này.

Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2018

MƯỜNG GIANG


Trại Tỵ Nạn Pulau - Bidong
 
Pulau Bidong là tên của một trong những ḥn đảo của Mă Lai Á, vùng đất khô cằn đầy núi non hiểm trở được cấu tạo bằng nhiều lớp san hô . Nằm cách bờ bể bang Trengganu độ vài chục hải lư . Nếu không có vấn đề người tỵ nạn Việt Nam, có lẽ chả ai biết đến tên nó . Nhưng từ tháng 7 năm 1978, Pulau Bidong trở nên sáng giá, khi chính phủ Mă Lai Á chấp thuận cho Cao Ủy tỵ nạn LHQ đưọc thiết lập tại đây, một trung tâm tạm cư người Việt trốn chạy chế độ CS bằng thuyền . Kể từ đó Pulau Bidong d8ưọc coi như là một trong những cổng thiên đàng của người Việt TNCS, cho nên có lúc dân số trên đảo gần 50.000 người. Đặc biệt chính phủ Mă Lai Á đối xữ rất nhân hậu với người Việt..

Pulau Bidong gồm 2 đảo nhưng đồng bào chỉ ở Bắc đảo mà thôi. Bắc đảo có diện tích chừng vài km2, không trù phú và màu mỡ như các hải đảo đông dân cư của VN . Ba phần tư diện tích đảo là núi tuy không cao lắm nhưng dầy đặc rừng cây, phần đất c̣n lại, lại bị những nhánh núi nhỏ ngăn thành từng vũng đồi thấp, lên xuống . Đảo h́nh như hạt mận, hai mặt đối diện với bờ bể Trengganu th́ lơm vào, tạo thành một vịnh nhỏ, nước sâu, tàu bè đỗ rất tốt . Phía sau lồi và núi đá ăn trệ xuống sát bờ nước nên không ai bén mảng đến . Đó đây trên đảo là những rặng dừa cao vút, xanh thẳm mang đầy trái và những khi gió lớn, mưa to dễ rớt gây tai nạn chết người, ngỗn ngang trong phần đất bằng phẳng c̣n sót lại là giếng nước ngọt, chứng tỏ nơi này đă có người đến ở trước dân tỵ nạn . Biển xanh bọc chung quanh đảo, trong vắt im lặng và là con đường sống duy nhất của mọi người với thế giới văn minh bên ngoài .

Trại được tổ chức trong một thời gian kỷ lục nhờ những bàn tay tài ba và vén khéo của mọi người . Thêm vào đó là sự nhẫn nại, kiên tŕ can đảm của dân tộc VN và óc chỉ huy sáng suốt của Ban điều hành trại .

Khi tôi đến đảo vào cuối tháng 10-1978, thi trại được phân chia thành 6 khu riêng biệt, mỗi khu có một Ban hành chánh Khu lo liệu . Ban Điều Hành Trại với nhiệm vụ tổng quát, về phương diện pháp lư . Đại diện cho toàn thể đồng bào tiếp xúc với chính quyền Mă Lai, Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, các phái đoàn ngoại quốc, lo lương thực cho mọi người sống trong khi tạm cư, lo những an ủi tinh thần để đời bớt tủi và làm gạch nối để mọi người không phân biệt Hoa-Việt bắt tay nhau . Trao gởi t́nh thương khi bắt đầu làm lại cuộc đời .

Phụ giúp cho Ban Điều Hành có các Khối và Ban .

-Khối thông dịch và hành chánh lo thủ tục cho đồng bào ra Phái Đoàn để đi định cư ở các đệ tam quốc gia .

-Khối thông tin văn hóa phụ trách việc nhận gởi thư và quà cáp của đồng bào đi và đến, thường xuyên tổ chức văn nghệ với các thành phần ca nghệ sĩ một thời vàng son của Sài G̣n, trong những chương tŕnh mang nặng tính chất dân tộc, khích động ḷng yêu nước, t́nh đoàn kết của mọi người trên đảo . Khối thông tin là ḍng suối ngọt, là tiếng chim ríu rít là khúc đàn tuyệt diệu muôn dây, luôn luôn đem ấm áp, hy vọng và t́nh thương về cho mọi người . Khối thông tin cũng đă tổ chức rất nhiều lớp học sinh ngữ Anh-Pháp giúp mọi người thu thập một số vốn ngoại ngữ để bước chân đến xứ người

-Khối y tế, xă hội bận rộn nhất trong việc trị liệu, cấp cứu, sinh đẻ cho những người trên đảo . Với phương tiện eo hẹp và thuốc men rất ít nhưng các vị Bác Sĩ từ tâm, các anh chị em Y Tá, Khán Hộ đă hết ḷng nên cứu giúp rất nhiều người nhất là trẻ em và ông bà cụ . Ban xă hội phân phối những tặng phẩm nhân đạo, Ban vệ sinh làm sạch đường, sạch phố, tạo một bộ mặt mới cho các khu vực và băi biển .

-Khối Nội Vụ chuyên trách t́nh h́nh nội bộ, không áp dụng chính sách công an, cảnh sát ở đây nhưng t́nh trạng kỷ luật ở đây luôn luôn được duy tŕ, hầu như không có vấn đề trộm cắp, họa hoằng lắm mới xảy ra nhưng chỉ là ăn cắp vặt . Ở đây không có Bum, Bar, không ai nghĩ đến chuyện ôm nhau nhảy đầm, ăn uống say sưa . Thỉnh thoảng mới nghe một vài thằng điên nhắc đến vấn đề này .

-Khối tiếp liệu đồ sộ nhất với hai kho chứa hàng mút mắt, thay đổi liên miên, bị mang lắm tai tiếng v́ cái gọi là Hợp Tác Xă Mua Bán . Khối này nhận lănh và phân phối supply cho đồng bào, với một nhân số hiện diện trên đảo gần 40.000 người, với sự thay đổi đi đến, khối này đă phải đau khổ trong mỗi lần phát thực phẩm hầu như liên tục .

-Khối xây cất có công to lớn nhất trong việc xây dựng, chỉnh trang Trại . Thật vậy, với hai bàn tay trắng, không có máy móc chỉ được Phủ Cao Ủy tiếp tế cho một số vật liệu nặng như Gỗ, Tole, Ximent, các vị kỹ sư, cán sự đă biến ḥn đảo khô cằn rừng núi này thành một khu vực dân cư khang trang . Những dăy nhà tole la liệt ở mọi nơi dành làm nơi tạm cư trú tập thể cho đồng bào . Những cơ sở công cộng như trường học, nơi đón tiếp các phái đoàn báo chi dến thăm viếng, nơi làm việc thường xuyên của ác quốc gia dệ tam, sạch sẻ, ngăn nắp, sàn đóng bằng gỗ dày có đủ bàn ghế, pḥng ốc tạo sự thoải mái cho những người đến làm việc nhân đạo ở đây . Một cổng chào kiến trúc kiểu tây phương mái cong cũng bằng tole, cây trông bề thế, lịch sự và đẹp mắt làm cảm t́nh ngay cho những người mới đến . Những dăy nhà chờ đợi với mái lợp bằng bạt xanh, với những dăy ghế dài cho mọi người tạm nghỉ chờ dến phiên ḿnh vào gặp phái đoàn quyết định số phận ḿnh . Rồi nhà thương, bệnh xá, kho thuốc, kho hàng, trại tạm trú cho người mới đến, trường học, giếng nước, mương rănh, nhà vệ sinh v.v.. Tất cả đều do bàn tay sáng tạo của khối này . Nhưng nổi tiếng nhất và đáng ghi nhớ là chiếc cầu nổi dă chiến dài hơn 100m được bắt từ bờ biển ra đến chỗ đậu của các tàu từ xa đến, được tạo bằng mồ hôi, trí óc của người Việt Nam . Nơi đón những người mới đến, tiễn những kẻ ra đi, nơi hẹn ḥ của trai thanh gái lịch . Một máy phát điện cũng được biến chế từ chiếc máy kéo, thiết kế một hệ thống điện đem anh sáng lại các nơi công cộng và làm việc tăng thêm sự khang trang của đảo

Ngoài ra c̣n phải kể đến những công tŕnh của các vị đại diện tôn giáo trên đảo . Chung trên một vùng đồi thơ mộng nh́n được khắp bốn bề là sự chung sống ḥa b́nh của ngôi giáo đường Thiên Chúa Giáo sừng sững uy nghi với cây thánh giá cao vút trên đỉnh, không lúc nào ngớt những tiếng ca của Đoàn Thánh Sinh, con cháu Chúa, nơi gặp gỡ của bà con trong ngày chúa nhật và các ngày lễ . Kế cận là khu Giáo Hội Tin Lành mà lối kiến trúc cũng không kém phần hoa mỹ, nơi này cũng thêm phần đậm đà v́ sự thiết tha quan tâm đến phương diện xă hội, đạo đức của vị mục sư chủ tŕ . Sau cùng là ngôi chùa thờ Đức Phật từ bi được xây dựng với nhiều tiền của, nơi tu dưỡng của các bà mẹ già mệt mỏi sau thời gian vượt biển, nơi sám hối của những ông chồng bỏ con vợ ra đi v́ mạng sống, nơi tiêu giải tất cả mọi phiền lụy, lo lắng oán thù của thế nhân, nơi tôn kính đáng ghi nhớ

C̣n nhà cửa của đồng bào th́ thiên h́nh vạn trạng, nhưng được xây cất rất trật tự và đúng theo đồ h́nh của một đô thị tân tiến . Đến Pulau Bidong, nếu chiêm ngưỡng cảnh sắc ở đây bằng con mắt của nhà danh họa Picaso th́ Pulau Bidong thật là thẩm mỹ .

-Đói không làm càn

-No không tự măn

-Giỏi chẳng kiêu căng

-Và đau khổ không gục đầu, bó gối .

Đó chính là sự cao quư nhất, một vết son đậm mà tất cả đồng bào khi rời trại Pulau Bidong đều hănh diện mang theo

Về sinh hoạt thường nhật của trại cũng tấp nập và hứng thú . Một khu chợ trời nằm kế cận đồn cảnh sát Mă Lai nhưng vẫn được cho duy tŕ, chứng tỏ giá trị lương thiện của nó đối với chủ nhân ông của vùng này . Chợ bán đủ các thứ dành cho đời sống con người, từ nhu yếu phẩm như bột, đường, gạo, mắm, cá, thịt v.v… đến những món hàng xa xỉ không cần thiết : Vàng, đồng hồ, máy hát, tiền trao cháo múc . Ai cần th́ đến, không thích th́ đi . Nh́n quang cảnh tấp nập của ngôi chợ tôi bỗng nhớ tới Sài G̣n chi lạ, nhớ khu Lê Lợi vào những chiều thứ bảy, chúa nhật, nam thanh nữ tú chen chúc xuôi ngược vui vẻ làm sao .

Kế cận đó lại có những cửa hàng giải khát, ăn uống đủ món cũng được rao bằng thổ sản trên đảo, biên chế từ các món hàng supply nhưng ăn cũng thơm ngon không tệ . Và có lẽ thích thú nhất là được vào các quán cà phê có nhạc thu thanh và nhạc sống để thả hồn theo ly cà phê đang nghi ngút khói, sống lại thuở thanh b́nh của quê hương mến yêu ngàn đời, qua các bản t́nh ca dân tộc bất diệt, để biết chắc rằng dù ḿnh đang ở đâu, lúc nào cũng như lúc nào đều mong đợi một ngày trở lại quê hương .

Cuối cùng là sự hiện hữu của những người ngoại quốc với cộng đồng VN trên đảo . Quả là những tâm hồn nhân đạo đáng suy kính . Tất cả đến đây không vụ lợi mà chỉ v́ sự thù ghét cộng sản bạo tàn nên đă cảm thông với hoàn cảnh người tị nạn . Có nh́n được sự làm việc tận tâm của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, của phái đoàn Mỹ-Úc suốt đêm ngày, không kể mưa gió thời gian, cố gắng thật hết ḷng để rút ngắn sự mong chờ, thiếu thốn của những người đang sống ở đây để Họ mau ra đi, có thấy chính quyền Mă Lai cũng đă điên đầu trong sự tiếp tế thực phẩm nước uống cho dân trên đảo trong khi chính dân của Họ cũng đang thiếu thốn, có nh́n những người bạn Mă Lai làm việc ở đây, chúng ta mới đau xót để nhận rằng cộng sản chính là trâu chó mất lương tri nên đă giết hại và đầy đọa dân chúng của ḿnh .

