(Hào Kiệt Phương Nam) Những Chiến Sĩ Anh Hùng
của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH tự sát chứ không đầu hàng giặc (30/ 04/
1975)
“Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau
Song, ‘Hào Kiệt’ thời nào cũng có”
(B́nh Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trăi)
--------
Sáng sớm ngày 29 tháng 4, 1975, chúng tôi tiếp tục công việc như mọi
ngày nhưng trong ḷng nôn nao khôn tả. Từng đoàn dân chúng hoặc quân
nhân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh ào ạt kéo về hướng Sài G̣n, chúng tôi
kêu gọi họ ở lại tiếp sức trấn giữ cây cầu nầy nhưng họ nói là được
lệnh về bảo vệ Thủ Đô Sài G̣n.
C̣n căn cứ Giang Thuyền của Hải Quân tại bờ sông Đồng Nai cạnh cây
cầu nầy ngày hôm qua c̣n có bóng người thấp thoáng, đến hôm nay sao
im vắng như vậy? Dưới sông c̣n mấy chiếc giang đỉnh nằm yên trên
sóng nước lăn tăn dưới làn gió nhẹ.
Anh em tôi kéo đến hỏi ư kiến Trung Sỹ Ngôn là người có cấp bậc cao
nhất và cũng lớn tuổi nhất trong bọn tôi:
- Tính sao Trung Sỹ?
Trung Sỹ Ngôn đáp tỉnh bơ:
- Không tính ǵ cả, giặc đến th́ đánh chớ c̣n
tính ǵ nữa, lúc trước ta phải sang Campuchia, sang Lào, đi ra Vùng
I, Vùng II t́m giặc mà đánh, nay chúng kéo đến đây th́ ta phải đánh
chứ c̣n nghĩ ngợi ǵ nữa.
Lời nói khẳng khái của TS Ngôn khiến anh em Nhảy Dù và các chiến sĩ
Công Binh, Địa Phương Quân cũng lên tinh thần. Một vài người phát
biểu ư kiến:
- Trung Sỹ Ngôn đúng là một chiến sĩ can đảm của
quân đội, lẽ ra anh phải có cấp bậc khác hơn mới đúng, quân đội cần
phải có những chiến sĩ đảm lược như vậy.
Trung Sỹ Ngôn khoát tay bảo đừng nói tiếp nữa, ông nói:
- Các bạn đừng cho tôi uống nước đường tưởng
tượng nữa, đời binh nghiệp của tôi nếu có được kéo dài th́ cũng thế
thôi, một tên quân phạm được Bộ Tổng Tham Mưu cho tiếp tục phục vụ
th́ c̣n lên xuống ǵ nữa!!!
Ai nấy đều không tin câu nói của Trung Sỹ Ngôn, ông ta phải xác minh
tới lui mấy lần mà chưa có ai tin.
***
Riêng tôi th́ tôi tin ông nói thật v́ tôi là HSQ quân số của Tiểu
đoàn, tôi nắm giữ hồ sơ lư lịch của quân nhân trong đơn vị nên tôi
biết nhiều về quân nhân trong đơn vị.
Tôi xin mở dấu ngoặc nói về người Hạ sĩ quan nầy:
Sau những trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, v́ nhu cầu bổ sung quân
số cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt, Bộ Tổng Tham Mưu nghiên
cứu và quyết định cho tiếp tục phục vụ các quân phạm được coi là
thường phạm hiện đang bị giam giữ trong Quân Lao G̣ Vấp. Ông Trung
Sỹ Ngôn được xuất lao trong đợt đầu tiên và được bổ sung về Tiểu
Đoàn 3 Nhảy Dù.
Ngày tôi đến Khối Bổ Sung nhận về 30 quân phạm trong đó có Trung Sỹ
Ngôn, vừa gặp ông là tôi có thiện cảm liền. Tôi đưa các quân nhân
nay về Hậu cứ Tiểu đoàn ở cổng số 9 trong Căn cứ Long B́nh, Biên
Ḥa, trang bị cho họ và chờ ngày tăng cường hành quân.
Trong những ngày chờ đợi tôi có dịp tiếp xúc với các quân nhân nầy
để t́m hiểu và giúp đỡ chuyển thư từ, nhắn tin người nhà đến thăm,
tiếp tế cho họ, phần các quân nhân ở xa hoặc ở trong vùng mất an
ninh th́ chỉ gởi thư theo đường bưu điện thôi.
Riêng Trung Sỹ Ngôn, quê ở Hốc Môn, tuy không xa lắm nhưng xă ấp ở
vùng xôi đậu nên tôi không thể đem thư đến nhà cho ông được, tôi cố
gắng đi đến chợ quận Hốc Môn, rồi hỏi thăm t́m những người cùng xă
ấp với ông nhờ họ chuyển thư về gia đ́nh ông. Cuối cùng, thân nhân
của ông cũng đă t́m đến thăm ông được. Và nhờ vậy ông mang ơn tôi,
có tâm sự ǵ ông đều phun ra hết, và con đường tù tội của ông như
sau:
“Sau Tết Mậu Thân, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục
Chiến gần như thường xuyên có mặt tại Quân Khu I và Quân Khu II, các
người lính Tổng Trừ Bị nầy hầu như là “Trấn thủ lưu đồn” của thời xa
xưa, có khi hai ba năm chưa được về thăm gia đ́nh một lần, Trung Sỹ
Ngôn tuy là đă có gia đ́nh, nhưng v́ lính xa nhà trong lúc sức lực
phương cường, nên thường lén rời đơn vị đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội”
cắm sào trên sông Hương.
Một lần, sau khi lănh lương, anh đi lả lướt trên sông Hương, Đến
sáng ngày tỉnh dậy mới hay bị mất ví cả giấy tờ tùy thân và tiền
lương tháng mới lănh chưa kịp gởi về cho vợ. C̣n chiếc thuyền th́ đă
cập bến nhưng người lái không có ở đó.
Trên đường trở về vị trí đóng quân bị Quân Cảnh xét giấy tờ không có
nên bị bắt giữ rồi giải giao về đơn vị thọ phạt. Quá uất ức, nên sau
khi thọ phạt xong Trung Sỹ Ngôn cầm một quả lựu đạn t́m đến bờ sông
th́ rất may anh gặp lại cô lái đ̣ hôm trước. Anh đ̣i lại cái ví và
số tiền anh đă bị đánh cắp, cô lái chối căi là không có lấy, anh đập
trái lựu đạn vào đầu cô ta phun máu, cô ta mới chịu nhận là có lấy
nhưng gă anh trai ma-cô của cô ta đă cất giữ rồi, theo lời cô lái đ̣
nói lại là nếu anh có tiền chuộc mới được trả lại.
Quá tức giận, anh lại cầm trái lựu đạn đập vào đầu cô ta khá mạnh
khiến cô ta kêu thét lên rồi ngất xỉu luôn. Các người trên thuyền
bên cạnh tri hô lên là có án mạng nên lính Quân Cảnh và An Ninh Quân
Đội đến bắt anh, anh kháng cự đưa ra trái lựu đạn dọa nếu ai đến gần
sẽ cùng chết với anh. Anh về đơn vị tŕnh diện và bị An Ninh Quân
Đội của đơn vị bắt giải về Sài G̣n đưa ra ṭa án Quân Sự Mặt Trận
Quân Khu III.
Tôi hỏi chen vào:
- Anh có mướn luật sư bào chữa cho anh không? Ṭa án xử anh có nặng lắm không?
Trung Sỹ Ngôn thở ra, chán nản nói:
- Tiền đâu mà mướn luật sư, tiền của ḿnh nó
lấy hết rồi nên ḿnh mới gây nên tội. Tôi tŕnh bày tất cả sự việc
để ông Chánh Án quyết định chứ không thèm xin ân giảm ǵ hết.
Tôi ṭ ṃ hỏi anh về quang cảnh của phiên Ṭa, anh đáp:
- Đầu tiên, họ điệu tôi ra giữa pḥng xử, các
viên chức trong ṭa lần lượt đi ra, cuối cùng tới ông Chánh Án, là
một vị Trung Tá trong QĐVNCH. Đầu tiên họ đọc cáo trạng về trường
hợp phạm pháp của tôi, tiếp theo ông Ủy viên Chính Phủ tức là Công
Tố lên án tôi, tôi bị khép vào 3 tội.
Tội thứ I: Phạm vào điều Giáo lệnh thứ 5: Không được bê tha, rượu
chè, cờ bạc, trai gái, và nghiện hút.
Tội thứ 2: Can tội sát nhân, đánh chết người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể tự vệ.
Tội thứ 3: Dùng vũ khí để chống lại nhân viên công lực làm nhiệm vụ. Cuối cùng Ủy viên Chính phủ xin ông Chánh Án lên án thật nặng đối với quân nhân vô kỷ luật để làm gương.
Đến phần luật sư biện hộ, v́ không có luật sư
của bị cáo nên Ṭa chỉ định một luật sư t́nh nguyện giúp tôi, tôi
nói là tôi không cần, tôi tự trả lời lấy.
Về tội thứ 1: Các điều bê tha, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút tôi
không có, c̣n vấn đề trai gái th́ tôi sống theo luật tự nhiên, giải
quyết sinh lư, v́ một người b́nh thường mà phải xa nhà cả hai, ba
năm, thậm chí bốn năm năm th́ bị mất quân b́nh, họ c̣n lo chiến đấu,
sống chết bất ngờ, ăn uống thiếu thốn, nằm rừng ngủ bụi, th́ làm sao
chịu nổi. Tôi đặt ví dụ: Một người công chức mỗi ngày làm việc 8
giờ, tan sở đă có công xa đưa đón, về nhà có vợ con săn sóc, họ được
ba bữa ăn nóng. C̣n giới quân nhân th́ sao, có nhà mà cả mấy năm
không được về, có vợ mà phải đi ngủ với gái điếm lại c̣n bị tội bê
tha, trai gái.
Về tội thứ 2: Tôi nh́n nhận có nóng nảy, quá mạnh tay với cô đó.
Nhưng thưa quan Ṭa, tôi ăn bánh trả tiền ṣng phẳng. Tại nó lấy
tiền, lấy giấy tờ của tôi khiến tôi bị bắt, bị phạt kỷ luật, sau đó
nó c̣n đ̣i tiền chuộc th́ tôi không nóng sao được.
Về tội thứ 3: Tôi dùng lựu đạn để gây áp lực chứ không hề mở khóa an
toàn, không gây thương tích hay nguy hiểm cho nhân viên công lực,
tôi không để nhân viên công lực bắt tôi v́ tôi không muốn để những
người phè phỡn ở thành phố bắt những thằng đi tác chiến, tôi quyết
về đơn vị để cấp chỉ huy định đoạt. Phần tŕnh bày của tôi đă xong.
Tôi hỏi anh:
- Sau đó th́ sao, Công tố viên c̣n nói ǵ không? Ṭa tuyên bố thế nào? Có nặng lắm không?
- Khi tôi nói, Ủy viên Chính Phủ có vẻ bất
b́nh, muốn ngăn lại, nhưng ông Chánh Án không tỏ thái độ ǵ nên ông
ta cũng nín luôn, cuối cùng Ông Chánh Án thay v́ kết án là tôi “cố
sát” hay ít ra là kết tội “Cố ư đả thương, nhân thương trí mạng” ǵ
ǵ đó, th́ Ông Chánh Án đă lên án là “ngộ sát” và h́nh phạt là năm
năm tù ở. Nhưng mới hai năm th́ được cho ra ngoài tiếp tục phục vụ.
Tôi nói thiệt, nếu có được đi ra ngoài đó nữa, tôi sẽ vẫn đi thăm
“Đệ Thất Hạm Đội” đó nữa”.
Vậy mà giờ đây, trước giây phút hấp hối của Thủ đô VNCH anh vẫn hiên
ngang đóng tại cửa ngơ vào thành phố, vẫn cùng 6 người thương binh
tự đặt dưới quyền điều khiển của anh, cạnh đó, các quân nhân Công
Binh, Địa Phương Quân cũng lây cái hào khí của anh, họ hứa sẽ ở lại
cùng chiến đấu với anh em Nhảy Dù.
Và bây giờ chúng ta hăy nghe Binh Nhất Hào Hoa của Tiểu Đoàn 1 Nhảy
Dù kể tiếp:
***
“Từ buổi trưa đến chiều ngày 29 tháng 4, 1975, các quân nhân của Sư
Đoàn 18 BB đi về càng nhiều, có người th́ đi lẻ tẻ, có tốp th́ đi
chung nhiều người. Tôi nghĩ đây là họ “di tản chiến thuật” để sẽ
được “tái phối trí” ở một vùng nào đó. Nhiều người dân di chuyển
trên đường giục chúng tôi:
- Mấy chú Nhảy Dù ơi, bọn Việt cộng tràn tới rồi ḱa !
