Thầy Chín dắt chiếc xe đạp ra ngoài, cho nó đứng
dựa vào lan can trước nhà. Ông lấy ống bơm gắn trên sườn xe ra, để
bơm thêm hơi cho đầy hai bánh xe. Biết cha ḿnh chuẩn bị đi đâu đó.
Thằng Hai mon men đến gần cha, để xem và cũng để ông nhớ mà chở ḿnh
đi theo. Nh́n thằng con ngồi kế bên ḿnh, hiểu ư con, ông quay sang
con, cười cười:
- Hai! Con có muốn đi theo Ba, về thăm vườn không?
Thằng Hai chỉ chờ có thế. Nó mừng lắm, tíu tít nói với thầy Chín:
- Dạ đi! Đi, Ba!
Thầy vui vẻ bảo con:
- Con vô cho mẹ hay, rồi thay đồ đi chơi với Ba.
Thằng Hai như chỉ chờ có thế, miệng "Dạ", chân phóng chạy vào trong
nhà, oang oang cho mẹ nó biết. Nó thay lẹ cái quần "sọt" đen và áo
trắng sạch rồi chạy vụt ra ngay, đứng bên cạnh chiếc xe đạp chờ cha
ḿnh. Chưa đi mà nó đă nghe reo vui trong ḷng.
Cuối năm học, nó thường nghe người lớn hát: “Mỗi năm đến hè ḷng
man mác buồn”. Nghe sao buồn quá. Đi học suốt chín tháng, nó chỉ
chờ đến hè để khỏi phải đi học, được đi chơi đây đó vui chơi với gia
đ́nh. Nghỉ hè, khỏi đi học lại được đi chơi, vui lắm! Nó không hiểu
được tại sao nghỉ hè mà mấy anh chị lớp lớn lại than thở là buồn.
Bây giờ, đă sang tháng Bảy. Nghỉ học hơn cả tháng rồi. Mùa băi
trường, cha nó nghỉ đi dạy. Vậy mà, lâu nay chưa được đi đâu xa
chơi, nó thấy: như thế này mới là “ḷng man mát buồn”. Hôm
nay, được theo cha đi về thăm vườn, th́ c̣n ǵ bằng; nó vui lắm!
Hồi trước, khi quê nhà c̣n b́nh yên, dân làng được tự do đi lại. Mỗi
năm, đến mùa học sinh nghỉ hè, mấy anh em nó được về vườn chơi, đến
hai ba tuần mới trở lên tỉnh thành. Nói là về thăm vườn, không chỉ
để anh em nó vui chơi, mà c̣n là lúc cha mẹ nó thăm viếng, chăm sóc
mộ phần ông bà nơi đây. Sau này, khi đêm xuống, làng nhà thường bị
cái đám quân, mà bà con trong làng hay gọi xách mé là “đồ quỷ quái”
kéo về quấy phá yên b́nh, lùng giết người rất là kinh hoàng. Cứ xem,
hồi năm 1953, quân “quỷ quái” ấy xử bắn bà Năm, Nguyễn Thị Năm, ở
Làng Bưởi, Hà Nội, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long ở Hải Pḥng, th́ đủ
biết cái dă tâm và man rợ của bọn chúng.
Bà Cát Hanh Long đă từng được quân “cách mạng” phong tặng là "Mẹ
chiến sĩ", v́ bà có công đóng góp tài sản, nuôi ăn, giúp đỡ cho rất
nhiều người “cách mạng” của họ. Sau này họ thành những cán bộ cao
cấp quan trọng trong đảng cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc
Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Vơ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh
Nghị... Bà c̣n góp cả hai đứa con trai là Nguyễn Cát và Nguyễn Hanh
cho “cách mạng” và chính bà là Hội Trưởng Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt
Nam của tỉnh Thái Nguyên…
Rốt cuộc, sau khi quân “cách mạng” cướp đoạt chính quyền thành công,
cũng chính bà Năm, tức bà Cát Hanh Long, lại trở thành nạn nhân đầu
tiên bị lôi ra xử tử làm gương; theo chính sách: “Trí- phú -địa –
hào: đào tận gốc, trốc tận rễ” của nhà nước “cách mạng”. Những ai đă
từng chứng kiến hay đọc Hồi kư Đèn Cù, qua lời kể của Tiêu Lang,
phóng viên báo Cứu Quốc, tác giả Trần Đĩnh có ghi lại cuộc hành
quyết bà Năm - Cát Hanh Long, chắc hẳn không thể quên được cái chánh
sách “cải cách ruộng đất” vô cùng man rợ ấy. Man rợ từ việc bắt giết
đến cách đạp găy xác bà Năm, cho thi hài bà nằm lọt vào bên trong
quan tài.
Thế đấy, quân cách mạng đă đền ơn “bà mẹ chiến sĩ” như thế đấy!
Thế nhưng, nhà cầm quyền cộng sản vẫn chưa thỏa măn, họ kiên quyết
“đào tận gốc-trốc tận rễ”. Ông Nguyễn Hanh, con trai bà Năm, cũng là
một cán bộ cao cấp trong quân đội cộng sản, có kể lại thảm cảnh của
gia đ́nh như sau:
“Khi mẹ bị xử bắn, tôi đang cùng đơn vị ở Nam Ninh, Quảng Tây,
Trung Quốc. Người ta giấu tôi mọi tin tức từ trong nước. Hai tháng
sau, cuối tháng 6/1953 tôi được đưa về nước, bị tống ngay vào trại
giam ở Tuyên Quang v́ là con của “địa chủ gian ác”. Năm 1954 tôi mới
được nghe vợ tôi đến trại để thăm nuôi kể rơ về sự kiện bi thảm này.
Em ruột tôi là Nguyễn Cát, bí danh là Hoàng Công, cả 2 anh em tôi
đều hoạt động từ thời kỳ tiền khởi nghĩa 1944 ở vùng Đ́nh Cả, Vũ
Nhai. Hoàng Công từng là trung đoàn trưởng của sư đoàn Quân Tiên
Phong 308, cũng bị đưa vào trại cải tạo năm 1953, năm 1956 mới được
tự do khi em tôi bị đau ốm, đến năm 1989 em tôi bị chết thảm trong
một tai nạn xe máy.
Năm 1993, sau 40 năm t́m kiếm rất kiên tŕ, gia đ́nh tôi mới t́m
thấy di hài mẹ tôi cạnh một ao sen, ở bên gốc cây phượng hoa đỏ, nhờ
chiếc ṿng ngọc bám chặt cổ tay và chiếc răng vàng cũng như 2 đầu
đạn. Cúc, vợ tôi, cho biết: sở dĩ chiếc ṿng ấy c̣n v́ mẹ tôi đeo từ
hồi trẻ, nó thít chặt vào cườm tay, khi đấu tố có người đă cố rút ra
măi, nhưng không được. Di hài bà Năm, mẹ tôi, được đưa về nằm bên mộ
chồng tại làng Đại Kim, Thanh Tŕ, Hà Nội.”
Cuộc hành quyết bà Năm “Cát Hanh Long” không phải chỉ có một, mà là
khởi đầu cho biết bao chứng tích giết người man rợ, trong chính sách
cai trị đầy man rợ của cộng sản, từ Bắc vào Nam, trải dài từ “Cải
Cách Ruộng Đất”, cho đến ngày hôm nay.
Trong khi The International Museum for the Victims of Communism, tức
Viện Bảo Tàng Quốc Tế về Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản được thành
lập tại Tallinn, thủ đô của Estonia. Trước đây, Estonia từng là quốc
gia cộng sản, thuộc Liên bang Xô-Viết. Đây là viện bảo tàng toàn
diện đầu tiên trên thế giới về tội ác cộng sản. Bản chất phi nhân
tính của chế độ và ư thức hệ cộng sản c̣n phơi bày đó và sẽ không
bao giờ bị thế giới lăng quên.
Tại Việt Nam, chế độ cộng sản vẫn không thay đổi chính sách cai trị
tàn bạo, tiếp tục đối xử vô nhân đạo đối với người dân. Cái khác
biệt về tội ác của cộng sản Việt nam thời nay, là các cách tra tấn,
hành quyết nạn nhân ngày càng nham hiểm, tàn độc, tinh xảo hơn. Nhà
nước cộng sản Việt Nam dùng quyền lực che đậy chứng tích tù đày và
tra tấn. Bây giờ, người ta không c̣n lạ ǵ với các mẫu tin ngắn trên
báo về người bị bắt “tự tử” chết ngay pḥng tạm giam, tại đồn công
an.
Hôm cuối năm, anh Nguyễn Minh Sang qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy 8,
chỉ sau vài tiếng bị giam giữ trong trụ sở Công an phường 2, quận
Tân B́nh (TPHCM) là trường hợp điển h́nh liên quan đến vấn nạn người
dân chết trong đồn Công an Việt Nam năm 2018, nâng con số nạn nhân
lên 11.
Đây chỉ là những trường hợp ít oi được ghi nhận trên truyền thông mà
thôi!
Ai cũng biết, báo chí Việt Nam không được phép đăng tất cả các tin
tức bất lợi cho nhà nước. Không thể t́m được tổng hợp về con số nạn
nhân chết trong nhà tạm giam, nơi tạm giữ của công an trong những
năm qua. Thế nhưng, chỉ cần dựa theo bản báo cáo duy nhất của Bộ
Công an hồi năm 2015, con số kinh hoàng về người bị chết trong đồn
Công an đă có đến 226 người. Nguyên nhân chủ yếu của các trường hợp
tử vong này được Bộ Công an cho là do bệnh lư và do đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam tự sát.
Năm nay, mới mấy tháng đầu năm, trong các trường hợp phơi bày trên
mặt báo, đă có đến 6 người được cho là tự tử hoặc tự ngă dẫn đến tử
vong, và các vụ này phần lớn đều rơi vào trạng thái im lặng, người
nhà nạn nhân sợ hăi, tránh có ư kiến công khai trên mặt báo.Theo
luật sư Vơ An Đôn, người phụ trách cho 3 trường hợp nạn nhân chết
trong trại tạm giam, tạm giữ năm vừa qua cho biết rằng:
“Rất khó để những người bị giam có thể tự kết liễu đời ḿnh!”
Người ta muốn lấp liếm sự thật đi, ví dụ như những vụ mà tôi làm th́
trước đó cơ quan chức năng cho biết tự tử, nhưng khi báo chí vào
cuộc, dư luận ầm ầm lên th́ người ta cho biết là bị té ngả mà chết,
chứ trước đó người ta vẫn nói là nạn nhân tự tử.”
Luật sư Đôn c̣n khẳng định:
“Thực sự mà nói th́ không ai vào đó mà tự tử được hết, một cái
pḥng giam ít nhất có 2, 3 người trở lên làm sao mà tự tử được, có
ǵ đâu mà tự tử. Cho nên tôi nghĩ là không bao giờ có trường hợp tự
tử.
Bên cơ quan điều tra nếu mà công bố sự thật th́ phải khởi tố, nếu khởi tố th́ nhân viên liên hệ phải đi tù nhiều.
Người ta không có cách nào nói, nên nói tự tử
là an toàn nhất!”
Sau những tuyên bố thẳng thắn ấy, Luật sư Vơ An Đôn, thuộc Đoàn luật
sư tỉnh Phú Yên, đă bị nhà cầm quyền cộng sản tước thẻ luật sư.
* * *
“Trí - phú - địa – hào: đào tận gốc, trốc tận rễ”
Đó là khẩu hiệu sắt máu của đám quân xưng danh là “cách mạng”. Thầy
Chín biết rơ thân phận ḿnh, làm thầy giáo là đương nhiên bị đảng
kết tội vào thành phần “trí”, tức là kẻ thù số một, được xếp tận
trên cùng của bảng phân loại, th́ chắc chắn phải bị "đào tận gốc,
trốc tận rễ”. Chết là cái chắc!
Cho nên, mấy năm sau này, ban ngày, yên tỉnh, thầy Chín chỉ c̣n lén
lút đạp xe về thăm viếng mộ phần cha mẹ trong chốc lát, rồi quay về
tỉnh thành ngay.
Thằng Hai khoái được ngồi trên cái yên xe phía sau, cho thầy Chín
đạp chở đi đây đó lắm. Chuyến đi về vườn thăm mộ ông bà Nội là
chuyến đi xa xôi nhất, trong mấy tháng Hè. Được thầy Chín chở đi
chơi lâu như thế, nó chịu lắm. Rời thành phố càng xa, xe cộ càng
thưa vắng hơn. Khung cảnh hai bên đường yên b́nh, tươi vui với ruộng
đồng mênh mông, cùng các rặng cây xanh. Nắng mùa Hè như dịu mát, dễ
chịu hơn. Nét đẹp hiền ḥa đơn sơ từ ngọn lúa, lá tre xôn xao trong
gió, đến con đường ṃn khúc khuỷu bên ḍng sông quanh co êm đềm uốn
lượn.
Đồng quê mơ màng!
Qua đoạn đường tráng nhựa êm ả, đường xe chạy thu hẹp lại, chỉ c̣n
đủ cho người qua lại bằng xe hai bánh hay đi bộ. Chiếc xe đạp quanh
vào khu chợ nho nhỏ ven đường. Quá trưa, nên chợ vắng, người bán,
người mua lưa thưa. Thầy Chín dừng xe trước quán của chú Tài:
- Xuống xe đi con.
Chỉ chờ có thế, nó nhanh nhẹn tuột xuống, chạy vào quán. Như thường
lệ, thầy Chín dựng xe, lấy ghế ngồi nghỉ chân, uống nước và nói
chuyện với chú Tài. C̣n thằng Hai được ly nước mía mát lạnh, thơm
lừng hương mía tươi, vị ngọt lịm cả người.
Lúc rời quán, nó nghe chú Tài nói với thầy Chín:
- Thầy nhớ ḍm chừng, ḍm đổi, nghen Thầy!... Bây giờ, tụi nó đào
hầm hố nhiều chỗ lắm đó... Tui nghe nói: hôm qua nay, trong trỏng nó
động lắm đó, Thầy à!... Thầy coi mà hỏi thăm bà con ḿnh dọc đường
nghen thầy,... đừng có mà d́a trong trỏng đại, nghen Thầy!
Rời chợ, hai cha con theo con đường ṃn, chạy chầm chậm về thôn nhà.
Từ đây, con đường hẹp hẳn hơn. Con đường ṃn duy nhất, uốn khúc cong
quẹo, dọc sát theo bờ sông. Mặt đường lồi lơm nối với gập ghềnh.
Nhiều đoạn eo hẹp, chỗ ít nhà, nên ít người qua lại, cỏ mọc lan tràn
um tùm, chỉ c̣n trống một khoảng vừa hai bàn chân người bước đi.
Nghe lời căn dặn của chú Tài, ông đạp chầm chậm, giữ cho bánh xe
chạy trên lối đi có dấu người qua lại, tránh mấy chỗ cỏ mọc hoang
dại.
Xa xa mới có căn nhà. Chạy một lúc lâu, không thấy bóng dáng ai cả.
Đạp xe thêm một lúc, bên bờ sông có đám đông ghe xuồng chống sào,
cột dây, đậu san sát nhau. Người ta chở theo các thứ đồ đạc lủ khủ,
vật dụng lặt vặt trong nhà, có cả chó, mèo, gia cầm. Mỗi khi sóng
đùa vào nghiêng lắc ghe xuồng, mấy con gà, con vịt và cả heo, quen
sống thăng bằng trên bờ, bây giờ bị cột chen chúc trên ghe xuồng,
lúng túng lao chao, sợ hăi, kêu toáng lên inh ỏi.
- Thầy Chín!
Dừng xe, định bước đến gần bờ sông để thăm hỏi t́nh h́nh th́ thầy
nghe có người gọi ḿnh. Tiếng gọi lớn mừng rỡ, từ bên dưới sông vọng
lên. Thầy Chín chống chân, giữ chiếc xe đạp thăng bằng, ngó xuống
đám ghe xuồng, t́m xem ai gọi ḿnh.
- Thầy Chín ơi!... Tui đây nè!
- Thầy Chín!
- Đi đâu đó Thầy?!
Người đàn ông đứng trên mũi chiếc ghe bên ngoài cùng, vẫy tay gọi
lớn. Thêm mấy người quen trong làng nghe vậy, cũng vui mừng lên
tiếng, vồn vă thăm hỏi.
- Chào hết bà con ḿnh! Anh Một đó hả?...
- Th́ Một đây!... chờ tui lội lên nói chuyện chút đă đi, Thầy ơi!
Thầy Chín trông vui lắm khi nhận ra nhiều người quen biết, gọi tên
thăm hỏi qua lại, rồi quay ra sau bảo con:
- Con xuống xe, chờ Ba nói chuyện với bác Một một chút nghen.
Nước ṛng cạn, ghe cột xa bên dưới sông. Người đàn ông lom khom bước
chuyền qua mấy chiếc ghe, chiếc xuồng kế bên để lần đi vào gần bờ
hơn, rồi hối hả chạy trên thân cây dừa thả nằm dài từ bờ xuống nước
làm cây cầu.
Thằng Hai theo thầy Chín bước tới đầu cây cầu dừa để đón bác Một.
- Anh Một khoẻ hả?
- Th́ cũng "dậy", qua ngày, Thầy ơi!... Bộ Thầy tính d́a thăm mộ ông
bà hả?
- Dà, th́ cũng cả năm rồi anh,... Hai, thưa bác Một đi con!
- Dạ chào bác Một!
- Ờ,... con trai, coi lớn đại rồi!... bác nói chuyện với Ba con chút
nghen!
Bác Một cười vui vẻ đáp lời thằng Hai rồi quay sang thầy Chín:
- May mà tui gặp Thầy ở đây!...
Thầy Chín lo lắng:
- Bà con ḿnh chạy giặc nữa, hả anh?
- Th́ đó! Chạy giặc đó Thầy! Từ chiều tối hôm qua lận... tui với bà
con ḿnh trốn ra ngoài này, gần chợ, gần đồn lính ḿnh cho yên
thân….Tui nói cho thầy nghe: Thầy đừng có d́a trỏng mần chi!... Khúc
dưới, tụi quỷ ôn nó đào hố đầy hết!... chông, ḿn, lựu đạn tùm lum
á!... Tụi quỷ nó tràn lang trong trỏng, đầy hết cả làng ḿnh rồi
thầy Chín ơi!... Thầy chạy d́a ngoài ngoăi đi!
Bác Một nói một lúc dài. Thằng Hai thấy cha ḿnh đứng nghe mà tần
ngần, buồn hiu, không nói câu nào hết.
Bác Một vỗ vai thầy Chín, thở dài:
- Thôi!... tui xuống ghe coi cái nồi cháo đang nấu,... nghe tui!...
d́a đi Thầy!
Thầy Chín gật đầu:
- Cám ơn anh Một… cho tôi gởi lời thăm chào hết bà con ḿnh dưới
bến,nghen anh!
- Rồi!... tui nói lại cho mà, d́a đi Thầy!... Ráng học cho giỏi
nghen cháu!
Bác Một cúi xuống ân cần xoa đầu thằng Hai, rồi chạy xuống cây cầu
dừa.
Thằng Hai nghe người lớn nói chuyện về bọn quỷ quái, nó không hiểu
hết ngọn ngành, nhưng biết là lần này, ḿnh chỉ đi được đến đây
thôi.
Hướng xuống bờ sông, thầy Chín quơ quơ tay, chào chung bà con bên
dưới, rồi quay đầu chiếc xe đạp trở về phía ngoài chợ.
Chờ thằng Hai leo lên yên xe ngồi xong, thầy Chín đạp xe chạy đi.
Hồi đi vui bao nhiêu, bây giờ quay về buồn bấy nhiêu. Buồn c̣n hơn
thế!
Thầy Chín yên lặng đạp xe. Thằng Hai cũng không c̣n thấy ǵ vui.
Nh́n cha ḿnh đạp xe về, mặt trông buồn quá, nó không dám nói hay
hỏi han chi thêm.
* * *
Cũng từ mùa nghỉ hè năm ấy, thôn xóm từ đấy ch́m đắm trong đêm đen
của loài quỷ quái. Thầy Chín không c̣n đạp xe chở nó về thăm vườn
làng!
Và cũng từ khi miền Nam bị chế độ cộng sản cưởng chiếm, thằng Hai
biết xót đau tận cùng khi mất cả quê hương!
Nay quá xa xăm đường về thăm thẳm!
Miền Nam, Việt Nam, vẫn c̣n trong chế độ cai trị của cộng sản. Tuy
vậy, người ta có nhiều lư do để quay về nơi đă trốn chạy, trở lại
nơi ḿnh đă t́m mọi cách để ra đi. Bây giờ, người đi về không c̣n
lén lút e dè. Chuyện đi, chuyện về, người ta thản nhiên kể nhau
nghe, nói cười hể hả. Có người t́m được niềm vui thích cùng các cái
thỏa măn. Có người ngỡ ngàng, xót xa, như tâm t́nh của Lê Tín Hương
qua lời nhạc “Con Đường Tôi Về”:
“Khi tôi về, t́nh quê hương ngạt ngào
Khi tôi về, ḷng yêu thương dạt dào
Kỷ niệm xưa năm nào, đầy vơi trong tim đau!
Khi tôi về, nh́n dân tôi ngỡ ngàng
Khi tôi về, nh́n quê hương điêu tàn
Nh́n tuổi thơ nghèo nàn, nuôi đời trong dối gian!
Con đường tôi về, c̣n đó như xưa
Nhưng người năm cũ, là xác chưa đưa
Cha về tử tù, đau thương hao ṃn
Mẹ quê gầy c̣m, mong manh áo vá
Vá được áo đời, hồn rách tả tơi! ”
Không phải chỉ có người đi xa mới biết thấm thía nỗi niềm đau xót
của kẻ thiếu quê hương. Ngay cả những người sống trên đất nước Việt
Nam vẫn thiếu vắng quê hương. Một quê hương Việt Nam không chỉ với
núi đồi, sông biển c̣n sót lại, có ruộng vườn, cây trái, có chùm kế
ngọt của chế độ cai trị ban bố cho. Người dân Việt mong t́m một quê
hương có khối óc nhận thức tự do, có bầu nhiệt huyết dân chủ, có tâm
hồn nhân bản.
Dân số Hong Kong chỉ có 7.5 triệu. Hôm 16/6, có đến 2 triệu người,
hầu hết là tuổi trẻ; họ đă tạo thành những ḍng biển người áo màu
đen, “Sea of Black”, với các biểu ngữ trên tay “Free Hong Kong”
“Democracy Now”, chống lại Trung cộng. Ḷng can đảm phi thường tuổi
trẻ Hong Kong đă làm cả thế giới ngạc nhiên và thán phục!
Tuổi trẻ Việt Nam, tuổi trẻ miền Nam, đă từng hiên ngang chiến đấu
và hy sinh cho Tự Do và Dân Chủ. Dước chế độ cai trị của cộng sản,
đất biển Việt Nam đă và đang bị hiến dâng dần cho quan thầy Trung
cộng. Quốc nạn Bắc thuộc đă là hiện thực! Hôm nay, Việt Nam có đến
97.5 triệu người!
...
Tôi mơ một ngày!
Đêm tàn, ngày rạng,
Rực nắng ban mai.
Con đường tôi về,
Có hàng phượng đỏ,
Mùa hè thắm tươi,
Áo trắng học tṛ,
Chân bước tự do!
Bùi Đức Tính
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
Remember!
Cánh chim non
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tướng giữ thành
Những tử sĩ không cần ai gọn hồn
Viết về những anh hùng trong tù cải tạo
Tuyển tập tháng Tư đen
Quốc Hận và tội ác CS
I’ll be home for Christmas
Kư ức về Hoàng Sa và HQ10
Vợ hiền
Dạy con
Lễ hội sinh
nhật
Chọn lựa
BS Đặng
Tuấn Long
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam
Bài ca
kinh hoà binh
Môt thoáng ngậm ngùi
Đường về
không xa
Năm
mươi hai năm hội ngộ
Người tù chung thân vượt ngục
Vá đường
Chăn gà
Một người
làm quan
Tôi xin đưa em đến hết cuộc đời
Thuyền đi đâu, về đâu?
Chiếc đàn piano màu gụ đỏ
Hữu tâm, vô tâm
Mẹ
cài cho con đóa hồng
Những mùa Trung Thu
Thầy Trân
Tháng Tư
nhớ bạn
Trại Thanh Cẩm và gịng sông Mă
Trái
tim Bồ Tát
Người Hạ Sĩ
Nhứt
Lá thư
t́nh trong cặp
Người
pháo binh già...
Thức
trắng đêm nay!
Mặt trận
Xuân Lộc - Sư Đoàn 18 BB - Tuyến thép
Mừng Phật Đản, chúng con ca vui đón chào
Làm việc cho
Tín Nghĩa Ngân Hàng 1970-1973
Người chiến sĩ không quân phục
Tôi cưới vợ
Buổi họp mặt vui vẻ
Cơi bụi hồng
Chiều
buồn biên giới
Mùa đi tù!
Nếu
có thể đi về quá khứ, tôi sẽ thăm đất nước
tôi
Người Mẹ thời chiến
Má tui
Các phi vụ nhớ đời - 44 năm nh́n lại
Người nữ tu trong cô nhi viện Pleiku
C̣n
thương rau đắng …
Ngày lễ Mẹ
Tâm thư người bạn trẻ 9X về ngày 30/4
Yểm Trợ Hạm Cần Thơ HQ 801: Không bỏ anh em
Mai vàng nở muộn
Người về có nhớ thương binh?
Từ những trang thơ
Tự tử
đi anh em! Tao không đầu hàng!
Chuyện
trên QL 20
Phóng sự cộng đồng hậu duệ VNCH
Mùa
xuân xứ người, mùa quốc nạn xứ ta
Tôi viết cho anh hùng Lư Tống
Bỗng
dưng anh tới
Để nhớ một
thời...
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Trong
nỗi khốn cùng
Giờ
phút cuối cùng
Quảng Trị đất đợi về
Phụng Dực, trận đánh để đời
Buổi họp mặt vui vẻ
Trạm cuối
cuộc đời
Nhớ nhà
Khép lại
núi rừng
Dưới bóng mát của lá cờ "Ba Que"
Nhức nhối
con tim
Trái tim cao cả
Hạt tình
hồi sinh
Hai con khỉ già
T́m chốn
thanh b́nh
Đêm xuân Đà-Lạt
Chuyện hai người phi công VNCH và Bắc Việt
Đại gia ở Mỹ
Chỉ c̣n nỗi
nhớ
T́nh huynh đệ trong một thời binh lửa
Tàn một
cuôc chơi
Sự ra
đời của bài hát "Thuyền Viễn Xứ"
Việt cộng: Ngụy, Ác
và Hèn Hạ!
Phi vụ "Ong
Chúa" 14-4653 cuối cùng
Một cái Tết khó quên
Tr/Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân
như thế nào?
Vơ Ân và tôi
Người thiếu phụ ôm cốt chồng ...
Cựu DB
Lý Quý Chung, một người khách đặc biệt
Hạnh Phúc…
Rơi
Bông Mồng Gà
Rồi
người lính có về không?
Tạ ơn Thiên Chúa !
Tuổi mực tím trong thời ly loạn
Sao mà mít
ướt!
Những chuyện ngày xưa
Chân dung
người lính VNCH
Con chuột
Cuối nẻo đường đời
Ngậm đắng nuốt cay
Những muà xuân năm
cũ
Ơn đời chứa
chan
Câu truyện t́nh trong quân ngũ
Trong
lâu đài kỷ niệm
Người nữ tù và giải Nobel
Đùa của tạo
hoá
T́nh anh em
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Hy sinh và mờ nhạt
Âm nhạc miền Nam và
những ngày xưa thân ái
Mẹ Nấm và các bà mẹ Việt Nam
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Con c̣n
nợ ba
Cái bằng... lái xế !
Một Trung đội Trưởng Nghĩa Quân
Vài kỷ niệm với thầy Nguyễn Văn Trường
Con búp bê
của mẹ
Sự
c̣n mất của một người em
30 Tháng 4 và tiếng chó sủa đêm phía sau nhà
Ngụy
Tháng Tư
ngậm ngùi
Người khôn "Đi học" - thằng ngu dại đời
Giờ phút cuối cùng của một đơn vị QLVNCH tại
Sài G̣n
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Cha Tôi, chết không cần quan tài
Cô
Giáo Ngụy Người Huế
30 tháng Tư: chuyện quên, chuyện nhớ
40 năm (1978-2018) nhớ lại chuyến vưọt
biển...
Huế, tôi và
Mậu Thân
Hương
1
đồng giấy, 7 đồng phở
Vui buồn với UH1
H́nh-tượng người LÍNH qua ḍng nhạc Việt
Khoe chữ
Chiếc áo bà ba In h́nh chữ Hỷ
Chiện khó tin mà có thiệt....
Truyện hai h́nh ảnh một đời người
Có đêm nào buồn bằng Đêm Ba mươi
Nén hương
ḷng
cho một người vừa đền xong nợ nước
Tiễn đưa nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Tiếng ngáy làm tôi yên tâm
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Quê
hương của tôi
Chim trời
bạt gió
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Nó và biến thiên cuộc đời
Có những
mùa xuân
Chuyện người tóc bạc sớm
Trang nhà Hà Mỹ Nhan
Các
ngày tết ở VN trong năm
Nói
chuyện về con chó nhân năm Mậu Tuất
Những người lính Dù bị lăng quên
Gói
trọn mảnh t́nh quê vào đ̣n bánh tét....
Người đưa thư
Danh Tướng Ngô Quang Trưởng và Tôi