Tôi đă bầu bạn với Pulau 147 ngày, đă cùng Hắn chia sẻ ngàn muôn buồn vui, tủi cực, nên nay dù cách xa muôn trùng tôi vẫn không bao giờ quên được những ngày tháng qua, quên được t́nh người thắm thiết của đồng bào chung đảo, công sức của các vị lănh đạo và ḷng nhân ái vô biên của các phái đoàn ngoại quốc đă quan tâm đến sự đau khổ của nhân dân Việt Nam giữa tai kiếp do cộng sản Hà Nội đang khát máu gây ra .

Honoluu 25-4-1979

Mường Giang.

Những Cảm Nghĩ Rời Trên Hải Đảo Pulau Bidong
 
Tôi đă đi rất nhiều trong suốt 12 năm đời quân ngũ. Tôi đă sống qua những núi đồi chập chùng của miền Trung khô cằn sỏi đá. Huế đô cổ kính thơ mông nhưng buồn muôn thuở với ḍng sông Hương êm ả ngược xuôi . Núi Ngự B́nh nằm trơ gan cùng tuế nguyệt . Điện Bàn nhí nhô qua âm thanh cứng ngắt và khét nghẹt của mùi thuốc rê Cẩm Lệ . Châu Ổ, Sa Huỳnh, Phù Cát cát vàng nóng bỏng chạy đua với biển cả trông chừng mút mắt . Và miền cao nguyên muôn trùng địa danh hào hùng bất khuất mà tôi không làm sao nhớ xiết . Tôi cũng đă băng qua những rừng cao su ngun ngút của miền Đông đất đỏ, trữ t́nh, dấu ái nhưng không thiếu chi những bẫy rập giết người của giặc thù với B́nh Long, Đồng Xoài, Lộc Ninh, Sông Bé, của Củ Chi, Trảng Bàng, Quán Chim, B́nh Giă . Nhưng những bước chân phiêu bạt đó đâu làm tôi phải bận tâm cho lắm và nếu thân không ngă ở sa trường th́ dù ở đầu sông góc núi, cuối băi trên gành nơi nào cũng là Việt Nam quê hương muôn đời của tôi, cho nên thế nào tôi cũng phải quay về .

Nhưng hỡi ôi ! Hôm nay trên muôn dặm rủi may đi t́m đất sống . Lần đầu tiên tôi phải bắt buộc rời xa quê hương, tôi đă thực sự chối bỏ mọi ân t́nh để dấn thân vào con đường mịt mù cát bụi . Tự dưng tôi bỗng thấy bồi hồi và chua xót .

Tôi đến hải đảo Pulau Bidong vào một sáng mùa đông buồn hiu quạnh trên một con thuyền xa lạ và một cuộc hải tŕnh không lư thú . Chúng tôi 34 người Việt Nam vừa mất nước, tan nhà, như những tên tội đồ im lặng đi vào đất người với hành trang mang theo từ đất Mẹ . Đó là những di chúc cuối cùng, vói dặn kẻ ra đi phải mau trở về với niềm vui cho quê hương . Ngày nào giặc c̣n là ngày đó chúng ta c̣n phải liều thân tranh đấu . Ôi hai tiếng đấu tranh làm cho hồn tôi thêm nghẹn ngào tức tưởi . Bao nhiêu người đă bao nhiêu năm khổ đau cùng với quê hương quyết một ḷng tranh đấu nhưng cuối cùng phải trốn chạy để tháng năm sống vất vưởng ở quê người .

Tôi buồn bă rời con tàu Mă Lai để bước chân lên hoang đảo như thầm nghẹn hiểu rằng, tôi đă vĩnh viễn rời xa biển, chẳng c̣n hy vọng để trở về nguồn . Ôi nh́n màu nước biển xanh thẩm, trong mát với hương vị mặn nồng đă khiến cho tôi thèm nhớ quê hương

Tôi đă sinh ra ở Phan Thiết, bao nhiêu năm sống c̣n nhờ biển cả nấng nuôi và nay cũng từ Phan Thiết ra biển cả t́m sinh lộ . Tôi đă thực sự rơi nước mắt, sỏi đá gai nhọn và cát biển đă làm cho tôi hồi tỉnh . Tôi đă thành một tên Do Thái từ đây.

. Pulau Bidong cái tên Mă Lai hoang dă đă làm cho tôi thêm cảm xúc . Tại sao nơi đây không phải là Ḥn Rái, Ḥn Rơm, Ly Sơn, Phú quư ? Trơ mắt nh́n cảnh mới mà thêm ngại ngùng . Trước mặt tôi đảo Bidong lạnh lùng như một bóng ma với bao nhiêu dị kỳ, bí mật, xa xa bên trong là ngọn núi xanh thăm thẳm, đó đây rải rác những bóng dừa cao vút, ngạo nghễ reo vang với tiếng sóng bể nhấp nhô gào thét y như bóng dáng đen đúa của những người Cảnh Sát Mă Lai với khẩu súng cầm tay, xí xô trước đám dân Việt rét run v́ ướt át và tủi hận . Ôi đời lưu vong là thế đó

Chợt tôi thấy hoa mắt, một h́nh ảnh đẹp nhất trong muôn ngàn h́nh ảnh đă theo tôi qua bảy ngày khổ đau đi t́m đất Hứa . Đó là h́nh ảnh của những người Việt Nam thân yêu của tôi, từ trung tâm đảo ào ào như thác đổ, vội vă chạy đến bao quanh chúng tôi để han hỏi, vui mừng, cầu chúc và chia sẻ bớt những giọt lệ tủi sầu đă lăn trên má của đám người từ đất chết trở về . Đó là kỷ niệm đầu tiên mà tôi ghi được . Tôi sẽ mang theo trên khắp các nẻo đường xa xứ từ đây để hiểu rằng dù một thực tại có phũ phàng cay đắng . Tôi vẫn c̣n được hưởng trọn vẹn t́nh cảm của đồng bào của quê Mẹ Việt Nam .

ĐÊM ĐẦU TIÊN NHỚ MẸ

Có lẽ các em sẽ rất ngạc nhiên khi đọc qua những ḍng chữ này để rồi tự hỏi : “Tại sai tác giả phải chờ đến đây mới “Nhớ Mẹ” c̣n những giây phút về trước th́ sao ? Xin trả lời rằng : “Tôi không biết ǵ trong khoảng thời gian trốn chạy đầy đắng cay khổ đau trên biển cả, sự vất vả cùng tận đă thật sự bóp chết con tim rồi .

Tôi đâu có ngờ tôi phải bỏ quê hương để trốn chạy một cách âm thầm tức tưởi như thế này . Bởi thế, lúc ra đi tôi đâu có nghe được lời mẹ dăn ḍ, khuyên bảo . Buổi tạ từ, tôi cũng không nh́n được mẹ già một lần sau cuối, để gói trọn h́nh ảnh mẹ già vào hành trang dành cho cuộc viễn hành vô hạn định . Ôi, tôi là đứa con đầy tội lỗi, tôi đă ích kỷ v́ cuộc sống riêng tư mà không đoái hoài ǵ đến đời của Mẹ, một người mẹ mà suốt đời tôi tôn thờ yêu kính . Tôi c̣n nhớ thuở lên 18 tuổi, lần đầu tiên bước chân vào thế giới thi ca, tôi đă cùng nàng thơ bé bỏng của tôi ca tụng mẹ hiền với những thanh âm đầy tha thiết . Những điệp khúc đó nay đă 20 năm qua vẫn c̣n là những điệu ca réo rắt trong tâm hồn tôi .

-“Mẹ hiền ơi, con yêu mẹ muôn đời
T́nh của mẹ là t́nh yêu bất diệt
Con yêu mẹ cũng như yêu nước Việt
Mẹ là nguồn suối ngọt giữa hồn con

Để rồi hôm nay tôi viết tiêp :

Mẹ hiện về trong cuộc sống cô đơn
Cho con những nụ cười trên đất khách
Cho con hơi thở ấm yên, trong sạch
Cho con tấm gương soi sáng muôn đời
Mẹ hiền ơi, t́nh của mẹ tuyệt vời
Con đă viết nhưng không sao viết hết
Đẹp hơn ánh trăng rằm xanh biếc
Đẹp hơn đôi mắt của giai nhân
Con nguyện cầu mẹ măi sống b́nh an
Để hướng tay chèo về cố quốc
C̣n có Mẹ con không hề ngừng bước
Mẹ là bến cuối của đời tôi

Ba mươi bảy tuổi rồi, thế mà tôi vẫn xem như ḿnh c̣n bé bỏng như thuở nào, giữa khung trời cô quạnh, tiếng một bé nhỏ nào khóc gọi mẹ trong đêm, đă khiến cho tôi bồi hồi xúc động . Tôi đă thét gào trong bóng tối để gọi to hai tiếng Mẹ ơi ! Tôi khóc v́ mẹ tôi nay đă già rồi, như bóng đèn sóng lụn . Tôi khóc v́ ḿnh sẽ không c̣n dịp nào nữa để được ṿi vĩnh mẹ già, để được nâng niu tŕu mến và để được mẹ già chia sẻ nguồn hạnh phúc gia đ́nh

Rồi đây trên bước đường phiêu bạt, tôi chỉ là một con chim nhỏ lạc đàn, sống trơ trọi không nơi nương tựa, muốn c̣n thương nhớ mẹ chỉ c̣n biết hẹn trong những giấc mơ . Tôi sẽ gói trọn những h́nh ảnh thân yêu tôn kính của Mẹ tôi để muôn đời làm ngọn hải đăng soi sáng bước đường tương lai . Mẹ là tấm gương muôn đời cho tôi gạn lọc cuộc đời trong đục . Mẹ là bến về mà tôi chọn làm đường đến của thời gian .

Hỡi những ai may mắn có Mẹ bên ḿnh, hăy cho tôi san sẻ chút t́nh mẫu tử, hăy cho tôi một lần gọi tạm hai tiếng mẹ ơi, hăy mượn người mẹ già của bạn lau giùm tôi những ḍng lệ khổ sầu mà tôi chợt trào ra khóe mắt . Hăy giúp tôi một lần sau chót, khi tâm hồn chưa ổn định với thời gian, khi h́nh ảnh của mẹ tôi chưa xóa mờ, khi tôi chỉ là đứa con đang bơ vơ đi t́m Mẹ .

Honolulu tháng 4-1979

Mường Giang

Qua Những Nẽo Đường Pulau Bidong
 
Ngày 27-10-1978, chúng tôi đưọc tàu Mă Lai chở từ Trengganu đến PulauBidong, 34 thành viên tàu PTM1109 đưọc tiếp nhận vào trại tạm cư với số thứ tự tàu 100. Chúng tôi đưọc phân phối một nhà tiền chế tại khu F sát chân núi. Do quá xa và bất tiện, nên gia đ́nh ông S và L tự làm lều cạnh kho tiếp liệu thuộc khu A để ở, tôi cũng theo họ v́ chỉ có một ḿnh. Nói them khi chúng tôi đến, Bidong chỉ có 3 chiếc tàu của B́nh Thuận, một chiếc giả cào Nùng và một tàu quốc doanh đều ở Phan Rí và một tàu đi bán chính thức của Phan Thiết mang số 65. Tất cả người trên ba tàu trên chưa có ai d8ưọc gọi ra phái đoàn, mặc dù họ tới Mă Lai rất lâu.

Trong thời gian chờ đợi và cũng cần kiếm một chỗ ngũ an toàn ban đêm tránh mưa gió nơi hội trường,nên, bọn tôi t́nh nguyện vào làm Ban Xă Hội của Trại Bidong. Công tác chính là “chôn người chết trên đảo”. Tôi đưọc đề cử là chủ hảng “Tô Bia”, hai ông S và L chuyên đóng quan tài, bốn anh em c̣n lại làm phu khuân vác và đào huyệt..Nhờ vậy mà bọn tôi đưọc phân phối một vài bô quần áo cũ, thay bộ quần áo trận vá tram mănh đă theo chúng tôi từ quê hương nghèo khổ cơ cực tới đây..

Công tác bắt đầu vào một buổi sáng mùa đông lạnh lẽo, bên ngoài trời đang lất phất mưa bay, đem them sự lạnh buốt vào tâm hồn người viễn xứ,

Nhưng đời đă thế th́ thôi hăy cứ theo đời mà sống cho vui. Trong lúc quanh ta c̣n triệu triệu người khác c̣n bất hạnh và đau hận gấp ta vạn lần. ..Nghĩ như vậy nên anh em trong hảng cố gắng giúp đồng bào hoạn nạn, mặc dù cả bọn đều sợ lây các bệnh truyền nhiễm, khi phải tiếp xúc với tử thu.

Từ khi bước chân vào đời, giă từ tuổi mộng, rời bỏ mái trường yêu với những ngày hoa bướm. Tôi đă dăi dầu với gió mưa, dấn thân vào những nẻo đường chết, hằng giờ, hằng ngày và liên tiếp chẳng bao giờ ngớt đối diện với tử thần. Nh́n bạn chết v́ súng đạn của kẻ thù, nh́n kẻ thù ngă gục v́ đạn súng của ta rồi mềm ḷng khi nh́n lại, nh́n qua, ôi cũng chỉ là da vàng, mũi tẹt..cũng vốn ḍng máu Lạc Hồng bất khuất,nay v́ ai bôi mặt giết nhau . .

Rồi hôm nay lại có những cái chết giữa quê người, chết lềnh bềnh trên biển cả v́ giông băo thất thường, v́ đói khát sau bao ngày trôi giạt, v́ viên đạn bạo tàn luôn theo dơi . Lại có những cái chết ngay trên bờ đất hứa, chết khi đă nh́n thấy bờ tự do, chết thật là tức tưởi .

Đó thân phận của dân tộc chúng tôi như thế, viết bao nhiêu cũng không hết tủi hờn, càng viết lại càng buồn hơn, càng gượng vui lại càng thêm trống rỗng ‘

Chúng tôi bảy thằng khố rách, đă một thời ngang dọc vẫy vùng, nay sa cơ thất thế, ôm mộng vỡ trong tim, chôn hào khí qua tháng ngày sống lang thang trên hải đảo . Mắt ngu ngơ giữa cảnh lạ xa, mặt hốc hác v́ supply quá ít, nay bước vào bệnh viện lănh nhiệm vụ chôn người .

. Tôi đă chôn người nhiều rồi, chôn xác bạn trên chiến trường vội vă, chôn xác thù giữa chiến địa quạnh hiu . Rồi trong các trại cải tạo, giữa khu Kinh Tế Mới, tôi đă dự phần lo việc chung thân cho bao nhiêu người bằng hai bàn tay, bằng vài thanh tre mục, một chiếc hố đen, một con người bất hạnh, tất cả chỉ là cát bụi . “Sinh là kư mà tử là qui” . Thế gian là không không tất cả, nhưng chôn người tuy chẳng khó mà đứng nh́n xác chết lạnh tanh trong cảnh ly biệt thống khổ của đời phù sinh, giữa biển nước mắt, nghe giọng nỉ non của thân bằng quyến thuộc kẻ xấu số, để dửng dưng là một việc vô cùng khó xử . Khóc ư ? Tôi không c̣n nước mắt, cười ư, tôi đă héo con tim, vậy th́ dửng dưng làm tên ngu ngơ mất trí sao nghe chán năn đủ điều .

“Chợt thấy cay xè trên chót môi
Rờ tay mới biết lệ ḿnh rơi
Con người sinh tử là qui kư
Th́ có ǵ đâu phải ngậm ngùi ?

Ghi lại đây những kỷ niệm vui buồn trên hải đảo để nhớ lại những ngày phiêu bạt vất vưởng ở Bidong . Và làm sao quên đưọc chiều 30 Tết, trước đêm giao thừa 1978, bọn tôi vẫn c̣n phải đi chôn xác người..

NGÀY MAI TÔI RỜI HẢI ĐẢO

Tôi đến Bidong với hai bàn tay trắng ngoài một bộ đồ trận cũ rách che thân. Trong ḿnh không mang theo bất cứ một thứ giấy tờ ǵ của xă nghĩa cấp kể cả tờ xuất trại năm 1977. Do đó khi tŕnh diện ban hành chánh trại Bidong để lập thủ tục ra phái đoàn, tôi khai ǵ họ cũng không tin, cuối cùng phải ghi nghề đánh cá.

Ngày 5-1-1979, phái đoàn Úc đến làm việc kêu tôi phỏng vấn, không ngờ họ nhận.Tiếp theo là ngày 10-1 phái đoàn Mỹ cũng gọi tôi . C̣n nhớ hôm đó tại hội trường, tôi đến tŕnh diện ông trưởng phái đoàn Mỹ. Người này sau khi xem hồ sơ của tôi rồi để xuống bàn suy nghĩ chuyện ǵ đó. Chợt ông hỏi tôi bằng tiếng Việt “ Anh có đi lính VNCH không, có lần nào phuc vụ tại TK B́nh Thuận không, nếu có năm nào, lúc đó ai là Tỉnh trưởng ?”

Nghe ông hỏi tôi thấy cũng lạ v́ trong hồ sơ rơ ràng ghi tôi làm nghề đánh cá mà. Tuy nhiên tôi cũng thành thật trả lời “ Tôi là một cựu sĩ quan cũng là một cựu Tham Sự Hành Chánh của VNCH. Tôi từng phục vụ tại Sư Đoàn 18BB, BCH5TV và Ty Cưu Chiến Binh B́nh Thuận với chức vụ Phó Ty. Tỉnh Trưởng lúc đó là Cựu Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa cho tới ngày 19-4-1975 B́nh Thuận thất thủ. “ Nghe tôi trả lời, ông cười và hỏi them “Anh cố nhớ Tôi là ai không ?”. Qua câu hỏi trên, tôi mới dám nh́n thẳng ông và chợt nhớ và trả lời “Ông là vị cố vấn trưởng của tỉnh BT, làm việc bên Corp, phải không thưa ông ?.

Lúc đó ông mới xếp hồ sơ và bảo tôi “Mỹ nhận anh nhưng anh phải từ chối phái đoàn Úc trước”. Tôi dạ và cám ơn .

Và đúng như lời ông hứa “ ngày 13-3-1979 tôi đưọc gọi đi định cư tại Hoa Kỳ. Cũng từ đó, tôi mới dám viết thư liên lạc về gia đ́nh, dù không biết vợ con ra sao từ khi tôi rời khu KTM. Nhưng mặc kệ, ǵ ǵ th́ cũng phải báo tin ḿnh c̣n sống với Mẹ, Em cùng các con, để mọi người t́m lại những thâm t́nh mà thời gian qua tôi đă tạm cắt đứt v́ sự khe khắt cay nghiệt của đệ nhị quốc gia tôi đang tạm cư”

Thế là mai này tôi được phép rời đảo để dấn thân vào một phương trời xa lạ biền biệt như đám chim Việt năm nào đă rồi cội nguồn để đi lánh giặc . Tôi không ao ước ǵ cả, bởi cuộc đời đối với tôi, giờ c̣n ǵ mà mơ ước ? Tôi chỉ là con người cô độc từ thể xác đến linh hồn, tôi sung sướng hay khổ đau cũng chỉ riêng tôi hứng chịu ! C̣n gia đ́nh tôi hiện nay đang sống đói rách thảm thê . Tôi sung sướng bản thân để đọa đày cho những người ở lại, tôi hănh diện được sinh tồn để cho gia đ́nh càng lúc càng đi vào cơi hủy diệt và tôi viết cho ḿnh với đau khổ th́ những người thân nếu đọc được lại rơi nước mắt . Ôi đời sao cứ măi đuổi xô tôi thế, không lúc nào buông tha cho tôi được sống an lành dù chỉ một phút giây để cô đơn hưởng chút âm thừa của hạnh phúc gia đ́nh c̣n sót lại trong bước đường tha phương

Tôi chẳng biết làm ǵ để giết thời giờ khi nằm chờ đợi phương tiện rời đảo . Bạn bè th́ tôi đă từ giă hết cả rồi . Tôi cũng đă đi thăm từng nơi, từng chỗ trên hải đảo, nơi đă cho tôi dung thân gần 5 tháng, tuy khô cằn sỏi đá nhưng thấm đượm t́nh thâm v́ cũng chính nơi này tôi đă cùng đồng bào chia sẻ tất cả những cay đắng ngọt bùi và ư thức được rơ ràng về dân tộc, quốc gia, về nỗi nhục nhă của những người mất nước, sống cảnh lưu vong, hèn hạ hơn loài cây cỏ, chui rúc như kiếp kư sinh trùng, tháng ngày cứ măi đưa hai bàn tay để nhận lănh supply sống, mà không ngớt vuốt mặt cho nước mắt đừng rơi . Ôi Pulau Bidong chính là một khúc ca trường hận . Tôi quỳ đây để chiêm ngưỡng nó mà không ngớt hoan hô .

Nhưng dù sao hoang đảo cũng đă cho tôi lắm kỷ niệm . Tôi làm sao quên được ngày 27-10-1978, bước chân lên đảo với tấm thân tàn tạ, đau khổ ngỡ ngàng trong cảnh xa lạ, tủi hổ v́ đời xua đuổi và điên cuồng nhung nhớ về cố lư . Rồi tháng ngày lại qua như thoi đưa, ngày không đợi chờ người và người cũng chẳng cần ngày . Nên tôi ao ước được mau đi định cư th́ tôi cũng thầm xót xa khi nh́n lại mái tóc xanh mỗi ngày thêm bạc . Ôi đúng như lời Đặng Dung đă viết :

-“Nợ nước chưa xong, đầu đă bạc
Mài gươm dưới nguyệt đă bao lần …"

Tôi đă làm ǵ để sống ở đây khi chỉ có 2 bàn tay trắng, giữa lúc mọi người cứ măi xum xoe là lượt, thật tội nghiệp cho những thằng nghèo hèn . Bởi thế khi viết đến đây, tôi không khỏi chua xót khi những người c̣n ở lại cùng một cảnh ngộ như tôi, sống đói rách cô đơn và luôn luôn bị thiệt tḥi . Bởi c̣n một số người đời đă đến đây dù đă trải qua bao nhiêu ngày chung sống nhục nhă với cộng sản, vẫn chưa bỏ được những thói hèn tật rởm đáng thương cho họ thật .

Thôi cũng đành một lần nữa ra đi, tạm chia tay những người bạn thân yêu thuở nào . Cầu chúc tất cả đồng bào c̣n ở lại sớm được lên đường đến chân trời mới để lập lại cuộc đời với đầy đủ cỏ lạ hoa thơm đang chờ chực . Chúc hải đảo muôn năm bền chặt với thời gian để ngạo nghễ khoe ḿnh trên biển nước .

-“Chúc các em nhỏ an b́nh
-Chúc những bà mẹ già khỏe mạnh
-Chúc đồng bào trăm phần may mắn
-Mong đất trời yên lặng
-Mong hải đảo luôn luôn xinh đẹp
-Để cầu liên lạc giữa Pulau Bidong với trần gian
-Người mới được nhập trại, kẻ ở mau ra đi và tất cả tàu PTM1109 đều được may mắn đi Hoa Kỳ .

Honolulu tháng 4-1979

Mường Giang

Đường Về Nước Mỹ

Chúng tôi đến Merang vào lúc 16 H chiều ngày 19-3-1979. Thú thật tôi cũng không ngờ được là giây phút cuối cùng rời xa Pulau Bidong, nơi đă cưu mang tôi 140 ngày, nơi tôi biết thế nào là sự tủi cực khổ đau của đời lưu vong mất nước, kiếp ăn nhờ ở đậu..tuy nhiên tôi vẫn không nén đưọc nỗi xúc động và lưu luyến thật sự khi chia ly.

12 giờ trưa bước chân vào đồn cảnh sát Mă Lai để khám xét hành lư và lập thủ tục xuất trại. Sau đó qua công “La Sanh Môn” để bước chân xuống chiếc PRC4 rời đảo . Ôi c̣n ǵ cảm động cho bằng giây phút này ? Nh́n đồng bào đang đứng trên bờ vẫy gọi, cầu chúc, trao gởi, mới thấy thắm thía biết bao về t́nh dân tộc, nh́n những cặp mắt thiết tha dường như muốn rơi lệ của những người c̣n ở lại, mới đau ḷng trong cảnh chia ly . Tôi tiếc cho ḿnh không phải là một gă tài hoa để sống cảnh sinh t́nh, viết ngay những vần thơ diễm tuyệ gởi đến cho đồng bào, cho ta, để ghi lại tất cả những kỷ niệm của ngày xa đảo, để được đọc lại những buồn vui, đau khổ, trên bước đường viễn xứ .

-“Thôi ḿnh biết nói ǵ đây ?
Khi buồn thương đă chất đầy trong tim
Mai này như một cánh chim
Trời thênh thang rộng biết t́m nơi đâu ?
Lũng, đèo buốt giá mưa ngâu
Biên cương nay đến, giang đầu mai qua
Rừng Sim non sẽ chín già
Tuổi hoa theo bóng ác tà lên non
Như đời trấn thủ lưu đồn
Bỏ công ngày tháng sách đèn đam mê

Nhưng thôi, dù có vương vấn, bịn rịn hay buồn đau th́ tôi cũng đă xa Pulau rồi . Tôi đang đến trạm đầu tiên trên đường tiến về cổng thiên đường của nước Mỹ : Merang .

Đây là một trong những địa danh trên đất Mă Lai Á, nhưng cái tên này hầu như đă gắng liền trong tâm khảm của đồng bào tị nạn ở miền West Malaysia. Nó là một địa điểm tiếp liệu từ Trengganu xuôi về Kuala Lumpur . Nói rơ ra, Merang là nơi mà đồng bào tị nạn ở các trại Pulau Bidong, Besar và các trại giáp biên giới Thái Mă, đều phải đến đây nghỉ chân 1 vài ngày rồi lên đường về thủ đô lập thủ tục và chiếu khán để đi định cư ở đệ tam quốc gia .

Merang làm cho tôi cảm t́nh ngay, không phải nó với đầy đủ tiện nghi, không phải nó cho tôi tự do tối thiểu, mà v́ Merang quá quen thuộc và gần gũi với tâm hồn tôi . Thật vậy, Merang giống Cam Ranh, cũng nằm ngay trên bờ biển Thái B́nh Dương, chập chùng quanh quẩn là những núi đồi cao vút . Merang cũng nằm trên trục lộ chính . Merang cũng có những rặng dừa xanh thẳng tắp, điệp điệp mộng mơ . Nhưng chính Merang là nơi mà tôi lại sắp được gặp gỡ những người thân từ các nơi trẩy về .

Đêm nay tôi được ngủ lại Merang để mai lên đường dấn thân vào cơi gió bụi phù hoa làm lại cuộc đời mới, cuộc đời mà tôi biết chắc chắn sẽ là những nấm mộ đen che kín tâm hồn tôi, cuộc đời của một kẻ thất chí tan nhà . Nghỉ, nhớ và viết để tôi càng thêm ngậm ngùi .

Nằm yên lắng nghe những chiếc lá bên ngoài đang x́ xào, nghe sóng vỗ bập bềnh, tâm hồn cũng lao xao, ray rứt, giữa đêm đen khi nghe tiếng con chim lạc lơng cất tiếng kêu thảm thiết, có khác chi cảnh ngộ của tôi giữa cuộc đời phù phiếm sắp dấn thân vào . Tôi cũng chỉ là một con én đang nhỏ hồn trong đợi những trận gió xuân ấm áp để xuôi về cơi trời Nam .

Th́ ra cũng chỉ là những câu hỏi được lập đi lập lại, những chặn buồn trong điệp khúc của bản nhạc sầu vong quốc, khóe mắt tương tư của người mang mối t́nh lỡ với sự dày ṿ và hối hận của một tâm hồn đang gục chết, đang đi vào những lối quanh bế tắc, vây kín tơ nhện giăng lối về . Đi là sự nhớ thương triền miên cùng tận đă dành cho kiếp lưu đầy . Ôi rồi tôi sẽ phải làm ǵ cho tôi, cho gia đ́nh, quê hương trong những ngày sắp tới .

Merang quả là nơi lư tưởng,nó không giống Bidong một điểm nào . Chúng tôi được tự do ra vào cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, ăn uống mua sắm tự do nếu có tiền và các phương tiện tối thiểu dành cho một đời sống như nước, cơm, chỗ ngủ, chỗ tắm và giải trí đều có sẵn hơi thừa thải

Bởi thế tôi không thể quên nổi Merang dù đă xa ĺa nó . Tôi sẽ nhớ lại những địa danh xa lạ cùng những người bạn Mă Lai trong cơn vui buồn . Tôi thầm cầu nguyện được trở lại quê hương Việt Nam để cùng non nước vui hưởng lại hạnh phúc như thuở thanh b́nh .

KUALA LUMPUR NHỮNG NGÀY DÀI CHỜ ĐỢI

8 giờ 30 sáng ngày 21-3-1979, chúng tôi đến trại tiếp liên Cheras ở ngoại ô thủ đô Kuala Lumpur của Mă Lai Á, sau một đêm dài trằn trọc, lao chao và mất ngủ trên xe bus.

Tôi không biết phải dùng danh từ ǵ để gọi cho đúng cảnh tượng mà từ đằng xa tôi đă thấy từ trong ṿng rào kẽm gai với lố nhố những đầu, mặt, tay đang vẫy gọi cùng với những thanh âm le lói . Tất cả, tất cả dành cho người mới đến .

Tôi đă bước vào cổng trại Cheras, đi vào ngôi thánh đường trống rỗng đức tin, chỉ có người và người mà thôi . Vói nh́n chung quanh, trại được bao vây bằng những hàng rào kẽm gai cao vút, có lính gác nghiêm mật . Bên trong đen kịt những người chen chúc sống trên một diện tích vài trăm m2, tấp nập quanh rào, phía trước, bên hông, đằng sau là những đống rác to xù, chen chân với phân người, muỗi bọ và những người tị nạn từ khắp các nẻo đường Mă Lai Á đổ xô về đây để đợi chờ lên đường đi định cư.

Đời thật nản chi lạ, ở đâu trên đất Mă Lai này, cũng bằng thứ ấy thật giống nhau, được bày sẵn để dành cho người tị nạn . Tôi lại một lần nữa gia nhập vào cộng đồng của những tâm hồn lạc lơng để tham dự một cuộc hành xác, để đợi chờ một lần cuối cùng, mai xách gói ra đi, bỏ Mă Lai Á, bỏ ngôi giáo đường không, bỏ bạn bè và tất cả.

Hỡi ơi, suốt thời gian tạm trú ở đây với sự bảo trợ của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế dành cho người tị nạn VN t ại Mă Lai, hầu như không c̣n ǵ nữa để tôi phải nhắc đến . .

Tôi đă gặp lại những khuôn mặt quen thuộc ở nơi này. Tất cả đă méo mó, mệt mỏi, nên khi họ gặp tôi, họ đă ra dấu thánh giá như nhờ bề trên ban phước lành cho tôi sớm được ra đi, v́ c̣n ở lại nơi này là từng phút qua, cổ lại mang vào một ṿng khoen khổ ải . Những cảm nghĩ cứ dến với tôi liên tiếp và dồn dập, làm cho tôi không biết phải xếp đặt thế nào để viết . Ôi cớ sao sự vất vả và tủi hổ cứ liên tiếp đến với người tị nạn chúng tôi ? Tại sao người ta không cho chúng tôi một ngày ổn định, để chuẩn bị tư thế bước vào một cuộc sống mới .

Thôi tôi đă hiểu rồi, số phận của người tị nạn là thế .Tôi chờ đợi một chuyến ra đi cuối cùng, tôi sống càng lúc càng thu hẹp lại như những ṿng kẽm quanh nhà thờ cũng cứ măi thu hẹp lại, mắt trơ tráo đứng nh́n những người thân yêu lần lượt ra cổng, giă từ ḿnh . Họ cũng ra đi nhưng chẳng biết đi về đâu . Cũng như tôi sẽ chẳng biết là ở lại bao lâu nữa !

Rồi mai bước chân ra khỏi cổng trại, cách xa vĩnh viễn Cheras để rồi càng xa thêm Việt Nam, tôi tự hỏi ḿnh lại đến bao giờ mới được quay về cố huong để cùng non nước, gia đ́nh, bạn bè nối lại ṿng tay lớn .

Ghi vào đây một vài ḍng trong nỗi buồn ở Cheras .

Honolulu

4-1979

MG

 


VĂN CHƯƠNG

2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


C̣n nhớ không em?  
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường  
Đêm trắng  
Nước mắt trong cơn mưa  
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS


I’ll be home for Christmas  
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10  
Vợ hiền
Dạy con  
Lễ hội sinh nhật  
Chọn lựa  
BS Đặng Tuấn Long  
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca kinh hoà binh  
Môt thoáng ngậm ngùi  
Đường về không xa
Năm mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục  
Vá đường
Chăn gà  
Một người làm quan  
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời

Thuyền đi đâu, về đâu?  
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm  
Mẹ cài cho con đóa hồng  
Những mùa Trung Thu  
Thầy Trân  
Tháng Tư nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă  
Trái tim Bồ Tát  
Người Hạ Sĩ Nhứt
Lá thư t́nh trong cặp
Người pháo binh già...
Thức trắng đêm nay!
Mặt trận Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép  
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào  
Làm việc cho Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973  
Người chiến sĩ không quân phục  
Tôi cưới vợ 
Buổi họp mặt vui vẻ  
Cơi bụi hồng
Chiều buồn biên giới  
Mùa đi tù!  
Nếu có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước tôi  
Người Mẹ thời chiến 
Má tui  
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại 
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku 
C̣n thương rau đắng …  
Ngày lễ Mẹ 
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4 
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn  
Người về có nhớ thương binh?  
Từ những trang thơ 
Tự tử đi anh em! Tao không đầu hàng!  
Chuyện trên QL 20  
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH

Mùa xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta  
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống  
Bỗng dưng anh tới  
Để nhớ một thời...  
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến  
Trong nỗi khốn cùng   
Giờ phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về  
Phụng Dực, trận đánh để đời  
Buổi họp mặt vui vẻ  
Trạm cuối cuộc đời
Nhớ nhà  
Khép lại núi rừng  
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"  
Nhức nhối con tim  
Trái tim cao cả  
Hạt tình hồi sinh  
Hai con khỉ già 
T́m chốn thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt  
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt  
Đại gia ở Mỹ  
Chỉ c̣n nỗi nhớ  
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một cuôc chơi
Sự ra đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác và Hèn Hạ!  
Phi vụ "Ong Chúa" 14-4653 cuối cùng

Một cái Tết khó quên  
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?  
Vơ Ân và tôi  
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt  
Hạnh Phúc… Rơi  
Bông Mồng Gà  
Rồi người lính có về không?  
Tạ ơn Thiên Chúa !  
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít ướt
Những chuyện ngày xưa
Chân dung người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm cũ
Ơn đời chứa chan  
Câu truyện t́nh trong quân ngũ  
Trong lâu đài kỷ niệm  
Người nữ tù và giải Nobel  
Đùa của tạo hoá  
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH  
Con c̣n nợ ba
Cái bằng... lái xế !  
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân  
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường  
Con búp bê của mẹ 
Sự c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô Giáo Ngụy Người Huế  
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ  
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt biển...  
Huế, tôi và Mậu Thân  
Hương  
1 đồng giấy, 7 đồng phở  
Vui buồn với UH1  
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt  
Khoe chữ  
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....  
Truyện hai h́nh ảnh một đời người  
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi  
Nén hương ḷng cho một người vừa đền xong nợ nước  
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông  
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh  
Quê hương của tôi  
Chim trời bạt gió 
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Nó và biến thiên cuộc đời

Có những mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Các ngày tết ở VN trong năm 
Nói chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất 
Những người lính Dù bị lăng quên 
Gói trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....  
Người đưa thư  
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi
Chọn tuổi xông nhà đầu năm