“Nghe họ nói, tôi cũng cảm thấy lo ngại, hàng
đoàn quân c̣n chạy, th́ mấy mươi người chúng tôi có nghĩa lư ǵ với
cơn thác lũ của chiến cuộc. Tôi liếc nh́n các bạn Nhảy Dù tại đó,
thấy họ vẫn b́nh tĩnh chứ không có vẻ lo sợ ǵ cả. Tôi nghĩ họ đă
dày dạn phong sương, đă tôi luyện trong máu lửa nên ḷng họ đă chai
ĺ rồi chăng?
***
“Từ ngày Tổng Thống Nixon lên chức, ông quyết định rút hết quân về
nước trong “Danh dự”. Ông đưa ra áp dụng kế hoạch “Việt-Nam Hóa
Chiến Tranh” là (bỏ của chạy lấy người). Quân Mỹ và Đồng Minh ào ạt
đến rồi cũng ào ạt rút lui. Các căn cứ quân sự được chuyển giao lại
cho QĐ VNCH, trong các căn cứ đó có căn cứ Long B́nh là rộng lớn và
ở gần thủ đô Sài G̣n nhất.
Trong khi đó Chính Phủ Việt-Nam Cộng Ḥa cũng đă có kế hoạch chỉnh
trang thành phố, mà hai doanh trại của Nhảy Dù là trại Nguyễn Trung
Hiếu của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù nằm trên đường Lê Văn Duyệt đối diện
với Nghĩa Trang Đô Thành Sài G̣n và doanh trại Phạm Công Quân của
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù nằm trong vườn cao su của nhà thờ Chí Ḥa tại
ngă tư Bảy Hiền là bị ưu tiên chiếu cố để chuyển đi. Cả hai Tiểu
Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù đều được giao cho một số nhà tole tại Cổng số 9
trong căn cứ Long B́nh để làm doanh trại cho đơn vị ḿnh.
V́ doanh trại cũ của TĐ 3 ND sẽ được ưu tiên xây Bệnh Viện V́ Dân,
nên toàn bộ trại nầy được chuyển về doanh trại mới gần cuối năm 73,
c̣n TĐ 1 ND chưa kịp chuyển về căn cứ nầy, nên chỉ đưa một bán đội
sáu người đến tiếp nhận và trông chừng doanh trại, và tôi là B.I
“Hào Hoa” là một trong sáu quân nhân được phái đến giữ trại đó.
Sáu người anh em chúng tôi thường hay sang doanh trại của TĐ 3 ND
chơi với các quân nhân phụ trách về các việc chuyên môn của đơn vị
nầy.
Lư do tôi được đến giữ doanh trại mới nầy là trong lúc cùng đơn vị
tham dự Hành quân tại Quảng Trị, tôi bị thương, được di tản về Bệnh
Viện Đỗ Vinh để điều trị, khi vết thương đă b́nh phục, tôi chuẩn bị
tăng cường HQ th́ gặp lúc Tiểu đoàn cần một số quân nhân đến tiếp
nhận và trông coi doanh trại mới vừa được chuyển giao và tôi được
chọn cùng với 5 anh em khác.
***
V́ vậy mà tuổi chiến trường, kinh nghiệm chiến trận của tôi c̣n kém
cỏi, nên khi nghe dân chúng bảo chạy đi tôi cũng thực sự lo ngại
lắm, các binh sĩ kia cũng có vài người dao động, lo lắng trước những
việc diễn biến quá nhanh. Binh 2 Kha rụt rè hỏi TS Ngôn mà cũng có
thể hỏi chung anh em Nhảy Dù.
- Làm sao bây giờ Trung Sỹ?
Trung Sỹ Ngôn đáp không do dự:
- Như tôi đă nói ngày hôm qua, lúc trước ta t́m
giặc mà đánh, bây giờ chúng nó tới th́ ta phải đánh chứ c̣n tính ǵ
nữa, nếu anh em nào sợ th́ chạy theo đoàn người di tản đó đi, tôi
không cản trở, c̣n anh em nào không sợ th́ ở lại chúng ta cùng nhau
chiến đấu tới cùng.
Trước lời nói quyết liệt của Trung Sỹ Ngôn, anh em lên tinh thần trở
lại, họ hứa sẽ ở lại chiến đấu tới cùng với TS Ngôn. Riêng tôi không
có ư kiến, ai làm sao tôi làm vậy thôi.
Trọn đêm đó tiếng súng nổ từ xa đến gần, hướng Sài G̣n thỉnh thoảng
có tiếng pháo kích rải rác đó đây tuy không nhiều lắm. Chúng tôi
cũng thay nhau ngủ gà ngủ gật trong các công sự bằng bao cát.
Trời vừa hừng sáng ngày 30 tháng 4, 1975, Trung Sỹ Ngôn đốc thúc anh
em t́m chỗ có thể vừa ẩn nấp vừa chiến đấu bên dưới gầm cầu, chứ mấy
cái công sự bằng cát đó chẳng có nghĩa lư ǵ đối với xe thiết giáp
T-54 của bọn cộng phỉ. Trung Sỹ Ngôn c̣n phái Hạ Sĩ Đắc và Binh Nhất
Tân sang bên kia đầu cầu lấy thêm một ít súng chống chiến xa M.72 để
tăng cường cho đầu cầu bên này, hai người đi một chập trở lại với
mấy khẩu M.72
Trung Sỹ Ngôn chưa kịp có ư kiến ǵ th́ chợt có tiếng động cơ của xe
thiết giáp chạy rần rần từ xa. Dân chúng chạy tán loạn vào vệ đường
la hoảng lên:
- Bọn Việt cộng tới, nó có xe tăng nữa.
Chúng tôi thấy giữa đường có 2 chiếc xe thiết giáp treo lá cờ thổ
phỉ xanh, đỏ và ngôi sao vàng ở giữa, hai bên đường, bọn cộng phỉ
xâm lược hộc tốc chạy theo. Chợt chiếc xe chạy đầu dừng lại và bắn
vào ụ cát làm công sự trên cầu, sau tiếng nổ lớn ụ cát đó biến mất,
chúng lại bắn tiếp các ụ khác.
Chúng tôi nấp ở gầm cầu nên không bị thương tích ǵ, 3 người chúng
tôi thủ M.72 bốn người kia thủ M.16 đồng loạt nhả đạn khiến lũ giặc
xâm lược sợ hăi nằm rạp xuống vệ đường, chiếc xe chạy đầu sau khi
bắn mấy phát liền chạy tới bị trúng đạn M.72 bị đứt xích đang xoay
tṛn trên xa lộ. Chiếc xe T.54 c̣n lại và lũ giặc cộng phỉ bắt đầu
phản công, chúng đă biết chỗ ẩn nấp của chúng tôi nên tất cả đều
nhắm bắn vào chỗ chúng tôi.
TS Ngôn vừa chiến đấu vừa bảo anh em tôi:
- Súng M.16 bắn vào bọn vc chớ đừng bắn vào xe
thiết giáp chỉ găi ngứa cho nó thôi, c̣n súng M.72 bắn vào xích của
nó có kết quả hơn.
Chúng tôi bắn xong một loạt liền thay đổi vị trí mới nên bọn vc tuy
đông người hơn nhưng chưa bắn trúng anh em chúng tôi một viên nào.
TS Ngôn và HS Đắc bảo anh em tôi bắn phủ đầu bọn nó cho hai anh sử
dụng súng M.72. Chúng tôi làm y lời họ và hai anh đă bắn cháy chiếc
T.54 thứ 2.
Tuy áp lực trên 2 chiếc T.54 không c̣n, nhưng bọn giặc xâm lược tràn
tới càng lúc càng đông, Trung Sỹ Ngôn căn dặn anh em:
- Các bạn hăy tiết kiệm đạn, chúng ta phải chiến
đấu lâu dài đó, không có ai tiếp viện đâu!
Chúng tôi bắt đầu bắn dè sẻn từng loạt một cũng có thể chận đứng bọn
cộng quân xâm lược được chốc lát. Nhưng ḱa, hai chiếc PT.76 khác
lại ào ào chạy đến, chúng tôi chỉ c̣n có hai khẩu M.72. TS Ngôn thủ
một khẩu, HS Đắc thủ một khẩu, chúng tôi lại bắn ào ạt yểm trợ cho
hai người bắn chiến xa, nhưng phía cộng quân cũng bắn rát quá nên
hai anh bắn không trúng chỗ hiểm, hai chiếc thiết giáp liền chạy
thẳng qua bên kia cầu, bọn bộ đội cũng nương đà đó chạy theo xe qua
cầu, một số quây tại đầu cầu gọi chúng tôi đầu hàng, bọn tôi đáp lời
lũ giặc xâm lược từ phương bắc bằng những phát đạn thật chính xác,
v́ thế chúng không dám xông vào chỗ ẩn nấp của chúng tôi.
Chúng tôi mong các quân nhân của đơn vị bạn giật sập cầu hoặc dùng
súng M.72 bắn hạ mấy chiếc xe vừa thoát chạy sang bên đó, nếu để nó
thoát được th́ tai hại lắm. Nhưng chờ măi mà chẳng thấy động tịnh ǵ
cả, chúng tôi nghĩ là họ đă bỏ trốn hết rồi.
Quá thất vọng TS Ngôn nói:
- Chúng ta muốn góp sức để ngăn chận đường tiến
của bọn cộng phỉ xâm lược, nhưng chúng ta cô đơn chiến đấu, sức
chúng ta chỉ có hạn, đạn dược sắp hết rồi, bây giờ các bạn muốn tiếp
tục chiến đấu hay muốn trốn đi đâu tùy ư. Riêng tôi quyết chiến đấu
đến viên đạn cuối cùng.
Ai nấy lên tiếng quyết chiến đấu, không lùi bước, riêng tôi có hơi
do dự. Thấy vậy, Trung Sỹ Ngôn nói với tôi:
- Em có thể chui vào đám lục b́nh trên mặt nước kia để rút đi, bây giờ c̣n kịp.
Tôi cảm thấy bị chạm tự ái nên quyết ở lại. Bây giờ, bọn cộng phỉ xâm lược trên cầu kêu lớn:
- Hàng sống, - chống chết!
- Hàng sống, - chống chết!
Chúng tôi trả lời bọn thổ phỉ xâm lược bằng mấy loạt đạn. Chống trả
thêm một lúc, chúng tôi đă thực sự hết đạn.
Bây giờ đến quyết định cuối cùng, Trung Sỹ Ngôn nói:
- Anh em nào v́ gánh nặng gia đ́nh, muốn rút lui để giữ mạng sống th́ cứ tự nhiên.
HS Đắc hỏi lại:
- C̣n Trung sĩ th́ sao?
TS Ngôn đáp:
- Tao không đầu hàng!
HS Đắc nói:
- Tôi cũng không đầu hàng!
Cả bốn anh Lương, Tân, Kim và Kha cũng đồng lên tiếng:
- Chúng tôi cũng vậy, không đầu hàng, c̣n mấy
viên đạn bắn hết rồi tính.
Thế là chúng tôi lại tiếp tục bắn tỉa những tên nào ló đầu vào gầm
cầu.
Rồi viên đạn cuối cùng cũng đă được bắn đi.
Trung Sỹ Ngôn tuyên bố:
- Chúng ta không đầu hàng giặc, cũng không để cho
giặc bắt. Vậy chúng ta cùng nhau chia cái nầy. Tự tử đi anh em !
Chúng ta dứt khoát không đầu hàng !
Trung Sỹ Ngôn cầm trái lựu đạn M.26 đưa ra đoạn bắt tay từng người,
xong tất cả ngồi quây ṿng tṛn quanh trái lựu đạn. Tôi cũng ngồi
xuống như mọi người nhưng bất chợt Trung Sỹ Ngôn cầm cái ba-lô để
trước mặt tôi và đẩy tôi ngă ra, tôi vội đưa tay ra dẹp cái ba-lô
nhưng không c̣n kịp nữa...
***
Khi tôi tỉnh dậy, cảm thấy mặt mũi đau buốt tôi khẽ rên lên, và một
người thợ câu chèo thuyền nghe được ghé vào cứu giúp cho tôi. Từ đó
đến nay tôi vẫn c̣n buồn anh em TĐ 3 ND đă chơi xấu với tôi, đă làm
cái việc: “ăn đồng, chia... không đều” v́ nhờ có cái ba lô Trung Sỹ
Ngôn để trước mặt tôi mà tôi đă không chết cùng anh em.
(SGtt-MĐ. Nguyễn Văn Nơi)
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi