Đoàn Xuân Thu
Mới đầu nghe ba em gọi, tôi tưởng tên em là Muỗi. Tôi ghẹo em: “Muỗi
này! Đừng chích anh, đau lắm”.
Em trề môi, vẻ không bằng ḷng: “Tên em là Muội. Muội là em. Em là
Muội”. À ra thế!
Ba Muội, chú Phu, người Quảng Đông. Phu là phú, phú là giàu. Tên chú
giàu nhưng chú không giàu.
Chú chỉ có chiếc xe hủ tiếu, bán điểm tâm dưới hai tàng me đại thụ,
trên vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường .
Má tôi đông con, cũng nghèo, có quầy bán cơm tấm gần bên. Chủ nhựt
được nghỉ học, hai đứa ra phụ chạy bàn. Em giúp ba em. Tôi giúp má
tôi. Năm ấy tôi mười tám tuổi, học Đệ nhứt, năm cuối cùng của bậc
Trung học Đệ nhị cấp. Cuối năm, tôi sẽ thi Tú tài hai. Đậu th́ lên
Đại học. Rớt th́ vào Thủ Đức. Chiến trường đang hồi ác liệt. Bạn
tôi, rớt Tú tài một, đi Đồng Đế, có đi mà chẳng có về.
Muội, mười sáu tuổi, học Đệ tam, trường Tàu, sắp thi bằng Cao Trung.
Muội là cô giáo dạy tôi tiếng Quảng Đông. Dách là một, d́ là hai,
xám là ba, xập là mười. Bài xập xám là bài mười ba lá. Muội nói Muội
không thích thanh niên đánh bài. Tôi đâu có ở không để đi đánh bài;
v́ tôi c̣n bận tơ tưởng đến Muội của tôi suốt ngày; ngay cả năm thi
Tú tài hai, bài vở c̣n cả đống, tôi c̣n không để mắt tới nữa là.
Muội dạy tôi tính tiền là xấu lúi. Kỷ tố là bao nhiêu. Dách cô phảnh
là một tô hủ tiếu. Tôi hỏi: “Một dĩa cơm tấm b́, tiếng Quảng nói làm
sao?” Muội nói: “Muội không biết”. Tôi nói: “Đi hỏi ba Muôi đi!”.
Muội không dám. Muội sợ ba biết Muội quen với tôi, ba Muội rầy.
Ba Muội nói: “Con trai Việt Nam làm biếng lắm, đi chơi tối ngày,
không lo buôn bán. Không buôn bán lấy ǵ ăn. Không có ǵ ăn, làm sao
lấy vợ. Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi con”.
Tôi nói: “Muội đừng lo. Tôi sẽ rán học, thi đậu Tú tài hai, vào Đại
học Sư phạm, được hoăn dịch, đi bán chữ, để có tiền nuôi Muội. Muội
đi bán hủ tiếu, để tôi có hủ tiếu, ăn trừ cơm, trong những ngày mưa
bán ế”.
Muội nói: “Muội c̣n nhỏ lắm, chưa biết yêu”.
Tôi nói: “Tôi sẽ chờ vài năm nữa”.
Nhưng thời cuộc biến chuyển. Tôi không chờ được Muội mà ngược lại
Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một thời con gái .
Cuối năm đó tôi đậu Tú tài hai. Hai năm xa Mỹ Tho, đi học Đại học
Cần Thơ, tôi không c̣n dịp gặp Muội mỗi sáng chủ nhựt, để nói chuyện
tào lao bắc đế nữa.
Tôi sắp ra trường, sẽ đổi về một quận lỵ buồn thỉu, buồn thiu nào đó
của đồng bằng sông Cửu Long; để làm một ông giáo làng, hai mươi mốt
tuổi.
Tôi sẽ trở về Mỹ Tho nhờ má tôi nói với chú Phu, ba Muội, hỏi cưới
Muội cho tôi.
Bây giờ tôi đă có đủ chữ để đi bán rồi. Tôi sẽ có tiền nuôi Muội, để
ba Muội không c̣n chê con trai Việt Nam làm biếng nữa. Tôi sẽ không
c̣n ăn cơm tấm má nấu. Tôi sẽ ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong
những ngày mưa bán ế.
Tôi không ao ước cao xa ǵ hết. Chuyện ấy dành cho con nhà giàu,
quyền thế. Tôi chỉ ước được làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu.
Vậy mà cũng không được!
Mùa hè năm 72: mùa hè lửa đỏ. Các trận đánh lớn đồng loạt nổ ra ở
Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc. Tin chiến sự chiếm đầy mặt báo. Trang
sau là cáo phó, phân ưu những người lính tử trận. Tôi tốt nghiệp,
nhưng không được nhận nhiệm sở. Lệnh tổng động viên đă ban hành. Tôi
vào trường Bộ Binh Thủ Đức.
Tôi thư về Muội bảo chờ tôi. Tôi c̣n quá trẻ để chết. Tôi sẽ trở về!
Tôi sẽ trở về! Tôi vẫn c̣n muốn ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong
những ngày mưa bán ế. Hai năm xa Mỹ Tho, tôi đă ăn hủ tiếu nhiều
nơi, nhiều chỗ nhưng không nơi nào, chỗ nào nấu hủ tiếu ngon bằng
Muội của tôi.
Muội hứa sẽ chờ tôi về dẫu trời sập chăng đi nữa. Lời hứa ấy làm ấm
ḷng tôi suốt những ngày gian khổ giày sô, áo trận.Tôi rời trường Bộ
Binh Thủ Đức, về Thủy quân Lục chiến. Sư đoàn là lực lượng tổng trừ
bị, nên tôi lội khắp nơi: từ Cà Mau, Chương Thiện, Bến Tre ra tận
Thừa Thiên, Quảng Trị.
Một năm lính trôi qua, khi tiểu đoàn về Mỏ Cày, Bến Tre truy kích
chủ lực miền của địch về quấy rối th́ tôi đạp phải ḿn. Sức nổ của
trái ḿn tự tạo bằng quả đạn pháo 105 lép, đẩy tôi văng tuốt xuống
mương, ḿnh dính đầy những miểng.
Tôi không chết, như đă hứa với Muội. Trực thăng phầm phập tải thương về Bịnh viện 3 Dă chiến Mỹ Tho. Tôi nằm trên băng ca, ngoài hành lang trên lầu, chờ ngày mai xe hồng thập tự chuyển tôi về bịnh viện Lê Hữu Sanh của sư đoàn ở Thị Nghè.
Muội nghe tin tôi bị thương; tất tả cùng má đến thăm. Đă hết giờ thăm thương bịnh binh, má với Muội đứng dưới lề đường Trương Định nh́n lên nơi tôi nằm.
Tôi tḥ cái tay, không bị dính miểng, vẫy vẫy. Má khóc. Muội cũng khóc. Vạt áo xẩm, Muội mặc, đẫm đầy nước mắt.
Muội sợ tôi chết, Muội khóc. Khóc cho giấc mộng
tôi muốn làm thầy giáo đi bán chữ nuôi Muội; Muội đi bán hủ tiếu cho
tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế đă không thành.
Tôi nằm bịnh viện cả tháng trời. Miểng trong người lâu lâu lại ḷi
ra. Tôi nghiến răng, rút miểng ra, máu lại chảy. Tôi được hai tuần
phép để chờ ra hội đồng giám định y khoa.
Tôi trở về Mỹ Tho gặp má. Cởi giầy sô, áo trận, tôi mặc lại chiếc áo
học tṛ năm cũ. Tôi ra vỉa hè, dưới hai tàng me đại thụ, bên hông
rạp chớp bóng Định Tường, chạy bàn cho má tôi.
Tôi gặp lại Muội. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhứt đời tôi, khi
bây giờ, tôi nhớ lại.Tôi hỏi Muội: “Đẹp tiếng Quảng là ǵ?”. Muội
nói: “Hụ len. C̣n yêu là ói”. Vậy th́ “Nị hụ len; ngọ ói nị”. Muội
mắc cỡ, ửng hồng đôi má.
Cả tháng trời nằm bịnh viện, không có dịp xài, lương vẫn y nguyên.
Tôi lănh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không cầm tiền, má
khóc.
Tôi nài nỉ: “Em con đang sức lớn, má ơi!”
Số tiền c̣n lại tôi dắt Muội xuống tiệm Văn Minh, gần rạp hát Vĩnh
Lợi, mua vải cho Muội may áo. Tôi chọn một xấp gấm Thượng Hải có in
chữ Tàu.
Tôi hỏi: “Chữ Tàu đó nghĩa là ǵ?”
Muội nói: “Đó là chữ hỉ. Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo
cưới”.
Tôi hỏi: “Muội muốn màu ǵ?”
“Màu đỏ hên lắm! Muội xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc b́nh an,
hết giặc, về với Muội”.
Tôi nói: “Thôi! Đời anh xui quá xá rồi c̣n ǵ, muốn đi bán chữ mà
cũng không được, mới đi lính có một năm đă bị thương rồi, hên đâu
hỏng thấy”.
Tôi chọn cho Muội vải áo màu xanh đọt chuối.
Tôi bảo: “Màu xanh là màu hy vọng. Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù
cho trời sập tới nơi.” Muội nói: “Muội sẽ chờ.”
Tôi may cho Muội một chiếc áo bà ba để bắt đền cho chiếc áo xẩm đẫm
đầy nước mắt khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bệnh viện 3 Dă chiến
ngày nào.
Muội nói: “Muội mặc chiếc áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho.”
“Ba má sanh Muội ra ở đây th́ Muội đă là con gái Mỹ Tho rồi; mà con
gái Mỹ Tho chánh cống chưa chắc đă dám đọ với em”. Tôi nịnh Muội.
Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội đồng giám định y khoa tái khám,
bị phân loại một, trở về tác chiến.
Lại băng rừng, vượt suối, bạc màu áo trận, mốc thích giầy sô cho đến
ngày tan hàng, sập tiệm.
Tôi chỉ là một sĩ quan cấp thấp, nhưng lại thuộc binh chủng rằn ri
nên những người thắng trận cải tạo tôi hơi lâu; măi năm năm sau mới
thả tôi về. Tôi trở về Mỹ Tho bèo nhèo như một chiếc áo rách. Má tôi
đă mất khi tôi c̣n ở trong trại. Mấy đứa em giấu tôi tin buồn. Đứng
trước bàn thờ má, đốt một nén nhang, tôi không c̣n khóc được nữa,
nước mắt tôi đă cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp
chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
Má ơi!
Tôi nhớ lại nồi cơm tấm má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn học. Tôi nhớ
cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, dưới hai tàng me đại
thụ mà mùa thu lá me bay bay, rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ những giọt
nước mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bịnh viện 3 Dă
chiến năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi khi không chịu
cầm số tiền lương tôi gởi. Bây giờ má tôi đă mất rồi; đàn em tôi vẫn
c̣n nheo nhóc.
Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng không đủ. Ăn buổi sáng, phải chạy,
lo buổi chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi vai khẳng khiu của em
gái tôi đang tuổi thanh xuân. Nhưng tuổi thanh xuân của em tôi c̣n
đâu nữa. Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía câu nói ấy cho
bằng bây giờ.
Tôi không t́m gặp lại Muội nữa. T́nh thơ dại của tôi đă tan theo vận
nước.
Bây giờ tôi chỉ là một sĩ quan ngụy, đi cải tạo về, mỗi tuần phải
tŕnh diện công an phường một lần cho tới ngày xả chế.
Tôi ra khỏi một nhà tù nhỏ, để vào một nhà tù lớn hơn! Tôi chỉ có
chữ, mà chữ bây giờ chẳng ai mua.
Chế độ này không cần chữ. Lúc tôi lên tŕnh diện, lăo phó công an
phường lẩm nhẩm đánh vần lịnh tha của tôi mà nước miếng tràn ra cả
khóe miệng.
Chế độ này cần lư lịch. Mà lư lịch tôi hạng 15, nghĩa là hạng bét,
tận cùng đáy xă hội, th́ tôi làm được ǵ bây giờ?
Tôi không t́m gặp lại Muội không phải v́ tôi mặc cảm. Tôi không có
ǵ phải mặc cảm cả. Tôi chỉ đi lính, đánh giặc, tôi thua, giặc bắt
tôi ở tù. Thế thôi!
Tôi không t́m gặp lại Muội chỉ v́ tôi không muốn ḿnh trở thành gánh
nặng cho Muội. Yêu người, có ai muốn trở thành gánh nặng cho người
ḿnh yêu bao giờ đâu? Tôi cũng không muốn trở thành gánh nặng cho em
tôi. Thương em, có ai muốn trở thành gánh nặng cho em ḿnh thương
bao giờ đâu?
Tôi đă sống sót suốt năm năm trời dưới chín tầng địa ngục. Tôi đă
đói, đói đến mức phải ăn bất cứ cái ǵ động đậy: cóc, nhái, ễnh
ương, bù tọt.
Tôi phải sống sót để trở về, như đă hứa, với Muội. Kẻ thù muốn tôi
quỳ xuống, van xin. Tôi không quỳ xuống, van xin. Kẻ thù muốn tôi
chết. Tôi không chết. Tôi đă trở về, dù thân tàn ma dại.
Em gái tôi đem chiếc nhẫn cưới của má để lại, đến vợ tên công an khu
vực cầm, để tôi có chút vốn đi buôn lậu dầu dừa.
Ngày xưa nói đến buôn lậu là nói đến tiền tỉ, đến những vật phẩm đắt
tiền, trốn thuế, chuyển hàng có xe quân cảnh hụ c̣i như vụ Long An.
C̣n bây giờ chỉ mười lít dầu dừa, bỏ vào cặp táp, từ cầu Ba Lai qua
phà Rạch Miễu về Mỹ Tho, kiếm lời đủ mua lít gạo.
Đế quốc Mỹ, tàu to, súng lớn, không đủ sức đưa nhân dân ta trở về
thời kỳ đồ đá. Nhà nước ta, đỉnh cao trí tuệ loài người, bằng ngăn
sông, cấm chợ, rào đường, chặn ngơ dễ dàng đưa nhân dân ta trở lại
thời kỳ đồ đá, thời kỳ hái, lượm, thời kỳ của nền kinh tế tự cung,
tự cấp; bởi buôn bán, dù năm mười lít gạo, mười, hai chục lít dầu
dừa là không lao động, không sản xuất, là bóc lột, là chủ nghĩa tư
bản xấu xa.
Tôi cắt tóc ngắn lên, cho gọn gàng, cho có vẻ thầy giáo. Phần th́ để
né mấy tay du kích bên Cầu Bắc Tân Thạch, quê hương Đồng Khởi.
Mấy tay du kích VC này có kiểu làm tiền rất láu cá, bằng cách làm
nhục khách bộ hành qua phà, dùng súng, chận họ lại, bắt vào hớt tóc.
Tóc dài là tàn dư Mỹ Ngụy. Ngồi trước gương của ông thợ hớt tóc đầu
đường, thấy tóc ḿnh đă điểm vài sợi bạc, dù tôi chưa đầy ba mươi
tuổi. Tôi mặc lại chiếc áo sơ mi trắng năm học đệ nhứt, đă ố vàng.
Chiếc quần xanh được nhuộm đen. Mặc áo bỏ vô quần, mang giày với đôi
vớ rách. Tôi xách chiếc cặp táp cũ nhưng không để đựng sách vở. Sách
vở ích ǵ cho buổi ấy. Chiếc cặp đựng cái can nhựa mười lít dầu dừa.
Tôi nhập vai thầy giáo, dù ước mơ làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ
tiếu để tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế, đă chết tự lâu rồi, từ
Mỹ Tho qua Bến Tre dạy học, canh giờ đến lớp hay tan học, ḥa vào
đám học tṛ để vượt qua trạm Cầu Bắc.
Tôi đi buôn lậu dầu dừa được chừng sáu tháng th́ thằng bạn học cũ
thời trung học cũng ở tù về, rủ tôi hùn tiền mua chiếc xích lô đạp.
Nó chạy sáng, tôi chạy chiều hoặc ngược lại. Thằng bạn tôi nói, cay
đắng: “Thằng Mỹ quưnh quáng bỏ chạy, c̣n làm rớt lại cái tên Mỹ, Xô
xích Le, xe xích lô”.
Tôi th́ lại nói: “Mấy ông tai to, mặt lớn của tụi ḿnh th́ hô hào tử
thủ, để có thời giờ tom góp vàng bạc, đô la rồi dông, c̣n làm rớt
lại chức dân biểu. Xô xích Le, dân biểu. Dân biểu đâu, ḿnh chạy đó”
Một buổi chiều sau khi chở khách ra bến xe cổng thị xă, tôi thả xe
không về chợ Ṿng Nhỏ th́ thấy một ông cắc chú đội chiếc nón mây
đan, rộng vành, như Khương Đại Vệ trong phim kiếm hiệp tàu trước 75.
Ông mặc chiếc quần tiều lỡ, quá gối, chiếc áo thung tay dài gần tới
cùi chỏ, bỏ vô quần, gánh hai cái cần xé không, đi lủi thủi. Tướng
đi ngờ ngợ, quen quen. Chú Phu rồi chứ chẳng ai! “Đi xích lô hông?
Chú ba!”
Chú Phu nh́n lên, ngơ ngác, ngờ ngợ một lát, rồi nhận ra tôi. Tôi đă
đổi thay nhiều quá.“Chèn ơi! Vậy mà ngộ tưởng nị chết rồi.”
“Chết sao được! Sống nhăn răng ra đây nè.”
Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng căn nhà lợp ngói âm dương ở đường Huyện
Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc xe hủ tiếu xập kỷ ńn, năm
xưa, ngày cũ, c̣n đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện giăng.
“Nị ở chơi, ngộ nấu hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có ăn
hủ tiếu.”
“Vậy chứ chú thôi bán hủ tiếu rồi sao?”
“Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu.”
“Th́ bán cho mấy ổng.”
“Ổng nào? À mấy ông cách mạng hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu.
Mấy ổng ăn vàng không hà.”
Chú Phu đem ra một tô hủ tiếu và một lít rượu. Tô hủ tiếu, chú Phu
vừa mới nấu, cũng chịu cùng số phận tang thương theo vận nước, chỉ
nước lèo, bánh và lèo tèo những lát thịt mỏng như tờ giấy quyến.
Tôi nhớ tô hủ tiếu Muội nấu cho tôi ăn trong những ngày mưa bán ế.
Tô hủ tiếu với bánh bột lọc làm bằng gạo G̣ Cát, trụng với nước thật
sôi, dai mà không bở như hủ tiếu Sài G̣n, nước lèo nấu bằng xương
heo, tôm khô, khô mực, cải bắc thảo, thêm vài tép mỡ, điểm xuyến vài
cọng sà lách non xanh với mấy cọng hành luộc, một nhúm giá, vài lát
ớt sừng trâu xắt mỏng, rắc chút tiêu, ăn với x́ dầu và dấm đỏ. Tô hủ
tiếu, người thương ḿnh nấu, ly cà phê sữa nhỏ, xây phé nại, do
chính tay ḿnh pha, trong những ngày băo rớt, mưa dầm, bán ế giờ đă
trở thành kỷ niệm.
Tôi không tiện hỏi thăm về Muội, dù rất muốn.
Tôi hỏi: “Chú bây giờ làm ǵ để sống?”
“Th́ nị thấy đó, ngộ đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho vựa. Nghề ve
chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon đem xuống sông rửa,
rồi cân kư. Bây giờ khổ quá! Nhớ hồi xưa ḿnh vui quá!” Lít rượu
ngâm ô môi, cho có màu, chú, cháu cưa hai gần hết.
Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu, lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra
cái bọc ny lon.
Chú nói: “Con Muội! Nó gởi cho nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!”
“Muội ơi!”
“Ngộ biết nó thương nị. Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị được tha
về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị. Nhưng có được đâu! Tụi nó đánh ăn
tụi ḿnh rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết biết! Hết Pol
Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi cha
con ngộ về Trung Quốc. Tưởng thống chế bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao
xếnh xáng rượt ngộ chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành chim đậu. Rồi
sanh ra con Muội. Ngộ nói với con Muội: “Mỹ Tho bây giờ đất dữ rồi,
thôi bay đi con!”
Muội ngần ngừ, có ư đợi nị về. Ngộ nói: “Nị làm quan, mà lại rằn ri
nữa, tù biết đến lúc nào ra? Nếu không đi; sợ không c̣n có dịp. Cái
cột đèn c̣n muốn đi nữa mà.”
“Suốt cuộc đời bán hủ tiếu, ky cỏm được hai cây
vàng, ngộ xuống năn nỉ mấy x́ thẩu dưới chợ Mỹ Tho cho con Muội một
chổ.”
“Tàu nó ra cửa được ba ngày đêm th́ bơm nhớt bị hư, máy lột dên,
trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua lại nườm nượp mà không
ai vớt. Ba tuần linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người đi
trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối cùng có chiếc tàu buôn
tội nghiệp dừng lại, thả thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ
coi, sức đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết ch́m. Hu
hu.”
Chú Phu không c̣n nước mắt nữa để khóc, chú chỉ kêu hu hu, tiếng kêu
của con thú bị một vết thương trí mạng, bị ví vào đường cùng, không
lối thoát thân.
“Đêm trước khi đi, nó đưa cho ngộ cái này, nói nếu nị c̣n sống sót
trở về, th́ đưa lại cho nị. Hu hu!”
Trong cái bọc ny lon, chú Phu đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba h́nh
chữ hỉ tôi may cho em ngày cũ.Muội ơi! Xác em giờ ở phương nào. Trôi
vào đất Thái hay vào Nam Dương. Áo bà ba, Muội yêu, ḥa biển tím.
T́nh c̣n đây trời đày ta mất nhau.
Tôi không c̣n khóc được nữa, nước mắt tôi đă cạn lâu rồi. Miệng tôi
méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
“Muội ơi! Anh sẽ đem chiếc áo bà ba h́nh chữ hỉ của chúng ḿnh theo,
ra biển!”
Đoàn Xuân Thu
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi