(đặc biệt tặng các bạn Khóa 18 Thủ Đức)
Phạm Tín An Ninh
Trước những ngày Tháng Tư buồn, tôi lại nhận thêm
một tin buồn: Đồng môn Vơ Văn Khoa vừa vĩnh viễn ra đi. Với tôi, anh
Khoa không những là bạn cùng Khóa 18 Thủ Đức mà sau này, v́ gốc giáo
chức, nên theo nhu cầu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, anh được biệt phái
về dạy ở trường Vơ Tánh Nha Trang, ngôi trường trung học nổi tiếng ở
quê tôi mà trước kia tôi đă từng theo học. Do đó chúng tôi nặng thêm
mối thâm t́nh. Ngay từ những ngày c̣n trẻ, anh đă nghiên cứu, tu tập
và viết nhiều sách về Thiền Học, cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Anh
sống thanh đạm, chân thành, đạo hạnh, luôn hết ḷng giúp đỡ tha
nhân. Sau khi sang Mỹ một thời gian, anh trút bỏ mọi phiền năo thế
gian, xuất gia đi tu, trở thành Thiền Sư Di Như nổi tiếng của một
Thiền Viện ở Las Vegas, do chính anh sáng lập và giảng dạy. Nhờ vào
tŕnh độ và đức độ, anh đă quy tụ đông đảo môn đệ. V́ vậy trên trang
cáo phó được viết: “Sư Thầy Di Như Vơ Văn Khoa viên tịch.”
Tuy biệt phái về làm nghề dạy học, nhưng trong hồ sơ lư lịch, anh
vẫn c̣n mang cấp bậc đại úy và phục vụ nhiều năm trong ngành Chiến
Tranh Chính Trị, từng đóng góp cho việc h́nh thành và giảng dạy cho
Trường Đại Học CTCT Đà Lạt, nên sau khi Cộng Sản chiếm Nha Trang,
đầu tháng 4/75, anh bị tù đày nhiều năm. Ra tù, anh trở về Nha
Trang, làm nghề sửa xe đạp ở một góc đường, ngay phía sau ngôi
trường cũ mà anh từng dạy học. Thời buổi ấy gần như gia tài mỗi
người chỉ c̣n mỗi chiếc xe đạp. Cùng cảnh thất cơ lỡ vận, nên anh
thường nhắn các cựu giáo chức đồng nghiệp và học sinh của ḿnh, khi
nào xe bị hư, cứ mang đến để anh sửa miễn phí.
Tang lễ được tăng đoàn tổ chức rất trang trọng tại Peek Funeral
Home, Westminster, California. Số người đến viếng và tiễn đưa anh
khá đông. Ngoài một số giáo chức đồng nghiệp, những cựu đồng môn
Khóa 18 Thủ Đức, số đông đảo c̣n lại là những đồng đạo của anh.
Chúng tôi được sự đón tiếp nồng hậu của gia đ́nh và đặc biệt của
tăng đoàn, mà hầu hết là những học tṛ, môn đệ của anh. Nh́n cung
cách của họ, chúng tôi hiểu được ḷng tôn kính và hết mực tiếc
thương mà họ dành cho vị Sư Thầy của ḿnh. Cùng với những đồng môn
Khóa 18 Thủ Đức, đứng trước linh cữu, đưa tay lên chào vĩnh biệt
anh, bỗng tôi thấy ḷng ḿnh chùng xuống, bâng khuâng. Cả buổi trưa
hôm ấy, tôi mênh mang nhớ tới bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ. H́nh
dung từng khuôn mặt của những thằng bạn thân thiết đă hy sinh trên
các chiến trường, hay chết đau đớn tức tưởi trong các trại tù, và
một số đông đă phải bỏ quê ra đi, đang sống lặng lẽ đâu đó trên xứ
người, mỗi người mỗi cảnh, nhưng có cùng một nỗi đau chung, khi giấc
mơ trở về lại trên quê hương ngày một héo hắt, mỏi ṃn. Có thằng đă
tự vẫn.
Kư ức bắt đầu đưa tôi trở về ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, nơi từng tọa
lạc một quân trường nổi tiếng đă có mặt từ những năm đầu thập niên
1950, đào tạo hầu hết những sĩ quan trừ bị, có rất nhiều vị đă trở
thành những tướng lănh lẫm liệt một thời, có vị đă tuẫn tiết vào giờ
thứ 25 để giữ tṛn tiết tháo: Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê
Nguyên Vỹ…
Khóa 18 chúng tôi ra trường ngày 18.3.1965 với 1219 tân sĩ quan, vốn
xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau, và được phân phối về đủ các
quân, binh chủng, các ngành chuyên môn, các quân trường, đặc biệt
c̣n được biệt phái về một số cơ quan hành chánh, các cấp bộ, nha,
sở. Hôm nay, trong những đồng môn Khóa 18 đến tiễn biệt anh Vơ Văn
Khoa, tôi được gặp lại một số anh em thân quen, từng phục vụ ở những
đơn vị khác nhau như thế. Anh Nguyễn Văn Lân: trước khi nhập ngũ là
giáo sư của một Collège Français, ra trường về làm việc ở Bộ Ngoại
Giao; bạn Đào Minh Hùng: Thiếu Tá của Liên Đoàn 81 BCND, một đơn vị
nổi danh ở các chiến trường đẫm máu nhất; bạn Nguyễn Nhật Minh:
Thiếu Tá Trưởng Ty ANQĐ Lâm Đồng; bạn Vũ Ngọc Bích: Thiếu Tá của Cục
Măi Dịch, các anh Nguyễn Ngọc Kỳ, Bùi Trọng Nghĩa, Nguyễn Thế Hùng:
CTCT, bạn Lê Trường Xuân: Biệt Động Quân, Nguyễn Thanh Thế, Trần
Minh: Bộ Binh, Đỗ Văn Đạt: HCTC, và đặc biệt có bốn người bạn cùng
Trung đội 14/ Đại đội 4 SVSQ với tôi: anh Nguyễn Xuân Hồng: giảng
viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội, về sau trở thành Mục Sư Tin Lành và
phục vụ tại Nha Tuyên Úy; Phạm Duy Cường: CTCT, Nguyễn Văn Long:
Thiết Giáp và Nguyễn Hồng Tâm: SĐ5BB, người trẻ tuổi nhất của Đại
Đội 4.
Gặp lại nhau, cũng là dịp để điểm danh, xem ai c̣n ai mất, cùng ngậm
ngùi cho phần số của mỗi người.
Riêng Đại Đội 4 và Trung Đội 14 SVSQ của chúng tôi cũng có nhiều
điều đặc biệt khó quên. (Đại Đội 4 là hậu thân của Đại Đội 10 trong
giai đoạn 1.) Cán bộ đại đội trưởng là Trung úy Phan Tấn Mỹ, tốt
nghiệp Khóa 13 Vơ Bị Đà Lạt, từ binh chủng TQLC thuyên chuyển về
Trường, sau khi măn một khóa học ở Hoa Kỳ. Ông là nhà thơ được nhiều
người biết đến dưới bút hiệu Ư Yên (cũng là tên của quê hương ông ở
miền Bắc). Ông có cung cách và tâm hồn của một thi sĩ hơn là một ông
quan nhà binh. Biết SVSQ nào làm thơ, ông thường gọi lên văn pḥng
đại đội uống trà bàn chuyện thơ văn. Đi bộ cùng SVSQ ra băi tập,
thỉnh thoảng ông hứng chí đọc lên mấy câu thơ ông vừa nghĩ ra hay
sáng tác. Chẳng bao giờ phạt ai và mỗi khi có SVSQ nào bị Quân Cảnh
301 bắt, ông liền chạy đến nhận về. Trung đội trưởng Trung đội 14
của bọn tôi là Thiếu úy Trần Bá Linh, Khóa 12 Thủ Đức. Ông là bào đệ
của Thiếu tướng Trần Bá Di, rất thẳng thắn, kiệm lời, có thái độ bất
cần, chẳng biết “ngán” ai, nên bọn tôi cũng dễ thở mà cũng có lắm
khi hồi họp, lo âu.
Ba tuần trước ngày măn khóa, một số trong đại đội đă biết ḿnh được
bổ nhậm hay biệt phái về đơn vị, cơ quan nào. Đặc biệt có hai đồng
môn đầu tiên nhận lệnh về Trường Vơ Bị Đà Lạt làm giáo sư Văn Hóa
Vụ. Hai anh lại là bạn đồng nghiệp trước khi nhập ngũ, là giáo sư ở
Đại Học Khoa Học. Trong cuộc thực tập cuối khóa, hành quân cấp đại
đội suốt ba ngày đêm ở một băi tập bên bờ sông Đồng Nai, khi diễn
tập bài đại đội tấn công đêm lên đồi, một trong hai anh bị một quả
đạn (chiếu sáng) súng cối 60 ly không nổ rơi trúng, ghim sâu vào
lưng, làm tử thương tại chỗ. Tôi là một trong số những đồng môn được
chỉ định về Tổng Y Viên Cộng Ḥa, luân phiên đứng gác bên quan tài
anh ba ngày trong “Nhà Vĩnh Biệt”, chứng kiến nỗi đau buồn, than
khóc thống thiết của gia đ́nh, đặc biệt vị hôn thê của anh, và nghe
lời chia buồn, tiễn biệt của đồng nghiệp bạn bè và những sinh viên
từng học với anh. Trong các bài điếu văn, ai cũng ca ngợi và thương
tiếc anh, một vị giáo sư tài ba đức độ. Tôi ngậm ngùi, tiếc cho một
người có tài mà yểu mệnh. Và đó là người bạn đồng môn, cùng khóa của
tôi đă hy sinh đầu tiên, trước ngày tốt nghiệp. Người c̣n lại, anh
Phùng Văn Bộ, ngay sau khi dự đám tang đưa tiễn bạn ḿnh và lễ măn
khóa, đă một ḿnh cô đơn lên tŕnh diện Trường Vơ Bị. (Cũng có thể
có vài anh ở đại đội khác cùng được bổ nhậm về Trường Vơ Bị mà tôi
không biết.)
Một đồng môn khác cũng đă âm thầm chia tay trong trường hợp không
vui. Khi cuộc hành quân thực tập chưa kết thúc, anh được gọi tên,
lên xe về tŕnh diện Trung tá Đào Duy Ân, Tham Mưu Trưởng. Ngày măn
khóa, anh không có mặt. Chúng tôi rất buồn và ngạc nhiên khi biết
người bạn đồng môn hiền lành, dễ mến này đă bị đưa ra đơn vị với cấp
bậc binh nh́. Năm 1973, trong một lần đến QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang
thăm một sĩ quan cùng đơn vị bị thương nặng đang điều trị ở đây, bất
ngờ tôi gặp lại anh, khi ấy anh là y tá với cấp bậc Hạ sĩ 1. Hai
thằng nh́n nhau, bắt tay rồi ôm lấy nhau trong sự ngỡ ngàng. Anh vẫn
sống độc thân trong căn pḥng nhỏ thuê ở gần QYV. Buổi chiều, tôi
lái xe đưa anh về căn pḥng trọ này để anh thay áo quần dân sự, sau
đó chúng tôi ra một cái quán bên bờ biển uống rượu tâm t́nh, nhưng
tôi ngại không dám hỏi lư do v́ sao anh bị ra trường non với cấp bậc
binh nh́ như thế. Ăn uống xong, thay v́ về nhà, anh nhờ tôi đưa anh
đến một ngôi trường gần đó. Anh dạy Anh văn cho một lớp đêm ở đây.
Lúc c̣n trong quân trường, anh nằm giường kế bên tôi, là người gốc
Quảng B́nh, một con chiên ngoan đạo, rất tư cách, vui vẻ hiền lành,
mọi người đều quí mến, nên lúc anh gặp tai ương, dù không biết lư do
ǵ, ai cũng ngạc nhiên và tội nghiệp anh.
Người tử trận đầu tiên của Trung Đội 14 chúng tôi là bạn Dương Văn
Chánh. Chánh là một trong số rất ít được chọn về Binh Chủng Nhảy Dù.
Có lẽ v́ Chánh là em vợ của Tướng Trương Quang Ân, lúc ấy đang là
Trung Tá, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 2 ND. Sau khi tốt nghiệp khóa
Căn Bản Nhảy Dù, Chánh được bổ sung cho Tiểu Đoàn 7 ND, và bị tử
thương ngay trong trận đánh đầu tiên, trận Đồng Xoài, vào cuối tháng
6.1965. Một trận chiến đẫm máu khi lần đầu tiên Cộng quân đă sử dụng
một lực lượng đến cấp sư đoàn. Trước khi nhập ngũ, Chánh học ở Luật
Khoa. Da đen, giọng nói khàn khàn, ít nói, trông tướng tá hơi
“ngầu”, nhưng rất hiền hậu, dễ thương.
Dù là sĩ quan trừ bị, nhưng Khóa 18 của chúng tôi đă đóng góp rất
nhiều chiến công và xương máu cho cuộc chiến bất hạnh này. Bạn bè
tôi không chỉ đă hy sinh trên chiến trường, mà c̣n chết oan khiên
trong các trại tù man rợ của Cộng Sản, và có người đă chết trên xứ
người bởi v́ hệ lụy từ cuộc chiến bất hạnh, mà “bên thắng cuộc” lại
là bọn người gian ác bị mê hoặc bởi một chủ thuyết man rợ.
Tôi nhớ tới Trần Công Lâm, một thằng bạn cùng Trung Đội 14, nó nằm
giường trên, tôi giường dưới, nên hai thằng trở thành đôi bạn thân
thiết nhất. Quê ở tận Nha Trang, nên những ngày cuối tuần về phép,
tôi thường theo về nhà nó ở khu B́nh Triệu, cùng đi chơi với cô vị
hôn thê, sau này là vợ của nó. Lâm có ông anh là thượng sĩ, nhân
viên Pḥng Nhất của Bộ Tư Lênh Lực Lượng Đặc Biệt đồn trú tại Nha
Trang, ngay trên quê tôi. Nó bảo đă nói chuyện với ông anh và ông
cam kết là hai thằng bọn tôi sẽ được chọn về binh chủng này trước
ngày măn khóa. Thấy tôi có vẻ hoài nghi, nó bảo, dù chỉ mang cấp bậc
thượng sĩ, nhưng ông anh khá thân thiết và là cánh tay mặt của ông
trưởng pḥng, nên chuyện chọn hai thằng về LLĐB chỉ là chuyện nhỏ.
Thực t́nh, lúc ấy bọn tôi cũng không am hiểu mấy về binh chủng này,
chỉ thấy bộ đồng phục rằn ri, cái bê-rê màu xanh và huy hiệu con cọp
nhảy qua cánh dù, trông rất oai phong, nên thích vậy thôi.
Gần ngày măn khóa, tôi đă thấy trên tủ áo của nó có cả bộ quân phục
và bê-rê xanh LLĐB. Nhưng khi ra hội trường để được gọi về các binh
chủng, cả hai thằng đều không có tên. Giờ chót chỉ c̣n chỗ ở các Sư
Đoàn Bộ Binh. Tôi bảo nó theo tôi về Sư Đoàn 23, v́ quê tôi nằm
trong vùng hoạt động của đại đơn vị này. Lần này th́ Lâm theo tôi,
bỏ Sài g̣n ra tận núi rừng miền Trung xa tít. (Sau này nó cho biết,
đúng thời gian chọn tân sĩ quan về binh chủng th́ ông anh của nó
chẳng may bị tai nạn phải vào quân y viện, nên hai thằng bọn tôi bị
lọt sổ.) Ngoài Trần Công Lâm ra tôi c̣n rủ thêm Nguyễn Văn Túc. Túc
không cùng Đại Đội nhưng là bạn học cùng lớp Đệ Nhất C với tôi lúc
trước ở trường Vơ Tánh, và trước khi vào lính hai thằng rủ nhau về
quê tôi dạy ở một trường trung học tư thục đệ nhất cấp vừa mới mở,
mà ông hiệu trưởng là bạn của cha tôi.
Khi ra đơn vị, theo yêu cầu của chúng tôi, cả ba thằng được bổ nhậm
về cùng một tiểu đoàn. Lâm về Đại Đội 1, Túc về Đại Đội 2, c̣n tôi
về Đại Đội 3. Khi ấy, tiểu đoàn tôi có lẽ là một tiểu đoàn đánh đấm
có hạng, nên được chọn làm đơn vị lưu động, có trách nhiệm tiếp ứng
cho cả Khu 23 Chiến Thuật. V́ vậy có khi buổi sáng c̣n ở núi rừng
Quảng Đức, Lâm Đồng, buổi chiều đă có mặt ở vùng biển Tuy Ḥa, Phan
Thiết. Về đơn vị đă hơn ba năm mà bọn tôi chưa hề biết hậu cứ tiểu
đoàn nằm ở đâu trên Ban Mê Thuột. Thời gian ấy chiến trường chưa sôi
động lắm, chúng tôi chỉ thường đụng độ với các đơn vị địa phương của
địch. Chỉ có ở Quảng Đức và Phú Yên thỉnh thoảng có sự xuất hiện của
lực lượng chính quy mới xâm nhập từ miền Bắc. Làm trung đội trưởng
hơn hai năm, đánh đấm vài trận, được mấy cái huy chương, th́ cả ba
thằng lần lượt được lên nắm đại đội. Sau đó tôi được ông tiểu đoàn
trưởng kéo về làm Ban 3, c̣n Lâm về làm Đai Đội Trưởng Đại Đội Chỉ
Huy kiêm Trưởng ban Truyền Tin, thay cho người tiền nhiệm thuyên
chuyển đi nơi khác. Lúc ấy, Lâm hiền lành như con gái, mấy lần ông
tiểu đoàn trưởng bảo Lâm: “cậu ra trường hơn hai năm rồi mà trông cứ
như một thư sinh, làm sao lính nó ngán được!” Có lẽ với lư do này,
nên ông gởi Lâm theo học Khóa Rừng Núi Śnh Lầy rồi sau này lại học
thêm khóa Viễn Thám. Riêng Túc, sau khi lên trung úy một thời gian,
đang là một đại đội trưởng có hạng th́ được lệnh giải ngũ v́ cận thị
quá nặng. Túc được nhận vào làm tại Nha Bưu Điện và được sang
Singapore học một khóa khóa chuyên môn để về dạy ở Trường Bưu Điện
Sài g̣n.
Cùng lúc tôi được chuyển về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn th́ Trần Công Lâm
nhận lệnh theo học Khóa Căn Bản Truyền Tin tại Vũng Tàu. Nhưng chưa
tới ngày măn khóa tôi thấy Lâm đă về lại đơn vị. Trước khi tŕnh
diện ông trung đoàn trưởng, Lâm khoe “thành tích”với tôi:
-Học và làm cái nghề Truyền Tin này coi bộ nhức đầu quá, nên tao
nản, cứ dù về nhà thăm vợ và thằng cu mới sinh, nên bị ông chỉ huy
trưởng Trường kư cho mười ngày trọng cấm và trả về đơn vị. Mày tŕnh
với ông trung đoàn trưởng cho tao ra tiểu đoàn khác, về lại tiểu
đoàn cũ khó làm việc!.
Lâm về Tiểu Đoàn 4 làm đại đội trưởng một thời gian. Khi anh đại đội
trưởng ĐĐ Trinh Sát có lệnh thuyên chuyển đi đơn vị mới, tôi t́m gặp
Lâm:
– Mày có muốn về nắm Đại Đội Trinh Sát không, tao sẽ “nổ”với ông
trung đoàn trưởng, v́ mày có bằng RNSL và cả bằng Viễn Thám. Về
Trinh Sát có cơ hội thi thố tài năng, thử lửa ra sao, để không ai
c̣n dám gọi mầy là “Lâm Con Gái” nữa!
Lâm vỗ vai tôi cười khoái chí.
Không ngờ, chỉ sau một thời gian, Trần Công Lâm trở thành một đại
đội trưởng Trinh Sát lừng danh của cả Quân Đoàn. Bây giờ, chuyện
xông pha trận mạc đối với Lâm c̣n dễ hơn chuyện dắt đào đi chơi
ngoài phố. Nơi nào không giải quyết được chiến trường, Lâm t́nh
nguyện nhảy vào, và lúc nào cũng xuống mục tiêu trước tiên với một
toán Viễn Thám. Một lần, một tiểu đoàn trực thuộc cùng chi đoàn TQV
và pháo đội PB 105 ly tăng phái, di chuyển đến vùng hành quân, bị
một lực lượng Cộng quân hùng hậu đào giao thông hào, ngụy trang hai
bên đường phục kích. Đơn vị phản công kịp thời, các sĩ quan Kỵ Binh
dạn dày kinh nghiệm, cho thiết vận xa M 113 vừa tác xạ vừa cày nát
đè bẹp các giao thông hào của địch, lực lượng Bộ Binh bung ra, vừa
bảo vệ Pháo Binh vừa đánh cận chiến và tung lựu đạn xuống pḥng
tuyến địch, Pháo Binh hạ ṇng trực xạ vào các cao điểm nghi ngờ địch
tập trung. Địch chết khá nhiều, một số bị ta bắt sống, Khai thác cấp
thời, biết được vị trí bộ chỉ huy của địch nằm cách nơi chạm súng
khoảng hơn hai cây số, và chỉ được bảo vệ bằng một đại đội với quân
số chưa tới 50 người. Đại Đội Trinh Sát của Lâm đang ứng chiến bên
cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, được trực thăng Hoa Kỳ bốc thả xuống
ngay sát bên hông địch, sau một tràng TOT của Pháo Binh cùng với sự
yễm trợ của bốn chiếc Cobra, địch không ngóc đầu lên được. Với hỏa
lực phi pháo và lối đánh thần tốc của Lâm, địch không kịp trở tay,
cả bộ chỉ huy địch đều bị giết và một số bị bắt sống, trong đó có
tên chính ủy và cả tên trung đoàn trưởng, ta tịch thu nhiều tài liệu
quan trọng cùng mấy triệu đồng tiền VNCH (toàn giấy 1.000 mới toanh
đựng trong các thùng gỗ), nhưng khi giao cho Ty Ngân Khố giám định,
hóa ra đều là tiền giả được in từ Trung Cộng.
Một lần khác, được tin t́nh báo cho biết, một đơn vị địch vừa mới
xâm nhập vào vùng núi giữa ranh giới ba tỉnh Lâm Đồng – Ninh Thuận –
B́nh Thuận, Lâm t́nh nguyện dắt một toán viễn thám, được cải trang
thành những bộ đội mang theo AK-47 và B- 40 (chiến lợi phẩm tịch thu
của địch) xâm nhập. Một tiểu đoàn được lệnh ứng chiến, cùng với Đại
Đội Trinh Sát (-) của Lâm, do anh đại đội phó chỉ huy, để khi nào
nhận hiệu lệnh của Lâm sẽ nhảy vào tiếp ứng. Nhưng đến khuya, Lâm
cùng toán viễn thám trở ra an toàn, c̣n bắt theo ba tên địch, trong
đó có môt phụ nữ. Sau khi khai thác, biết chính xác địa điểm ém quân
của địch, Lâm báo về TTHQ, chúng tôi liên lạc cố vấn Mỹ xin mấy phi
tuần cất cánh từ Căn cứ Cam Ranh đến đánh bom ngay khuya hôm ấy. Sau
đó cũng chính Lâm, chỉ huy Đại Đội Trinh Sát nhảy vào kiểm soát
chiến trường và truy kích địch. Đơn vị lại tạo thêm một chiến thắng
lớn, gần cả trăm xác địch bỏ lại, rất nhiều vũ khí các loại bị ta
tịch thu, trên mười tên bị thương bị ta bắt.
Lâm ngày một đam mê chiến trận. Chiến trường như là những tảng nam
châm cực mạnh cuốn hút lấy Lâm. Đại đội nghỉ vài hôm là Lâm xin đi
hành quân. Hành quân mà chưa đụng địch, Lâm không về và đề nghị tái
tiếp tế để bốc đi nơi khác. Thuộc cấp cũng mệt v́ Lâm, nhưng tất cả
đều nể phục Lâm. Chính Lâm đă biến Đại Đội Trinh Sát này trở thành
đơn vị thiện chiến, lừng lẫy một thời.
Khi một lực lượng chiến xa Hoa Kỳ đến hoạt động trong Mật Khu Lê
Hồng Phong, một mật khu có địa thế khá rộng lớn và hiểm trở của Cộng
quân tại B́nh Thuận, đă xin đích danh Đại Đội Trinh Sát của Lâm biệt
phái để phối họp, tùng thiết. Vị chỉ huy lực lượng chiến xa này đă
hết ḷng ca ngợi Lâm và đề nghị ân thưởng huy chương Hoa Kỳ cho Lâm.
Trong hơn ba năm làm đại đội trưởng, Đại Đội Trinh Sát của Lâm đă
tạo rất nhiều chiến thắng, mà tổn thất rất ít. Số vũ khí và tù binh
thu bắt được c̣n hơn cả số lượng chiến lợi phẩm và tù binh của các
tiểu đoàn trực thuộc. Lâm trở thành người hùng của Sư Đoàn, được
tưởng thưởng khoảng 3, 4 ADBT với nhành dương liễu và nhiều ADBT với
ngôi sao vàng, bạc, 1 huy chương của Hoa Kỳ, 1 của Đại Hàn và tất
nhiên có cả Chiến Thương Bội Tinh. Qua bao nhiêu lần thoat chết
trong đường tơ kẻ tóc, Lâm khoe với tôi là nhờ đạn tránh nó. Mùa Hè
1972, Lâm ra nắm Tiểu Đoàn 3/44, đơn vị đầu đời của Lâm và tôi. Lâm
đă góp rất nhiều chiến công để có được một “Kontum Kiêu Hùng.” Tháng
6/ 1973, Lâm được chọn làm“chiến sĩ xuất sắc của Quân Đoàn” để về dự
tiệc khao quân trong Dinh Độc Lập nhân ngày Quân Lực 19.6, nhưng
chưa đến ngày đi th́ tử trận. Lâm đă hy sinh tại phía Bắc Kontum,
khi cùng toán thám báo đi thám sát địa thế đóng quân trên một cao
điểm. Do một thằng em vướng phải ḿn Claymore của một đơn vị bạn
triệt thoái trước đây, không kịp thu hồi. Thằng em th́ chỉ bị thương
mà ông thầy th́ lănh đủ. Cái chết thật xót xa, đáng tiếc đối với một
người từng tạo nên nhiều chiến thắng lẫy lừng, và biết bao lần vào
sinh ra tử như Lâm.
Ngày Lâm chết, tôi không có mặt ở đơn vị, v́ đang nghỉ phép đặc biệt
ở Nha Trang. Tôi ghé vào Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, t́m Nguyễn Tấn
Hưng, một người bạn cùng khóa, cùng Trung Đội 14 SVSQ, rất thân
thiết với Lâm và tôi, được bổ nhậm về quân trường này, và khi ấy
đang là Trưởng Pḥng Điều Hành. Hưng đón tôi vào văn pḥng rồi đóng
cửa lại. Hai thằng ôm mặt khóc.
Tôi nhớ tới một người bạn cùng khóa khác, Phù Văn Vũ, cũng về Sư
Đoàn 23, cùng trung đoàn nhưng ở tiểu đoàn khác. Thỉnh thoảng, những
ngày nghỉ quân, chúng tôi gặp nhau, rủ đi uống rượu. Sau khi lên
trung úy, và bị thương trong một trận đánh ở Lâm Đồng, Vũ được theo
học một khóa CTCT ở Sài g̣n. Măn khóa được về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn
làm Sĩ quan Tâm Lư Chiến. Vũ có nét lai Tây, cao lớn, thuộc hàng
“bô” trai, tính t́nh vui vẻ dễ thương, nên ai cũng quí. Và cũng là
một cao thủ “nhậu”. Trong những cuộc so tài uống rượu, Vũ luôn chiếm
giải quán quân. Lúc ấy trong toán cố vấn Mỹ có Thiếu Tá Davis rất
chịu chơi, cung cấp đủ thứ whisky, nên rượu không bao giờ cạn. Là
dân Sài g̣n chính hiệu, gia đ́nh mấy đời ở gần khu cầu chữ Y, thỉnh
thoảng chị Vũ dắt con ra thăm và làm nhiều món ngon cho chồng đăi
bạn bè. Chị vừa đẹp vừa hiền lành bặt thiệp, nên ai cũng quí. Lúc ấy
vợ chồng có hai đứa con, một gái một trai, khoảng 8, 7 tuổi, xinh
xắn, lễ phép, dễ thương. Lên đại úy một thời gian, Vũ xin ra tiểu
đoàn để giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Mấy tháng sau đi học Bô Binh Cao
Cấp rồi thuyên chuyển về Vùng 3. Chúng tôi mất liên lạc nhau từ đó.
Sau tháng 4/ 75, khi có thông báo của Cộng sản (Ủy Ban Quân Quản Sài
g̣n) kêu gọi đi “tŕnh diện học tập cải tạo”, tôi đến địa điểm
Trường Đại Học Kiến Trúc. Khi xếp hàng chờ ghi danh làm thủ tục,
thấy phía đằng trước có một người chống hai cái nạng gỗ. Khi anh ta
quay mặt lại, tôi nhận ra Phù Văn Vũ. Trong cảnh sa cơ cá chậu chim
lồng này mà gặp được một người bạn thân th́ mừng vui lắm. Hai thằng
dặn nhau phải luôn đi chung. Đặc biệt Vũ rất cần tôi phụ giúp băng
bó, chữa trị vết thương. Bọn tôi bị đưa tới trại tù An Dưỡng (Biên
Ḥa), may mắn ở cùng một nhà, một tổ. Vết thương khá lớn ở chân phải
của Vũ vẫn c̣n mưng mủ, tôi trở thành “y tá” riêng cho Vũ, rửa vết
thương và băng bó mỗi ngày. Theo lời Vũ kể, vào cuối tháng 3/75, lúc
ấy đang làm tiểu đoàn trưởng thuộc Sư Đoàn 25 BB, Vũ bị thương nặng
ở đầu gối chân phải do đạn pháo của địch. Ngày 1 tháng 5, đang điều
trị ở TYV Cộng Ḥa th́ bị VC đuổi ra. Về nhà may mà bà xă săn sóc
thuốc men chu đáo nên mới khá được như hôm nay.
V́ phải chống nạng, nên Vũ không phải đi lao động, (khi ấy bọn tôi
phải đi tháo gở kẽm gai và ḿn trong hàng rào phi trường Biên Ḥa),
chỉ ở nhà quét dọn nhà ở, nhà bếp và hội trường. Không đủ thuốc men,
nên vết thương kéo dài, cho măi đến tháng 6.1976, khi lên tàu sông
Hương ra Bắc, vẫn chưa lành hẵn.
Khi xuống tàu để lên bến Hải Pḥng, thấy tôi đi chung và xách ba lô
cho Vũ, một tên bộ đội kéo tách chúng tôi ra, giữ Vũ lại và bảo tôi
phải đi xuống trước, mặc dù tôi đă năn nỉ xin được đi chung để giúp
đỡ Vũ trong t́nh trạng vết thương chưa lành và đi đứng khó khăn,
nhưng hắn không cho mà c̣n nạt nộ.
Tôi bị đưa về Trại 3 (Hang Dơi) nằm cực bắc Yên Bái thuộc tỉnh Hoàng
Liên Sơn lúc ấy. Sau một thời gian, trong một lần đi xuống kho tổng
trại ở Nghĩa Lộ để vác gạo về cho trại, thấy một người chống nạng,
chăn bầy ḅ bên đường, tôi nhận ra Vũ với đôi chân thấp cao, khập
khiễng. Bất ngờ gặp lại nhau, cả hai thằng đều mừng mà ứa nước mắt.
Vũ cho biết đang ở Trại 8, và v́ phải chống nạng nên được cho chăn
ḅ của trại. Khi tên vệ binh thúc tôi phải đi, Vũ kịp đưa cho tôi
một gói nhỏ. Tôi bỏ nhanh vào túi áo. Khi dừng lại nghỉ trưa trên
ngọn đèo cao, mở ra tôi thấy một cái bánh nướng làm bằng bột sắn
(khoai ḿ), tôi vừa ăn vừa lau nước mắt.
Trại 3 của tôi cách Trại 8 của Vũ khoảng hơn hai mươi cây số, đặc
biệt phải đi qua một cái đèo rất cao. Mỗi lần đi vác gạo, bọn tù
chúng tôi khốn khổ bởi cái đèo này. Không biết tên ǵ, nhưng bọn tôi
gọi đó là “Đèo Bá Thở.” Ba tháng sau, trong chuyến đi vác gạo kế
tiếp, tôi lại được gặp Vũ, lần này th́ cả hai thằng mừng rỡ, nhưng
đứng cách nhau khá xa, chỉ kịp gọi tên và vẫy tay chào. Rồi ba tháng
sau nữa, cũng trong một chuyến đi lấy gạo, khi gần đến khu Trại 8,
thấy bầy ḅ từ xa, tôi háo hức để được gặp lại Vũ, nhưng khi người
chăn ḅ đưa tay chào các bạn tù, tôi ngạc nhiên v́ không phải Vũ, mà
lại là một người khác, khá già, râu tóc bạc phơ. Anh cho biết là Vũ
đă chết trước đó hơn một tháng, do bệnh kiết lỵ mà không có thuốc
chữa. Tôi bỗng thấy đau nhói trong ḷng, và bâng khuâng nghĩ tới vợ
con Vũ, bởi lúc ngồi trên tàu Sông Hương ra Bắc, Vũ đă buồn bă nói
với tôi, các con c̣n quá nhỏ, ngày Vũ đi vào tù, nhà không c̣n tiền
và cũng chẳng có tài sản ǵ đáng giá, rồi không biết vợ con sẽ phải
sống ra sao. Khi ấy tôi chỉ c̣n biết lấy hoàn cảnh tương tự của
chính ḿnh để an ủi Vũ.
Một hôm vào khoảng đầu năm 2007, trong một dịp sang Cali, tôi bất
ngờ gặp lại một người bạn tù khá thân. Anh đang hợp tác trong tổ
chức nhân đạo của cựu tù Thiếu Tá Nguyễn Đạc Thành, nhằm t́m kiếm mồ
mả, hài cốt của những anh em chết ở các trại tù miền Bắc. Tôi hỏi
ngay đến Phù Văn Vũ, và quá đỗi ngạc nhiên khi anh bạn cho biết đă
t́m ra được mộ của Vũ và cũng đă liên lạc với vợ con Vũ để về Việt
Nam bốc mộ. Anh bạn c̣n cho tôi xem tập hồ sơ, có cả h́nh ảnh của Vũ
lúc c̣n trong quân ngũ, và h́nh của ngôi mộ hoang phế trong núi rừng
Việt Bắc với tấm bia xám xịt c̣n lờ mờ mấy chữ: Phù Văn Vũ chết ngày
23.8.1977 (chỉ sau một năm chuyển ra Bắc). Vợ con Vũ đă may mắn được
sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO và đang sinh sống ở Tiểu Bang N.
Carolina. Trong hồ sơ có ghi số điện thoại con trai lớn của Vũ. Tôi
liên lạc hỏi thăm và nói chuyện mấy lần. Sau đó, v́ chị Vũ không
được khỏe, nên cháu Nguyễn Ngọc Thị Hương, cô con dâu trưởng của Vũ
đă theo tổ chức này về VN phối họp cùng cô con gái lớn của Vũ (c̣n ở
lại VN) bốc mộ Vũ vào ngày 26.2.2007 và mang tro cốt về cải táng tại
Hoa Kỳ.
Tôi nhớ tới Trần Ngọc Thăng, thằng bạn cùng Khóa 18 khác và cũng là
bạn học cùng truờng ở Nha Trang lúc trước. Ra trường, Thăng t́nh
nguyện về Biệt Động Quân. Khoảng ba năm sau tôi bất ngờ gặp nó mang
ba lô về tŕnh diện trung đoàn tôi tại Sông Mao. Đúng lúc các đơn vị
đang nghỉ dưỡng quân, tôi gọi tất cả đám bạn cùng Khóa 18 về Câu Lạc
Bộ đón mừng nó. Khi ấy cả bọn tôi đều đă lên trung úy, chỉ duy nhất
có Thăng c̣n mang thiếu úy. Hỏi ra mới biết chàng ta từ quân lao mới
chuyển ra Đơn Vị 2 Quản Trị và được bổ sung về đơn vị tôi.Thăng bảo,
mới vừa lên làm đại đội trưởng BĐQ th́ đụng độ với ông tiểu đoàn phó
khi ông chửi thề và tát tai một anh chuẩn úy mới ra trường, trung
đội trưởng của Thăng. Đang căi nhau th́ bất ngờ bị ông đá thúc vào
ống chân thách thức, nên sẵn súng trên tay Thăng bắn một phát vào
bàn chân ông. Bị 30 ngày trọng cấm và ra Ṭa Án Quân Sự lănh tám
tháng tù. Không biết có phải v́ lư do này mà suốt thời gian ở đơn
vị, ngoài những bạn cùng khóa, Thăng không chơi với ai. T́nh nguyện
về làm đại đội phó Trinh Sát. Hơn một năm sau được thăng cấp trung
úy, Thăng xin ra nắm đại đội ở Tiểu Đoàn 2. Đầu năm 1973, khi đang
làm tiểu đoàn phó TĐ3 cho Trần Công Lâm, Thăng được bổ nhậm làm tiểu
đoàn trưởng TĐ 2/44 trong một trường hợp khá đặc biệt. Thời gian c̣n
làm đại đội trưởng, hành quân ở khu vực Di Linh – Đức Trọng, Thăng
quen biết một nữ sinh sắc tộc Thái Trắng, khá xinh, nhưng măi đến
đầu năm 1974 hai người mới làm đám cưới và một đứa con trai ra đời
trong những ngày cuối tháng Tư buồn. Trong lúcThăng bị tù ngoài Bắc,
ở nhà vợ Thăng treo cổ tự vẫn, đứa con trai được giao lại cho bà nội
nuôi nấng. Theo người nhà kể lại, khi chết, vợ Thăng mặc chiếc áo
dài trắng thuở c̣n đi học và có để lại một lá thư, nhưng bị công an
tịch thu nên không ai biết vợ Thăng đă viết những ǵ trong đó. Ra tù
vài năm, Thăng đưa mẹ, hai cô em gái và đứa con trai vượt biển. Đến
Mỹ, định cư ở San Jose, Thăng nhờ mẹ chăm sóc đứa con thơ để vừa đi
làm vừa đi học. Mỗi lần nói chuyện trong điện thoại, tôi đều ca ngợi
Thăng có chí, nó cười bảo: “tao vùi đầu vào sách vở là chỉ để được
quên, không muốn có chút th́ giờ nào để phải hồi tưởng hay suy nghĩ
điều ǵ”. Cuối cùng nó cũng lấy được bằng Cao HọcTâm Lư (Master of
Psychology) và t́m được việc làm lương cao, ổn định. Bạn bè ai cũng
khen và mừng cho nó. Bao nhiêu t́nh thương Thăng dồn hết cho mẹ và
đứa con trai. Nó bảo mẹ nó đă một đời tăo tần nuôi nấng cưu mang mấy
anh em nó từ lúc c̣n tấm bé, di cư từ Bắc vào Nam năm 1954. Do lời
khuyên nhủ của mẹ, Thăng tục huyền. Cô vợ nhỏ hơn nó khá nhiều tuổi,
quen nhau lúc cả hai cùng là sinh viên ở một trường đại học Mỹ, cũng
là ái nữ của một cựu thiếu tá ở Sư Đoàn 7 BB. Vẫn cái tính như ngày
xưa, Thăng sống khép kín, ít giao tiếp với bạn bè, nhưng với vợ
chồng tôi, Thăng luôn dành một t́nh cảm đặc biệt. Mỗi lần sang Mỹ,
chúng tôi đều ghé lại thăm, và vợ chồng Thăng luôn giữ lại nhà vài
hôm. Vợ Thăng cũng rất hiền lành, vui vẻ và hiếu khách. Đầu năm
2007, mẹ già ngă bệnh, vợ chồng Thăng đă hết ḷng lo chữa chạy,
nhưng v́ tuổi già sức yếu, không chống chọi nổi bệnh t́nh, bà đă quy
tiên. Biết Thăng rất đau ḷng, từ Bắc Âu tôi bay sang với Thăng, và
chạnh ḷng khi nh́n thấy Thăng tiều tụy, chán chường. Trong dịp này,
tôi lại biết thêm một nỗi buồn khác, cũng rất to lớn của Thăng. Đứa
con trai duy nhất mà Thăng hết mực cưng chiều yêu quư, như muốn làm
vui ḷng người vợ bất hạnh ở dưới suối vàng, đă bỏ học và có con với
một cô bạn gái cùng lớp trong high school, khi cả hai c̣n ở tuổi vị
thành niên. Thăng giấu tôi chuyện này. Chỉ thỉnh thoảng than với tôi
là không c̣n thiết tha ǵ nữa và hối tiếc là ngày xưa không được
chết trên chiến trường. Tôi vừa an ủi vừa đùa, bảo Thăng đă học
nhiều năm về Tâm Lư, sao không “lấy sở tồn ra làm sở dụng.”
Bỗng một hôm được tin Thăng chết. Chết một cách đau đớn. Thăng dối
vợ, bảo đi thuê hộ khách sạn cho một người bạn từ tiểu bang khác
tới. Nhưng thực ra Thăng đi thuê pḥng trong một khách sạn nhỏ ở gần
nhà, rồi ở đó dùng súng bắn vào đầu ḿnh tự sát, sau khi viết mấy lá
thư để lại trên bàn. Tôi nhận được lá thư Thăng viết cho tôi, do
Cảnh sát giao lại. Nét chữ ngay ngắn, đẹp đẽ, chứng tỏ Thăng rất
b́nh tĩnh trước khi tự kết liễu đời ḿnh:
“Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn ḿnh
rồi sẽ như những con chim đă đến lúc phải bay về với núi rừng thuở
trước. Thôi th́ tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, những thằng bạn
thân thiết, đă từng sống chết với nhau. Chỉ có một điều tao tiếc và
ân hận là đă không đựợc chết một cách oai hùng ở chiến trường nhưng
thằng Lâm, thằng Bê, anh Tài, anh Đức…”
Đọc xong, thấy đau đớn trong ḷng tựa hồ như đang có nhiều vết chém,
vậy mà không hiểu v́ sao tôi không khóc được.
Tháng Tư này, nhân dịp tiễn đưa đồng môn Vơ Văn Khoa về miền miên
viễn, nhớ tới bạn bè, bỗng tôi nghĩ thật nhiều đến ba cái chết của
ba người bạn cùng khóa, cùng một đơn vị, và một thời rất thân thiết.
Ba cái chết trong ba thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Một thằng
đánh giặc nổi danh rồi chết tại chiến trường, một thằng luôn yêu
đời, vui vẻ hiền lành bị chết trong tù với đôi chân tàn phế, và một
thằng từng ngang dọc một thời, sống bất cần, ba ch́m bảy nổi, vượt
thoát thành công, đỗ đạt trên xứ người, cuối cùng bắn vào đầu ḿnh
tự vẫn. Ba cái chết khác nhau, nhưng chỉ có một nguyên nhân duy
nhất: hậu quả của một cuộc chiến bất hạnh, và chúng tôi lại là những
chiến binh bất hạnh nhất.
Trong nỗi xót xa, tôi thầm cầu mong không c̣n phải chứng kiến những
tranh chấp, bất đồng , hơn thua giữa những người anh em từng một
thời xuất thân từ một mái quân trường hay cùng chiến đấu, sống chết
bên nhau trên các chiến trường lửa đạn. Chẳng lẽ cả một đời binh
nghiệp, cuối cùng chúng ta chẳng c̣n giữ lại được điều ǵ, ngay cả
cái t́nh đồng môn, huynh đệ? Tôi cũng thật đau ḷng khi biết có
những người đă vội quên ḿnh từng một thời là lính, sống thản nhiên
vô tâm trước nỗi đau của quê hương đất nước, và quên cả món nợ máu
xương mà ḿnh chưa trả được một chút ǵ cho đồng đội anh em.
Tôi bỗng chạnh ḷng khi nhớ tới một đoạn đă đọc được từ khá lâu
trong“Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”, tác phẩm viết về chiến tranh
nổi tiếng của nhà văn Erich Maria Remarque: “… Rồi mọi người sẽ
không hiểu được chúng tôi…Chúng tôi sẽ trở thành một thứ thừa thăi
ngay cả đối với chính ḿnh, chúng tôi sẽ ngày càng già đi, một số có
thể hội nhập được với cuộc sống mới, một số khác sẽ nhẫn nhục mà
sống, và hầu hết là sống trong nỗi bàng hoàng đau đớn. Ngày tháng sẽ
trôi đi và cuối cùng chúng tôi sẽ rơi vào tàn lụi”.
Không! Chúng tôi, dù là những người lính trừ bị, nhưng đă hiến cả
đời ḿnh cho quân đội, cho Tổ Quốc, luôn ngẩng cao đầu hănh diện đă
góp phần bảo vệ quê hương và phát huy giá trị tự do nhân bản. Chúng
tôi đă từng sống chết hết ḷng với đồng đội anh em, và chiến đấu
bằng tất cả danh dự cùng cả trái tim ḿnh.
Cuộc chiến bất hạnh khi người bạn đồng minh đành đoạn quay lưng, để
phải kết thúc trong đớn đau, tức tưởi: “phía man rợ đă thắng”, lời
của chính bà Dương Thu Hương, một nhà văn, một cán binh Cộng sản đă
từng xác tín. Và một chế độ được dựng lên bởi một đảng cướp man rợ,
độc tài, sống hèn mạt, phè phỡn trên nỗi thống khổ oán than của dân
tộc cùng sự điêu linh của đất nước, sẽ không thể tồn tại lâu dài.
Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh
quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ
chúng tôi đă từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh
và đau thương nhất của dân tộc.
Phạm Tín An Ninh
(Mùa Quốc Hận 2019)
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi