30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ

Hà Việt Hùng

Chỉ cần nói tới 30 tháng Tư là biết ngay đó là 30 tháng Tư năm 1975. Tùy quan niệm mỗi người, dù sao, thời gian cũng đi nhanh quá, gần một nửa thế kỷ đă trôi qua, nh́n ngắm lại, chúng ta đă thành những ông (cụ) già, phần nhiều trí nhớ bị bào ṃn, “cạn kiệt” theo ngày tháng. Có những chuyện đă quên, và có những chuyện tưởng như mới xẩy ra hôm qua, không bao giờ quên được. Sau 30 tháng Tư, “bên thắng cuộc” (1) muốn nói ǵ th́ nói (lẽ dĩ nhiên), “bên thua cuộc” phải chấp nhận, không được phản đối; đó là quy luật của “cuộc chơi.” Có những chuyện vẫn c̣n nhớ, nhớ như in, nhớ từng chi tiết rất nhỏ; nhưng cũng có những chuyện đă quên rồi, có nặn đầu, bóp trán…cũng đành chịu vậy thôi, không làm sao nhớ được.

Đă đến lúc cần phải nói thật, phải nghe thật. Hăy trả lại sự thật khách quan cho lịch sử, đừng bắt nó phải gian dối như con người.

Sau 30 tháng Tư-75, Cố Thủ Tướng VC Vơ Văn Kiệt đại khái nói là “cuộc chiến đă kết thúc với hàng triệu người vui, nhưng cũng có hàng triệu người buồn.” Dân chúng, nhất là ở miền Bắc, mỗi năm đều tổ chức (ăn) mừng chiến thắng, nhưng chỉ vài năm sau, họ từ bỏ ngày này, xem như một ngày b́nh thường v́ nó chỉ gây thêm đau khổ, xót xa, vô nghiă cho bao gia đ́nh. “Những người làm nên lịch sử” bị bỏ quên theo dĩ văng. Đùng một cái, “các anh hùng” được nhắc tới như những đôi giầy rách, móc ra từ gầm giường. Họ được chải bụi, đánh “xi” láng coóng, được tôn vinh, ca ngợi. Chỉ khi đó người ta mới nhớ tới “những người làm nên lịch sử”, vội cử người về tận nông thôn, băng rừng, lội suối, hỏi thăm, t́m cho ra “những con người” đó. Bây giờ họ đă là anh thợ hớt tóc, anh nông dân ṃ cua bắt ốc, anh tài xế xe Lam, tất cả đều đang chật vật mưu sinh, nghèo nàn, cố gắng vượt qua đời thường vất vả, chẳng được tí ti ân sủng nào cả trong cái XHCN này. Có anh đă “chết mất xác” từ mấy chục năm nay chẳng ai đoái tưởng.

Gia đ́nh anh thợ cắt tóc già nua Bùi Quang Thận (2) cho biết anh đă bị bỏ quên 20 năm (đúng ra là gần 30 năm). Anh phải tự cứu ḿnh và gia đ́nh, không thể trông chờ chính quyền hay xă hội “thưởng công”.

Tôi đă đọc khá nhiều Hồi kư của các “bạn tù” đồng cảnh ngộ. Hăy cảm thông với họ. Có người bị tù 2-3 năm, có người bị 17-18 năm, hay hơn nữa. Bị đầy ải, nhục nhă; chấp nhận bao thị phi cùng đau khổ. Họ đáng được yêu thương, trân trọng, đùm bọc và bao dung. Bao năm họ đă phải hy sinh đời ḿnh, bảo vệ tự do, dân chủ, bảo vệ đất nước không CS. Có người c̣n có vợ con, gia đ́nh. Khi được “thả”, họ lại bị mất hết quyền lợi, ngay cả quyền công dân. Hăy nhớ tới họ.

Các con cháu tôi, những người sinh sau 1975, có thể không hiểu chiến tranh VN là ǵ, nhưng vẫn biết những người lính VNCH là ai. Thế là đủ rồi.

Tôi xin kể ra đây vài câu chuyện ḿnh biết sau 30 tháng Tư để con cháu sau này hiểu thế nào là “chiến tranh VN”, và nên đặt ḷng tin nơi ai, căm phẫn ai.

Tôi cứ loay hoay, thắc mắc măi, không biết gọi cuộc chiến này là ǵ. Gọi là “nội chiến, nồi da xáo thịt”, có người phản bác lại, không đồng t́nh; phải gọi là “cuộc chiến chống Mỹ xâm lược”. Điều buồn cười là để thực hiện cuộc chiến này, CS đă nhận viện trợ của Tầu và Nga, sao không gọi hai nước này là Đế Quốc xâm lược? Như Lê Duẩn từng tiết lộ: “Chúng ta (CS) đánh đây là đánh cho Trung quốc và Nga Xô”. Liệu lời nói đó có xác đáng không?

Mới gần nửa thế kỷ, nhưng hầu như lịch sử đă bị tô vẽ, bôi lọ theo ư riêng. Đây là sự việc c̣n gây khá nhiều tranh căi. Có chuyện bị bỏ quên, có chuyện lại bị lái qua hướng khác, có lợi cho phe nhóm ḿnh. Có người tự nhận ḿnh là người “trực tiếp hay gián tiếp có công với cách mạng” để lấy điểm, để được hưởng ơn mưa móc, để được về sớm, hay v́ nhiều lư do khác (9, 13, 14…)

Tôi cố gắng viết thật khách quan, tôn trọng từng chi tiết một, mong trả lại cho con cháu phần nào sự thật.

Lại chuyện hai chiếc xe tăng húc đổ cổng sắt Dinh Độc Lập.

Chuyện này tôi không được trực tiếp chứng kiến, v́ lúc đó đang ở Vũng Tầu, chỉ đọc báo và nghe nói sau đó. Tôi chỉ nói lại với những chú thích bên dưới.

Theo một nhà báo, đây không phải là cảnh thật của ngày 30 tháng Tư 75, mà chỉ là cảnh quay phim được thực hiện sau ngày ấy (không có đạo diễn hay đạo diễn quá tồi). Khoảng 11giờ 303, nhiều “bộ đội dép râu, nón cối”, mỗi xe có tới mấy chục người, đứng ngồi lổn ngổn, không thứ tự. Họ như lần đầu được đi xe tăng, cười nói hí hửng, leo lên hai chiếc xe mang số hiệu 390 và 843 thuộc trung đoàn tăng 203 (có chỗ nói là Lữ đoàn). Cần “ăng ten” của xe 390 có treo cờ MTGP miền Nam, lao qua cổng chính. Hai xe lần lượt tiến vào Dinh Độc Lập và phải tới lần thứ ba mới húc đổ hai cánh cổng sắt sơ sài (4) phiá trước. Xe 843 bị kẹt ở cổng v́ đứt xích (?). Tr/Úy Bùi Quang Thận (VC) phải bỏ xe 843, ngồi theo chiếc 390, rồi chạy lên các bậc tam cấp, cắm cờ lên nóc dinh Độc Lập buổi trưa ngày 30/4/19755.

Vẫn theo vị SQ này, các SQ VNCH khác, kể cả TT/ DVM (6) và Ch/Tướng Nguyễn Hữu Hạnh (7), bị giữ suốt chiều 30 mới được thả về.

Có vài Nhiếp Ảnh Gia ngoại quốc (8) chạy tới chạy lui săn h́nh. Họ chụp ảnh kỷ niệm “ngh́n năm một thuở” này. Dân chúng hiếu kỳ từ nhiều ngả đường, thấy không có ǵ cấm cản, họ đổ xô tới xem và nghe ngóng.

Cựu Đại tá Bùi Tín (VC) (9) là nhà bất đồng chính kiến, loan tin ông cũng có mặt tại Dinh ĐL khi Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh đầu hàng. Ông nhận ḿnh là người đi cùng đơn vị xe tăng đầu tiên đâm đổ cổng Dinh Độc Lập, và là người trực tiếp đă nhận tuyên bố đầu hàng của Tổng thống DVM vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vị Sĩ Quan cao cấp của VC khẳng định vào lúc đó BT là Thượng tá. Khi Tổng thống DVM đọc tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh, các nhà báo c̣n đang ở sở chỉ huy quân đoàn 3 (Củ Chi). Vị Sĩ Quan cao cấp này cũng khẳng định BT chỉ có mặt tại Dinh Độc Lập sau khi Tổng thống DVM từ đài phát thanh trở về (10).

Ông DVM ngồi chờ sẵn “bên thắng cuộc” đến để “bàn giao” (như đă được yêu cầu) nhưng sau đó “bên thắng cuộc” nói ông là người bị thua, không có ǵ để bàn giao cả. Ông DVM tái mặt, biết là bị phe CS dối trá, lừa gạt, nhưng đă muộn. Họ không có ư định muốn thương thuyết nghiêm chỉnh. Ngồi cạnh DVM lúc đó có các ông Vũ Văn Mẫu (11), (Lư Quí Chung (LQC) (12) và Nguyễn Hữu Hạnh (NHH). Sau đó, ông được mời ngồi chung xe jeep với ông Vũ Văn Mẫu (VVM) và Đại úy (VC) Phạm Xuân Thệ (PXT) (13) ở băng ghế trước, kế bên tài xế, qua Đài phát thanh Quân Đội. Tại đây, nguyên Tr/Úy, Chính Ủy (VC) Bùi Văn Tùng (15) viết “lệnh đầu hàng” để DVM đọc (16).

Sau lệnh này, có một số SQ và binh sĩ VNCH tự kết liễu đời ḿnh trên nhiều ngả đường.

Sở dĩ tôi nói lại sự kiện này v́ nghĩ nó là “ngày quan trọng”, ít ra cũng là đối với CS. Nói đến chuyện này để cho “có đầu có đuôi”. Đến nay, nhiều người dân đă không c̣n “mặn mà” với ngày này. Họ “ăn mừng” nhiều việc khác c̣n to lớn và linh đ́nh hơn (17) v́ nghĩ CS nói dóc quá.

Thấy “bộ đội dép râu, nón cối”, nhiều thanh niên miền Nam v́ hiếu kỳ bu lại, xem có ǵ “khác lạ” không. Có giọng hỏi:

-Các Đồng chí sinh ở đâu?

-…ở Bắc Linh (Ninh) (18).

Một người khác chen vào.

-C̣n tớ th́ ở Hà Lam (Nam) Linh (Ninh).

-Sao các đồng chí lại vào đây?

-Th́… để giải phóng miền Lam (Nam) khỏi bị Mỹ-Ngụy ḱm kẹp.

“Bộ đội dép râu, nón cối” vào nhà dân bên đường xin nước. Họ mang ra công viên có hàng cây cao, tát ra rửa tay chân, mặt mũi bám đầy đất đỏ. Những người khác cứ tự nhiên ăn cơm đựng trong những cái gà-mèn. Họ dùng đũa có vẻ thành thục, tuy nhiên vẫn làm vung văi ra nhiều chỗ. Phần lớn những người này mặt mày c̣n non choẹt, chỉ độ 15-16 tuổi, mặt búng ra sữa. Họ thật thà đến ngô nghê, tội nghiệp. Nhưng lại có tính hay nói dóc hoặc ba xạo, nói phét, khoác lác hay nói quá sự thật. Cái ǵ miền Bắc cũng là nhất.

Đó là buổi trưa ngày 30-4-75.

1. Cái nón của thằng Nguyễn Cao Kỳ (19).

V́ tŕnh diện ở Vũng Tầu, tôi phải đi “học” ở Long Thành (tỉnh Long Khánh)”. Sau 2-3 lần bị trả về, v́ Trại chưa chuẩn bị xong chỗ ăn ở, đến cuối tháng 6-1975, chúng tôi mới chính thức được “ở tù”.

Nghe nói trước đây là doanh trại Công Binh của QLVNCH, trên đường đi Long Khánh, cách Suối Tiên khoảng một cây số nếu đi qua đồn điền cao su đối diện.

Mấy ngày đầu không học ǵ măc dù chúng tôi rất muốn, học cho xong, về c̣n “làm ăn”.
Chúng tôi chỉ vệ sinh trại, soạn đồ đạc, nghỉ ngơi, và, đợi ngày học...
Một hôm, theo lệnh quản giáo, chúng tôi tụ tập ở căn nhà tôn tiền chế, tưởng là đi học.
Một người bộ đội người miền Nam (không phải quản giáo, có lẽ là Đại Uư ở nơi khác đến), mặc bộ đồ đen, c̣n một tay, chỉ một ngón tay xuống đám “tù”, nói:

-Anh nào đang đội cái nón của thằng NCK kia?

V́ bất ngờ, chúng tôi nh́n nhau, ráo rác không hiểu, hắn nói tiếp, giọng tức bực:

-Tôi hỏi, anh nào đang đội cái nón của thằng NCK kia?

Anh bạn nghĩ là ḿnh “đang đội cái nón của thằng NCK” chỉ tay vào ngực ḿnh, hỏi lại tên quản giáo:

-Tôi hả, đồng chí?

-Anh, chứ c̣n ai? À, mà này, anh gọi ai là “đồng chí”? Ai là “đồng chí” của anh? Vớ vẩn.

Anh bạn “tù” tiu nghỉu, ngồi phệt xuống, mắt không rời tên “dép râu”. Th́ ra, “nón của thằng NCK” chỉ là cái nón “lưỡi trai” b́nh thường, mầu xanh đậm, thanh niên đội nhan nhản ở SàiG̣n. Đó là nón NCK thường đội mỗi khi đi công tác. Có lẽ tên “dép râu” này bị gẫy tay ở trận nào đó, nghĩ là bị không quân VNCH thả bom, trong đó có NCK, và từ đó gă đâm ra oán thù.

Anh bạn “tù” tiu nghỉu, gỡ cái nón ra, cầm trên tay, ư đợị dịp khác sẽ đội. 6-7 người khác thấy vậy, cũng làm như thế.

Tên quản giáo hằn học, trên cao lặng im không nói ǵ.

Phó TT/ VNCH bị gă VC dốt nát gọi bằng “thằng”. Ông Kỳ có nghe không? Có bao giờ một tay lính dưới quyền dám gọi bằng “thằng” chưa? Hiện ông đang ở đâu? Ông c̣n muốn “ḥa hợp, hoà giải” với VC nữa không?

2. Không dại nào giống dại nào.

Ở B20 tôi có một anh bạn tên Phương. Anh Phương c̣n rất trẻ, chỉ khoảng 19-20 tuổi thôi. Vậy mà đă đeo trên cổ áo một mai vàng rồi, không biết anh c̣n “lên” đến đâu nữa.

Một hôm, mẹ anh tới trại, khóc lóc với tên vệ binh gác cổng. Bà cầm trên tay một xấp giấy, ư muốn “tŕnh” tên vệ binh gác cổng hay ai đó:

-Chú ơi, sao con tui bị “tù” lâu quá vậy?

Tên vệ binh lấy làm ngạc nhiên. Gă hỏi lại, giọng kẻ cả:

-Hàm (21) ǵ?

-Binh Nh́. Ừ, Binh Nh́ chứ ǵ? Tui già cả, lại là đàn bà, đâu biết “hàm” chi. Chú xem giấy đây nè.

-Bác cứ để đây. Về nàm ăn đi. Tôi sẽ tŕnh “Trên” giải quyết. Cần có thời gian mới được. Ba ngày lữa trở nại.

Ba ngày sau, bà già trở lại. May là gặp lại tên vệ binh cũ đang đi.

-Sao, bà già đến có việc ǵ thế? A, có phải bà đến về vụ con chai không?

Bà già mừng quưnh dù chưa biết có đúng hay không.

-Dạ, đúng. Dạ, đúng. Chính tôi…

Gă vệ binh đi tới, vừa nói với bà, vừa giở xấp giấy đang cầm trên tay:

-Này nhé. Con bác là Sĩ Quan “Ngụy” mà. Sĩ Quan “Ngụy” học tập c̣n nâu mới về. Bao giờ “tiến bộ” mới được về.

Bà già tỏ ra ngạc nhiên.

-Rơ ràng, hôm cuối tháng sáu, nó xin bác sáu ngàn rưởi, đóng tiền cơm nửa tháng… để đi “học” mà. Ủa, sao lạ vậy cà?

- Đây lày, anh ấy khai nà Thiếu Úy.

-Ủa? Nó là Binh Nh́ mà.

-Không biết. Có thế mà cũng nàm ầm nên (làm… lên). Nắm (Lắm) chuyện.

Gă vệ binh trả lời một cách trống không, xấc láo. Bà già nói mà muốn té xỉu.

- Ủa…Sao con tôi dại vậy kià?

Th́ ra anh Phương là Binh Nh́ (VNCH), phục vụ tại một đơn vị ĐPQ gần nhà. Trong xóm anh có mấy cô gái trẻ, trông cũng “sạch nước cản”. Anh nghĩ cách “tự gắn lon” cho nó “oai” với mấy cô ấy. “Oai” đâu không thấy, chỉ thấy sáu tháng rồi anh vẫn bị “nhốt” chưa về, trong khi các hạ sĩ quan và binh sĩ khác chỉ “học” 5-10 ngày tại địa phương rồi về nhà làm ăn, anh mới “tá hỏa tam tinh”, cầu cứu mẹ già. Tội nghiệp bà già, không biết “ất giáp”ǵ, lật đật cắp nón lên đường.

19 tháng sau, tôi chuyển trại về Thành Ông Năm, không c̣n nghe tin về anh nữa, không biết chuyện ǵ đă xẩy ra cho anh. Tôi thầm cầu nguyện cho anh gặp may mắn, sớm trở về với mấy cô gái trẻ của anh.

Thật là… không dại nào giống dại nào.

3. Lên lon Đại Úy.

Cạnh B tôi có anh Tr/Úy Minh (VNCH). Anh M là người Nam, vui tính, bộc trực. Tôi quên không hỏi anh thuộc đơn vị nào.

Không biết anh bắt gặp điểm ǵ tốt ở tôi, ngày nào anh cũng qua nói chuyện với tôi, khi th́ sáng, khi th́ chiều. Bao giờ cũng vậy, tôi đứng ở ngoài trời hay dựa cửa “pḥng giam” nói chuyện với anh cho tiện. Vừa gặp tôi, anh đă cười toe toét cái miệng, chờ cho hết người, rồi mới chỉ vào cổ áo:

- ĐM, đáng lẽ anh đeo ba bông mai vàng rồi, “bọn này” vào, làm trật lấc hết. ĐM.

Tính anh hiền ḥa, thẳng thắn kiểu người miền Nam, gần như mỗi câu đều phải chêm vào một tiếng “ĐM” mới “đầy đủ ư nghiă”. Tôi lại thích như vậy.
Lần nào gặp tôi, anh cũng cười toe toét, chỉ vào cổ áo và đều nói như vậy.

Đến giờ phút ấy, anh vẫn “lạc quan tếu” được. Riêng chúng tôi th́ buồn muốn chết, không biết đời ḿnh rồi sẽ ra sao.

Cũng may, anh chưa lên Đại Úy. Nếu anh lên Đại Úy rồi, chắc ǵ tôi đă có dip gặp anh ở cái “nhà tù” này. Sau những đợt “chuyển trại kế tiếp, không biết anh về đâu. Tôi vẫn thầm cầu nguyện cho anh gặp nhiều may mắn, không bị “đ́” vào những nơi “khỉ ho, c̣ gáy” hay quá lạnh lẽo.

4.Ăn cắp khoai ḿ.

C̣n năm ngày đến Giáng Sinh năm 1980 th́ tôi được “thả”. Không hiểu lư do, nhưng đầu tiên là “học tập tốt, lao động tốt, chấp hành nội quy tốt”. Ḷng vui mừng vô hạn v́ “chim sắp xổ lồng”. Mới 5 giờ sáng, một gă quản giáo Trại bất ngờ đọc tên những người được “thả”, khoảng hơn 10 người, trong đó có tôi. V́ c̣n sớm, chúng tôi phải đợi xe chở ra khỏi rừng. Trong lúc đó, tôi chợt nhớ ḿnh tôi không c̣n một đồng. Đă 3 năm rồi tôi không có “thăm nuôi” v́ nghĩ rằng đường rừng xa xôi, mẹ tôi lại không làm ǵ ra tiền, tôi không muốn mẹ đi thăm tôi. Mỗi lần đi thăm tôi, mẹ tôi lại phải đến những nhà quen xin xỏ, khi th́ cục đường tán, khi th́ gói trà nhỏ. Tôi cảm thấy tủi thân.

Đợt về này, mỗi “cải tạo viên” được phát 12 đồng làm lộ phí di chuyển. CS tính toán y chang. Tôi phải mượn anh bạn “tù” thêm 4 đồng nữa. Tổng cộng trong túi tôi có 16 đồng.

Tôi nghĩ tới bữa chiều và bữa sáng hôm sau của ḿnh trước khi về tới nhà v́ c̣n rất xa mới thoát khỏi khu rừng này. Hơn 5 năm “tù”, tôi đă được dậy thế nào là “đói” và “cách khắc phục”. XHCS thật ưu việt.

Bất ngờ tôi thấy có một cái bao cói (lát) vứt trên đường đi. Tôi lượm lên. Nh́n trước nh́n sau ḍm chừng mấy gă vệ binh. Thấy không ai để ư đến ḿnh, tôi chui tọt vào rừng ḿ trước mặt.

Đây là “vùng nuôi quân” của VC. Khi chiếm được Phước Long, VC trồng ngay khoai ḿ để nuôi quân và cứu đói mỗi khi cần thiết trong khi tiếp tục “giải phóng” miền Nam. Phước Long là vùng đất đỏ, đất rất tốt. Khoai ḿ phát triển thật mạnh mẽ v́ gặp đất thích hợp.

Năm phút sau, tôi đă “thu hoạch” được nửa bao. Ước chừng đă đủ, tôi dừng tay. Tôi đă trải qua hơn 5 năm trong nhà tù, nếu bây giờ bị bắt, tôi sẽ đứng dưới cột cờ, trồng lại cây khoai ḿ khác… cho “nhân dân”. Cái ǵ người ta cũng nhân danh nhân dân, đem nhân dân ra “hù” dân chúng, nào là Quân Đội ND, Uỷ Ban ND, Toà Án ND, Công An ND, Hội Đồng ND, cả Nghệ Sĩ ND, vv… Tôi sẽ bị “nhốt” thêm “vài” năm. Đó là h́nh phạt “tuyệt vời” do mấy tên vệ binh “đỉnh cao trí tuệ” nghĩ ra. Mới ra “tù” sau 5 năm rưỡi, bây giờ lại bị “nhốt” thêm vài năm nữa v́ “chưa tiến bộ”, chắc không ai muốn.

Tôi trả tiền xe 8 đồng, c̣n 8 đồng nữa. Đây mới là bià rừng. Tôi c̣n phải về B́nh Dương, Bến Xe B́nh Triệu trước khi về tới nhà.

Mới hơn 5 năm, tôi đă thấy lạc lơng và lạ lẫm. Sàig̣n thật hờ hững. Tôi nhớ đến mẹ tôi.

Hà Việt Hùng
Tháng Tư, 2018


Chú Thích:
1) Một tựa sách của Huy Đức (trong nước) - gồm 2 tập.
2) Có 2 chuyện khôi hài ở đây. Khi Tr/Úy BQT chạy hết các bậc thang dẫn vào dinh, đụng phải một cái cửa kính rất to làm sưng cả mặt, và một chuyện nữa, anh tưởng pḥng dẫn lên lầu nếu đi bằng cầu thang máy (escalator) là cái hộp khổng lồ giam người, nên do dự, băn khoăn măi không dám vào, sợ “nó” nhốt ḿnh không thả ra nữa, sẽ mất dip treo cờ. Đọc tới đây, đủ thấy “cái ngây thơ” của mấy anh “răng hô mă tấu”, suốt đời chưa đi thang máy hay ngồi pḥng có gắn máy lạnh bao giờ. Tr/Úy BQT đă qua đời trong thầm lặng năm 2012.
3) Ông Vơ Quang Chiêm, cựu Đại Tá VNCH, Chánh Văn Pḥng Phủ Tổng Thống VNCH, nói là 12 giờ 30, có hai xe tăng, một nơi cần “ăng ten” có treo cờ Mặt trận giải phóng miền Nam, lao qua cổng chính, vào Dinh. Tr/Úy BQT lấy cờ Giải phóng trên xe, treo lên nóc Dinh. Binh lính VC trên hai xe trước sân, đồng loạt nổ súng chỉ thiên để mừng chiến thắng.
4) Hàng rào quanh Dinh chỉ dùng phân cách với bộ hành nên không cần phải chắc chắn. Vị này c̣n cho biết hai cánh cổng chính vẫn mở từ sáng ngày 30-4-75.
5) Wikipedia.
6) Ông DVM được cử làm T/Thống VNCH 2 ngày trước khi VC vào tới Sài G̣n. Miễn “tù”. Mất tại Mỹ năm 2001.
7) Ông NHH là Cựu Ch/Tướng VNCH (đă về hưu, đi theo MTGP từ lâu nhưng không ai biết), được VC xem như một nhân sĩ có “công” với đất nước, hiện c̣n sống trong nước. Miễn “tù”. Khi ông DVM làm T T, ông NHH giữ chức Phụ tá cho tân Tổng tham mưu trưởng (Tr/Tướng Vĩnh Lộc) nhưng ông tướng (VL) này “đă tự di tản” trước khi CS vào tới Sàig̣n.
8) NB Đức Borries Gallasch và Nữ NB Pháp Françoise De Mulder. NB nữ này mất tại Pháp năm 2008.
(9) Cựu Đại tá Bùi Tín nói ông là sĩ quan cao cấp duy nhất của CS Bắc Việt có mặt sớm nhất tại dinh Độc Lập khi Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh (DVM) đầu hàng. Ông chính là người đi cùng đơn vị xe tăng đầu tiên đâm đổ cổng Dinh Độc Lập, và như vậy, ông là người trực tiếp chấp nhận tuyên bố đầu hàng của DVM (W)10. Theo một Thiếu tướng thuộc QĐNDVN, vào lúc đó Bùi Tín c̣n là Thượng tá. Và khi Tổng thống DVM đọc tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh, các nhà báo c̣n đang ở bộ chỉ huy quân đoàn 3 (Củ Chi). Cũng theo vị tướng này, ông Bùi Tín chỉ có mặt ở Dinh sau khi Tổng thống DVM từ đài phát thanh trở về (Wikipedia). Nhà báo người Đức Borries Gallasch không bao giờ nói đến ông BT.
Ông BT có đính chính chuyện này, nhưng h́nh như không ai nghe hoặc nghe không rơ. Biết đâu ông cũng muốn vậy. Từ 1990, Đại Tá BT bỏ ĐCS, xin tị nạn chính trị tại Pháp.
(10) Wikipedia.
(11) Luật Sư VVM được cử làm Thủ Tướng sau khi ông DVM “lên ngôi”. Sau 30 tháng Tư, ông được miễn “tù”. Mất tại Pháp năm 1998.
(12) Dân Biểu Lư Quí Chung thuộc nhóm đối lập, thường tự xưng là thành phần thứ ba do do ông đại diện, Bộ Trưởng Thông Tin trong Chính phủ mới. Ông LQC đến trước mặt tên lính CS, tự giới thiệu ḿnh là thành phần thứ ba (nghiă là trung lập, không nghiêng về phiá nào) trong chính Ḥa Hợp Ḥa Giải Dân Tộc, nhưng tên này hét to lên: “Ở đây không có thành phần nào hết, ngồi lại đằng kia”. Thế mới biết, khi mất nước là mất tất cả. Miễn tù”. Sau 30 tháng Tư 75, CS không tin tưởng ở ông. Ông qua đời năm 2005 tại VN.
13) Đại Úy Phạm Xuân Thệ (Trung tướng Tư lệnh Quân khu 1 trước khi về hưu năm 2008),Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Bộ Binh, thuộc Quân đoàn 2, cũng nói rằng ông chính là người đă dẫn độ TTDVM từ Dinh ĐL đến Đài phát thanh Sài G̣n để tuyên bố đầu hàng “vô điều kiện”. Hai người ngồi chung một ghế, cạnh tài xế (?), ghế sau có hai cảnh vệ và ông VVM. Có sách (B. Galllasch) sau này viết chính PXT đă bắt TT/DVM là không đúng.
14) Tiểu Đội Trưởng Trần Đức T́nh (Thái Nguyên) cho biết ông cũng là người đă chạy theo BQT, cắm cờ trên nóc Dinh ĐL.
15) Tại Đài Phát Thanh QĐ, thoạt đầu ông VVM viết “lệnh đầu hàng” nhưng “bên thắng cuộc” nói với Tr/ Úy Chính Ủy (VC) Bùi Văn Tùng (Trung tá Bùi Văn Tùng, Nguyên Chính ủy Lữ đoàn tăng 203 (sau là Đại tá, đă nghỉ hưu viết bản khác. BVT phải mất 15 phút mới viết xong (?).
16) Có thể v́ bị bối rối hay bấn loạn, ông DVM đọc đến lần thứ ba mới được.
17) Một nước có nhiều dân nhất ở Trung Á, trước đây một phần thuộc Nga (200 năm), gần Afghanistan, (trước kia gọi là A Phú Hăn).
Chính nước này đă đá VCK U-23 Châu Á 2018 tại Trung Hoa ngày 27-1-2018. Đội U-23 VN được ca ngợi như những “anh hùng” dù thua 1-2. Có cả những cô em “hơ hớ” đi qua đi lại, theo sáng kiến quảng cáo của “bà chủ” VietJet Airlines (một hăng máy bay trong nước), hoặc có những em đứng trên xe gắn máy, “cởi hết đồ nghề” cho mọi người xem. Đó là món “đặc sản” VN và là cách “ăn mừng” theo kiểu CS.
(Dù không thuộc phạm vi bài này, cũng cần nói thêm, nên phân biệt với Argentina (Á Căn Đ́nh, là nước lớn thứ hai ở Mỹ Latin, kế bên Paraguay, có cầu thủ Messi).
18) Tùy nơi sinh và ở, phần lớn những người này đều nói ngọng (nói đớt). Họ không phân biệt được âm /m/ và âm /n/. Việt Nam th́ họ nói là Việt Lam, đi làm th́ nói là đi nàm, ḷng lợn là
ṇng nợn, vân vân.
19) NCK là Phó TT thời Đệ Nhị VNCH. Ông này có tật tuyên bố vung vít, ngổ ngáo như vụ tại nhà thờ Vinh Sơn, rồi ngay hôm sau ông “dzọt” mất, bất kể đồng bào của ông ra sao. Ở hải ngoại, ông kêu gọi “ḥa hợp, hoà giải” với VC. Có người nghĩ phải chi ông ở lại VN sau 30 tháng Tư 75 th́…hay quá. Không biết khi đó ông c̣n dịp kêu gọi “ḥa hợp, hoà giải” nữa không. Stanley Karnow (Vietnam - A history) nói ông Kỳ “giống như một tay thổi kèn saxo trong một hộp đêm hạng tồi.” Nhà văn Frances Fitzgerald (Fire on the Lake) cho rằng ông Kỳ là “một kẻ lừa bịp,... một tướng lănh làm mất ḷng tin của mọi người, và ông ta không có khả năng cầm binh.”
20) Cách phân chia “đơn vị” của VC (cỡ 1 trung đội hay hơn, platoon). A (tiểu đội, squad), C (đại đội, company), D (tiểu đoàn, batallion), E (trung đoàn, regiment), F (sư đoàn, devision) hay công trường (CT), v.v.
21) Quân hàm, cấp bậc (rank).

 

 


VĂN CHƯƠNG

2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


C̣n nhớ không em?  
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường  
Đêm trắng  
Nước mắt trong cơn mưa  
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS


I’ll be home for Christmas  
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10  
Vợ hiền
Dạy con  
Lễ hội sinh nhật  
Chọn lựa  
BS Đặng Tuấn Long  
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca kinh hoà binh  
Môt thoáng ngậm ngùi  
Đường về không xa
Năm mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục  
Vá đường
Chăn gà  
Một người làm quan  
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời

Thuyền đi đâu, về đâu?  
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm  
Mẹ cài cho con đóa hồng  
Những mùa Trung Thu  
Thầy Trân  
Tháng Tư nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă  
Trái tim Bồ Tát  
Người Hạ Sĩ Nhứt
Lá thư t́nh trong cặp
Người pháo binh già...
Thức trắng đêm nay!
Mặt trận Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép  
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào  
Làm việc cho Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973  
Người chiến sĩ không quân phục  
Tôi cưới vợ 
Buổi họp mặt vui vẻ  
Cơi bụi hồng
Chiều buồn biên giới  
Mùa đi tù!  
Nếu có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước tôi  
Người Mẹ thời chiến 
Má tui  
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại 
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku 
C̣n thương rau đắng …  
Ngày lễ Mẹ 
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4 
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn  
Người về có nhớ thương binh?  
Từ những trang thơ 
Tự tử đi anh em! Tao không đầu hàng!  
Chuyện trên QL 20  
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH

Mùa xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta  
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống  
Bỗng dưng anh tới  
Để nhớ một thời...  
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến  
Trong nỗi khốn cùng   
Giờ phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về  
Phụng Dực, trận đánh để đời  
Buổi họp mặt vui vẻ  
Trạm cuối cuộc đời
Nhớ nhà  
Khép lại núi rừng  
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"  
Nhức nhối con tim  
Trái tim cao cả  
Hạt tình hồi sinh  
Hai con khỉ già 
T́m chốn thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt  
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt  
Đại gia ở Mỹ  
Chỉ c̣n nỗi nhớ  
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một cuôc chơi
Sự ra đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác và Hèn Hạ!  
Phi vụ "Ong Chúa" 14-4653 cuối cùng

Một cái Tết khó quên  
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?  
Vơ Ân và tôi  
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt  
Hạnh Phúc… Rơi  
Bông Mồng Gà  
Rồi người lính có về không?  
Tạ ơn Thiên Chúa !  
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít ướt
Những chuyện ngày xưa
Chân dung người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm cũ
Ơn đời chứa chan  
Câu truyện t́nh trong quân ngũ  
Trong lâu đài kỷ niệm  
Người nữ tù và giải Nobel  
Đùa của tạo hoá  
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH  
Con c̣n nợ ba
Cái bằng... lái xế !  
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân  
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường  
Con búp bê của mẹ 
Sự c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô Giáo Ngụy Người Huế  
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ  
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt biển...  
Huế, tôi và Mậu Thân  
Hương  
1 đồng giấy, 7 đồng phở  
Vui buồn với UH1  
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt  
Khoe chữ  
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....  
Truyện hai h́nh ảnh một đời người  
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi  
Nén hương ḷng cho một người vừa đền xong nợ nước  
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông  
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh  
Quê hương của tôi  
Chim trời bạt gió 
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Nó và biến thiên cuộc đời

Có những mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan   
Các ngày tết ở VN trong năm 
Nói chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất 
Những người lính Dù bị lăng quên 
Gói trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....  
Người đưa thư  
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi
Chọn tuổi xông nhà đầu năm