(Kính dâng Hiền Mẫu)
Có lẽ đã qúa nửa đêm. Nửa đêm vào những tháng gần cuối năm miền Bắc
trời rất lạnh. Tôi được mẹ mặc cho chiếc áo dạ đỏ ra ngoài cái áo
cánh màu hoa lý. Sợ tôi vẫn lạnh, mẹ lấy thêm chiếc áo bông mỏng
của mẹ mặc cho tôi. Tôi hồn nhiên mặc áo, thích thú đong đưa hai tay
áo vương dài gần chấm đất. Bên cạnh gia đình tôi là gia đình Chiến,
một đứa bạn cùng xóm và cùng chờ đợi một chuyến bay. Nhìn tôi, Chiến
trề môi:
- Ê, mặc áo của mẹ. Xấu hổ. Áo gì mà dài qúa đầu gối và hai cánh tay
dài như hai cánh tay ma.
Tôi vốn chậm, khờ và hay mắc cở. Bị Chiến chê, tôi buồn lắm. Tôi lại
yêu mẹ và qúy tất cả những gì thuộc về mẹ. Nay nghe Chiến chê áo mẹ
có hai cánh tay dài như cánh tay ma, tôi giận và nghĩ thầm: "Con
trai gì mà chỉ giỏi ăn hiếp con gái là không ai bằng!" Nghĩ thế, tôi
giận Chiến hơn. Vì nhút nhát và không biết cãi lại Chiến nhưng
hai mắt tôi đã rưng rưng.
Chị Thùy, chị của Chiến thấy tôi tội nghiệp, giảng hoà:
- Chiến nói đùa đấy. Áo của mẹ đẹp. Vân mặc có sao đâu. Chị không có
áo của mẹ mà mặc đó.
Tuy tự ái được vuốt ve nhưng nhìn Chiến cười cười tự mãn, tôi vẫn ức
thầm. Tôi biết là Chiến đang khoái chí trong lòng vì đắc thắng. Mẹ
Chiến thấy tôi lụng thụng trong chiếc áo bông, bà mỉm cười với mẹ
tôi:
- Rét, bà chị nhỉ. Người ta nói trong Nam ấm lắm. Chắc gì mình cần
những chiếc áo bông như thế kia. Em chỉ mang theo cho mỗi cháu một
chiếc áo len dầy thôi bà ạ.
- Vâng, tôi cũng nghe nói là trong Nam nóng lắm. Nhưng bỏ đi thì
tiếc nên tôi cứ đem theo. Đến đó, không dùng thì mình bỏ sau cũng
được bà ạ.
Trong khu chờ đợi ở trường bay Gia Lâm, gia đình tôi có bốn người,
cha, mẹ, anh Phúc và tôi. Bố tôi đi quanh đâu tôi không biết, mẹ
tôi và gia đình Chiến ngồi quây quần vào một khoảng nhỏ trên sàn
xi măng. Trong phút chốc, tôi quên khuấy đi nụ cười dễ ghét của
Chiến. Tôi ngồi dựa vào một túi hành lý và gà gật ngủ. Mẹ thương
tôi, kéo hai ba túi hành lý lại, làm cho tôi một chỗ dựa thoải mái
hơn.
Anh Phúc, anh trai tôi, lớn hơn tôi năm tuổi, ngồi thu mình trong
chiếc áo dạ màu đen. Anh không ngủ gật như tôi, ngược lại, anh có vẻ
thích thú với chuyến di cư lạ lùng vĩ đại này. Qua đôi mắt lim dim
buồn ngủ, tôi thấy anh, Chiến và chị Thùy đang nghe anh Nhâm, anh
lớn nhất của Chiến, kể chuyện. Chắc lại chuyện ma. Anh Nhâm thích kể
chuyện ma và hay nhát ma tôi lắm. Những cái đầu chụm vào nhau cười
cười, nói nói mơ hồ mờ đi trước mắt tôi. Thật vô tư, tôi nhẹ nhàng
đi vào giấc ngủ.
***
Phi cơ rời phi trường Gia Lâm lúc nào tôi không biết. Khi mẹ gọi tôi
dậy để xuống phi trường Đà Nẵng thì trời đã sáng.
Chiếc xe nhà binh lớn có mui bằng vải ka ki màu xanh ô liu đón chúng
tôi đưa về khu nhà thờ gần đó. Tôi không nhớ tên là nhà thờ gì nhưng
chỉ nhớ là nhà thờ màu trắng và sân nhà thờ rất rộng. Khu trường học
ở trong sân nhà thờ có hai dãy lớp sạch sẽ. Tường xây và lợp ngói.
Từ lớp học đến nhà thờ là một khoảng sân đất rộng rãi. Sân trường,
có những cây phượng. Giữa sân, một cột cờ cao và bồn hoa nhỏ được
trồng chung quanh. Ngày hôm ấy, mỗi gia đình chúng tôi được phát
phần cơm bằng bánh mì và thịt hộp. Cứ tám gia đình thì chia nhau một
lớp học. Những người đàn ông, con trai khiêng bàn ghế chất dồn lại ở
một góc và chia cho mỗi gia đình một khoảng nền xi măng. Nền xi măng
lạnh, chúng tôi phải đi tìm những thùng giấy đựng thực phẩm chia
nhau làm chiếu trải ra để ngủ. Nhiều gia đình không còn lớp học để
chia nên họ ngủ ngay tại hàng hiên.
Gia đình tôi bắt đầu làm quen với cuộc sống di cư thiếu thốn tiện
nghi từ đó. Mẹ tôi phải tìm ba cục gạch kê châu lại với nhau để nấu
cho chúng tôi những món ăn dã chiến từ những hộp đồ ăn viện trợ của
Mỹ và rau cỏ mua được từ một ngôi chợ nhỏ. Đói, anh em chúng tôi ăn
gì cũng thấy ngon. Chỉ riêng cha mẹ tôi, luôn tỏ ra buồn và lo
lắng.
Được ít tuần, trường học phải trả lại cho học sinh. Uỷ Ban Di Cư
chuyển chúng tôi đến một ngôi chùa. Hình như đó là Chùa Viên Giác ở
Hội An. Tôi còn qúa nhỏ để nhớ rõ địa danh. Ngôi chùa to lớn có hai
lối ra vào bằng những cánh cổng gỗ nặng và chắc. Sau chùa, là một
bãi đất trống, có những cây đa già rễ nằm chằng chịt nổi trên mặt
đất. Buổi trưa, bọn trẻ con chúng tôi hay ra sân sau chùa chơi vì
nơi ấy có nhiều bóng mát.
Mùa Xuân năm ấy chúng tôi ăn tết tại chùa. Như phần đông trẻ em di
cư khác, tôi có một cái tết thật nghèo nhưng khi cầm đồng tiền mới
mẹ tôi mừng tuổi, tôi vui. Vui vì có một đồng tiền mới và biết mình
vừa lớn thêm một tuổi.
Trưa Mồng Hai tôi ra sân chùa sau chơi, thấy Huệ ôm một con búp bê
bằng nhựa cũ nhưng còn rất đẹp. Trong hoàn cảnh di cư thiếu thốn ấy,
con búp bê là một ước mơ to lớn của tuổi thơ. Vì thế, bốn năm đứa
con gái cỡ tuổi tôi đang xun xoe bên Huệ thèm thuồng nhìn con búp bê
và xin ẵm thử.
Tôi ngồi một mình ở một góc sân nhìn hoạt cảnh diễn ra trước mắt.
Huệ vẫn âu yếm vuốt ve con búp bê không cho ai đụng đến. Thấy thế,
Tâm bèn rủ cả bọn chơi trò chơi bố mẹ và con búp bê là con. Huệ bằng
lòng. Thế là cả bọn được thay phiên nhau ẵm con búp bê hiếm hoi qúy
giá.
Thấy trò chơi vui và hấp dẫn, tôi mon men lại gần. Sợ tôi xin chơi,
mất bớt đi phần ẵm búp bê, Tâm độc địa chặn đầu:
- Đừng cho con Vân chơi Huệ ạ. Hôm qua nó ăn cắp bánh lúc người ta
cúng chùa.
Cả bọn quay nhìn tôi rồi có tiếng tàn nhẫn cất lên:
- Ê, cút đi. Không ai chơi với đồ ăn cắp bánh!
Riêng Mai tỏ vẻ tội nghiệp tôi trước sự tấn công của bọn trẻ, bước
lại gần tôi hỏi nhỏ:
- Thật hả Vân? Vân ăn cáp bánh cúng chùa hôm qua hả ?
Tôi choáng váng. Mắt tôi hoa lên và có cảm tưởng như trời đất quay
cuồng. Vừa tức giận cho kẻ ăn không nói có, vừa hổ thẹn vì lời vu
khống hết sức độc địa bất ngờ. Tôi không nói được gì, quay đầu chạy
về nơi mình trú ngụ nằm ôm mặt khóc.
Một lúc lâu sau mẹ tôi về, thấy tôi nằm khóc, mẹ vội ngồi xuống cạnh
tôi. Tay mẹ vuốt những sợi tóc ướt đầm nước mắt, giọng mẹ ôn tồn:
- Sao con khóc thế, Vân?
Nghe tiếng Mẹ, cảm thấy bàn tay trìu mến vuốt ve của mẹ, tôi tủi
thân khóc to hơn. Mẹ ôm tôi vào lòng không nói. Một lúc sau chờ tôi
dịu lại, mẹ lại ôn tồn:
- Làm sao con khóc. Anh Phúc bắt nạt con hả. Để mẹ mắng anh cho.
Tôi nức nở từng đoạn một:
- Mẹ...không ... phải...anh ... Phúc....đâu... Tâm con...bà
Hạnh...đấy. Nó....bảo con....hôm qua...ăn...ăn cắp bánh....cúng
chùa...rồi xúi...nhau... gọi con là đồ... ăn cắp và...và.. xúi
không....chơi....với con.... Tại Huệ có con...búp bê nên... Tâm
nó...nịnh.
Nói xong, tôi lại khóc. Tôi cảm thấy nỗi oan ức tủi nhục to lớn vô
chừng.
Mẹ tôi thông cảm tâm trạng đau khổ vì bị áp bức của tôi. Người yên
lặng ôm chặt lấy tôi hơn. Một lúc sau không thấy mẹ nói gì, ngước
nhìn lên, tôi thấy mắt mẹ tôi buồn lắm.
Thấy mắt mẹ buồn, tôi thương mẹ, nín khóc, mặc dầu lòng tôi còn buồn
tủi.
***
Một buổi sáng tôi thức dậy thì nắng đã lên cao. Nhìn quanh không
thấy ai, tôi nghĩ chắc bố tôi đưa anh Phúc đi cắt tóc. Hôm qua tôi
nghe mẹ nhắc bố thế. Tôi cũng không thấy mẹ nhưng tôi biết mẹ đã đắp
cho tôi một chiếc mền vải mỏng. Tôi uể oải ngồi lên, tay chợt đụng
phải cái gì cồm cộm ngay bên cạnh. Tôi dụi mắt nhìn, ô kìa, bên cạnh
tôi là một con búp bê bằng vải vừa tầm tay bế. Ngạc nhiên và thích
thú tôi cầm lên xem. Ngắm nghía một hồi, tôi nhận ra con búp bê được
may rất tỉ mỉ bằng tay và bằng vải mỏng màu ngà. Loại vài mỏng giống
như loại vải của chiếc khăn quàng mà khi còn ở nhà, mẹ tôi hay
dùng mỗi khi đi thăm bà con hay lễ tết.
Không suy nghĩ và cũng chẳng cần tìm hiểu con búp bê từ đâu tới, tôi
sung sướng ôm chặt búp bê vào lòng. Ngắm nghía búp bê, tôi cho nó là
một con búp bê con gái vì tôi ước ao có một con búp bê con gái. Búp
bê của tôi có cái đầu tròn như quả bóng nhỏ. Nửa phía sau là mái tóc
được sơn đen. Nửa trước là khuôn mặt được vẽ một cách tỉ mỉ. Đôi mắt
tròn to dưới lằn chân mày cong xinh đẹp. Chiếc mũi chỉ là một lằn vẽ
nhẹ nhàng nhưng chiếc miệng là cặp môi hồng tươi xinh xắn. Ôi, tôi
thật sự có một con búp bê sao? Nó xinh đẹp quá. Hai tay nó dang ra
như đòi bế. Tên nó là gì?...Mà kià, nó không có quần áo. Nhưng
không sao. Tôi sẽ nhờ mẹ. Biết đâu vì thương tôi mẹ sẽ chẳng may áo
cho búp bê của tôi như mẹ đã từng may áo cho tôi trong những ngày
gần tết. Nhưng nó phải có một cái tên. Đúng rồi. Ai cũng phải có một
cái tên. Đó mới là điều quan trọng. Tôi phải tìm một cái tên thật
đẹp để đặt tên cho búp bê của tôi. Ờ, búp bê tên là gì nhỉ. Dễ mà,
tôi biết nhiều tên đẹp lắm. Búp bê là em, tôi là chị. Vậy tên chị là
Vân thì em là gì nhỉ. Phải rồi. Là Vi. Là Vi ư ? Tên hay lắm nhưng
hình như không được. Ở dãy bên kia chùa đã có chị Vi rồi. Búp bê của
tôi đặc biệt. Tôi muốn búp bê của tôi phải có một cái tên đặc biệt,
không trùng với ai cơ. Những tên như Hạnh, Hồng, Lan, Hoa, Đào, Mai,
Tuyết, Nguyệt... Kim... Cúc...tên nào cũng đẹp nhưng hình như nếu
không trùng với những đứa trẻ trong trại di cư này thì lại xem như
không đủ đẹp để đặt riêng cho nó. Tôi hơi thất vọng nhìn búp bê
thương xót. Ngay lúc đó mẹ tôi về, tôi mừng rỡ đưa búp bê ra khoe
mẹ:
- Mẹ xem này, con có một con búp bê.
Mẹ tôi nhìn con búp bê ngạc nhiên:
- Vậy sao? đưa mẹ xem nào.
Mẹ tôi cầm, nhìn sơ con búp bê rồi đưa trả lại tôi:
- Đẹp nhỉ. Mà con có thích không?
Tôi nói như reo:
- Con thích lắm mẹ ạ. Con yêu nó lắm. Nhưng mẹ ơi, nó chưa có tên và
chưa có quần áo.
Mẹ cười, thò tay vào túi lấy ra một chiếc áo đầm màu xanh nhỏ xíu
đưa cho tôi:
- Con thử mặc cái áo này xem có vừa không.
Tôi cặm cụi mãi mới xỏ được tay búp bê vào áo. Cuối cùng, tôi
cũng cài xong hạt nút bấm phía sau lưng rồi cầm búp bê đưa ra trước
mặt trầm trồ:
- Mẹ ơi, cái áo đầm vừa quá. Búp bê mặc vào trông xinh đẹp quá. Áo ở
đâu mẹ có vậy mẹ ?
Đến bây giờ tôi mới hỏi mẹ tôi rằng ở đâu có áo. Nhưng tôi lại không
hề thắc mắc là ở đâu mà tôi lại có con búp bê. Tôi chỉ biết rằng khi
nhìn vào đôi mắt mẹ, tôi đọc được nỗi vui của mẹ qua niềm hạnh phúc
của tôi
- Bác Đông có mang theo cái máy may. Mẹ đến nhà bác nhờ bác may cho
con đấỵ
Tôi hân hoan nhìn mẹ cười, thay lời cảm ơn.
Chợt nhớ ra một điều quan trọng, tôi hỏi mẹ:
- Nó chưa có tên. Con đặt tên búp bê là gì hở mẹ?
- Con có tên gì, nói mẹ nghe xem rồi mẹ góp ý kiến cho.
Tôi kể ra một lô tên mà tôi nghĩ được. Mẹ tôi im lặng nghe tôi nói.
Tên nào tôi nói ra mẹ cũng bảo đẹp nhưng sao tôi vẫn không được hài
lòng. Một lúc sau thấy tôi ngồi tư lự, mẹ hỏi:
- Con có biết cái thau rửa mặt nhà mình làm bằng gì không?
- Dạ bằng đồng.
- Người ta gọi nó là gì, con có biết không?
Tôi ngây thơ:
- Dạ con biết. Thau đồng.
- Thế con có biết con búp bê của con làm bằng gì không?
- Dạ bằng vải nhồi bông.
Mẹ cười:
- Đành rằng làm bằng vải nhồi bông. Nhưng vải chỉ là danh từ chung,
dùng để chỉ chung các loại vải. Riêng loại vải này đặc biệt, dệt
bằng tơ lấy ra từ con tằm nên nó mềm, bóng và đẹp.
Tôi cướp lời:
- À, con biết rồi. Giống cái khăn lụa của mẹ phải không? Vậy con đặt
tên búp bê của con là Lụa mẹ nhé.
- Con thấy tên Lụa có đẹp không?
Tôi đáp không do dự:
- Đẹp chứ mẹ. Đẹp như chiếc khăn lụa của mẹ vậy. Lại không trùng với
tên ai ở đây cả.
- Phải đấy. Nếu con thấy đẹp thì con đặt tên ấy cho búp bê của con
đi.
Sáng hôm đó, một tay tôi ẵm Lụa, một tay tôi xúc từng muỗng cơm
nguội cho vào miệng nhai mà lòng tràn đầy hạnh phúc. Vừa ăn, tôi
vừa ngắm Lụa. Ăn xong chén cơm nguội với nước mắm, tôi sung
sướng ôm chặt Lụa vào lòng, âu yếm hôn lên má Lụa và gọi tên Lụa
bằng những tiếng chim vui.
Tối hôm đó, khi tôi ru Lụa ngủ và chia một phần chiếu bên cạnh tôi
cho Lụa thì mẹ dịu dàng kể cho tôi nghe truyện Tấm Cám. Câu truyện
này mẹ kể cho tôi nghe không biết bao nhiêu lần nhưng mỗi lần nghe,
tôi đều có cảm tưởng như mới được nghe lần đầu, không hiểu vì cốt
truyện thần tiên luôn luôn là một hấp lực mới lạ với trí tưởng tượng
của tuổi thơ hay vì mẹ tôi kể chuyện hay.
- Ngày xửa ngày xưa - mẹ tôi hay bắt đầu như vậy - có một cô bé xinh
đẹp và ngoan ngoãn lắm tên là Tấm. Mẹ Tấm chết sớm, bố Tấm lấy vợ
hai...người mẹ ghẻ ác độc.......
Khi mẹ kể đến đoạn ông Bụt hiện lên bảo Tấm đào những hũ đựng xương
gà ở bốn chân giường lên, trong hũ hiện ra đủ thứ nữ trang, quần
áo đẹp đẽ sang trọng và có cả đôi giày thật đẹp thì tôi chợt thấy
rằng sự việc tôi có Lụa cũng nhiệm màu như Tấm có quần áo và giày
mới. Tấm vì ngoan ngoãn, hiếu thảo nên Bụt thương. Tôi vì hiền lành
nên bà Tiên hay ông Bụt nào đó cũng thương tôi, đem Lụa lại cho tôi
trong khi tôi còn đang ngủ. Nghĩ thế, tôi quay sang hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, Tấm ngoan nên Bụt thương Tấm và hoá phép cho Tấm quần áo
mới hả mẹ?
- Đúng con ạ. Ngoan ngoãn và hiền lành thì ai cũng thương.
- Mẹ ơi, Thế còn Lụa? Có phải vì con ngoan rồi...ông Bụt đã đem Lụa
đến cho con phải không mẹ ?
Mẹ cười:
- Mẹ không biết chắc. Con tìm được Lụa ở đâu?
- Ở ngay trên giường, cạnh chỗ con nằm.
- Thế thì có thể lắm con ạ. Nếu vậy, con nghĩ gì khi con có Lụa?
- Con phải ngoan hơn. Mỗi ngày con phải lấy sách ra tự đọc và viết
một trang để cho con được thương hơn phải không mẹ?
Mẹ xoa đầu tôi:
- Đúng rồi. Thế thì con ngoan lắm.
- Lụa sẽ đi định cư với mình, mẹ nhỉ ?
- Ừ, thôi con ngủ đi nhé. Khuya rồi.
Tôi nhìn sang Lụa, cô bé đã ngủ saỵ Tôi cẩn thận đặt Lụa xuống mặt
chiếu, lấy một phần chăn của tôi đắp cho Lụa. Tôi đắp thật nhẹ nhàng
vì không muốn làm Lụa giật mình thức giấc.
Tôi sung sướng đi vào giấc ngủ với ý nghĩ Lụa đến với tôi từ một bàn
tay thần tiên nào đó vì tôi ngoan. Đêm đó, tôi đã mơ một giấc mơ
tuyệt đẹp.
Từ đấy tôi không cô đơn vì tôi có Lụa. Lụa với tôi như hình với
bóng. Huệ, Mai và Tâm thấy tôi có Lụa thì mon men lại làm lành và rủ
tôi chơi em bé. Tôi có thêm bạn và Lụa cũng có bạn. Bạn Lụa là bé
Huệ Em, con búp bê của Huệ . Chúng tôi, năm đứa con gái xuýt xoát
tuổi nhau, cùng chia nhau chăm sóc Huệ Em và Lụa. Ngày tháng tuổi
thơ của chúng tôi trong trại tạm cư chậm chạp đi qua.
Lụa đi với tôi suốt chặng đường di cư từ trại này sang trại khác và
cuối cùng, Lụa đã cùng tôi định cư ở miền Nam nắng ấm vào trước mùa
Xuân.
Được đi học lại tôi bận rộn hơn nhưng tôi vẫn dành thì giờ săn sóc
Lụa, chơi với Lụa và hãnh diện khoe Lụa với những người bạn mới.
Năm tháng trôi qua, tôi có thêm những món đồ chơi mới. Những con búp
bê đắt tiền, bằng nhựa mềm, hồng hào mũm mĩm, có tóc và biết nhắm
mắt khi nằm xuống. Nhưng với tôi, Lụa vẫn là một "người" thực. Lụa
có linh hồn. Lụa biết ngồi ở bàn học chờ tôi đi học về. Biết cười
khi tôi vui. Biết giận khi tôi dành nhiều thời gian với những
con búp bê mới mà sao lãng Lụa. Biết nghe tôi tâm sự và nhất là
Lụa biết chia sẻ với tôi khi tôi gặp những chuyện bực mình. Vì thế,
tuy cũ và xấu đi nhưng Lụa vẫn là món quà vô cùng mầu nhiệm của
bà Tiên hay ông Bụt nào đó đã đem đến cho tôi.
Cho đến một ngày, tôi được biết Bà tiên và ông Bụt bí ẩn đó chẳng ai
khác hơn là mẹ. Nếu ông Bụt trong truyện Tấm Cám hoá phép những mẩu
xương cá bống thành quần áo và đôi giày thần kỳ cho cho Tấm thì mẹ
tôi cũng hóa phép thần tiên để chiếc khăn quàng của mẹ thành con búp
bê đẹp tuyệt vời tên Lụa cho tôi.
***
Đã hơn hai mươi năm tôi làm thân tị nạn ở xứ người, một xứ giàu mạnh
nhất nhì thế giới. Ở một quốc gia như thế, mực sống của con người
rất cao. Thế giới trẻ em ở đây đúng là một thiên đàng. Những ngày kỷ
niệm sinh nhật, những ngày lễ Noel, các em được cha mẹ họ hàng mua
cho rất nhiều đồ chơi đắt giá, tối tân và đẹp mắt. Những cửa hàng đồ
chơi mỗi năm bán không biết bao nhiêu búp bê mà kể. Riêng tôi, dù
các con tôi đã tìm thấy tóc trên đầu tôi có nhiều sợi bạc, nhưng mỗi
lần đi phố, tôi đều mê mẩn nhìn vào những con búp bê trưng ở các
cửa tiệm. Tôi thấy con búp bê nào cũng đẹp cũng dễ thương, cũng hứa
hẹn một trời hạnh phúc. Tuy nhiên, tôi không thấy được con búp bê
nào qúy giá và nhiệm màu như Lụa, con búp bê mà mẹ tôi đã cho
tôi.
Ngô Minh Hằng
Mời Qúi vị và các Bạn đọc thơ NMH tại:
http://thongominhhang1.blogspot.com/
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Còn nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng nghìn cay
Con đường
tôi về
Hãy còn đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Bãi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ mình!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai mì
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Ký ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và giòng sông Mã
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
tình trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cõi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nhìn lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
Còn
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lý Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
Tìm chốn
thanh bình
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ còn nỗi
nhớ
Tình huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Võ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện tình trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
Tình anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con còn
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
còn mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài Gòn
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
Hình-tượng người LÍNH qua dòng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In hình chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai hình ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
lòng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lãng quên
Gói
trọn mảnh tình quê vào đòn bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi