Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Phạm Tín An Ninh
Đă kết thúc đúng 45 năm, nhưng cái bóng của cuộc chiến ấy dường như
vẫn luôn bám theo đằng sau, nhiều lúc muốn chụp phủ lấy tôi như bóng
ma, một thứ “bóng đè”, làm tôi muốn ngộp thở.
Từ giă học đường, tôi vào lính khi c̣n rất trẻ. Cũng không hẳn v́
thích đời binh nghiệp, nhưng ư thức trách nhiệm làm trai trong lúc
đất nước đang trong khói lửa chiến tranh, nh́n quanh bạn bè thân
quen đều lần lượt nhập ngũ, và gần như con đường nào rồi cuối cùng
cũng dẫn tới một quân trường, nên đúng như lời một bài hát cũ, “năm
21 tuổi tôi đi vào quân đội mà ḷng chưa hề yêu ai”.
Ra trường, được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động. Trải qua
nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng phải là một cấp chỉ huy tài ba đảm
lược, những chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương của anh em binh
sĩ. Không nhớ tôi đă hướng dẫn họ được những ǵ, nhưng chắc chắn tôi
đă học được ở họ sự trung thành, ḷng can đảm và nhiều kinh nghiệm
chiến trường. Trong hơn mười năm chiến trận, tôi từng được thăng cấp
đặc cách ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng tưởng thưởng.
Nhiều lúc trầm tư, tôi phân vân không hiểu đó có phải thực sự là
công trạng của ḿnh, khi h́nh dung đến khá nhiều khuôn mặt đồng đội
dưới quyền đă hy sinh, trong lúc ḿnh vẫn đang c̣n sống? Tôi không
bao giờ quên được những ánh mắt của họ đă nh́n tôi trước khi trút
hơi thở cuối cùng. Không biết họ muốn trăng trối, gởi gấm hay oán
trách điều ǵ. Tôi thường giành phần để được vuốt mắt họ khi t́nh
h́nh có thể, như muốn thay một lời tạ lỗi, ít nhất là đă không bảo
vệ được họ. Lời người xưa bao giờ cũng đúng “Nhất tướng công thành
vạn cốt khô”. Tôi không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm tướng bao
giờ, nhưng dù chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, tôi cũng đă mắc nợ khá
nhiều xương máu của đồng đội anh em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ
c̣n trả được.
Phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh b́nh thường, nhưng chúng tôi chưa
hề một lần bại trận. Ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất,
với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, chúng
tôi vẫn chiến thắng vẻ vang, như trận phản phục kích trên QL-20 gần
Di Linh (Lâm Đồng), trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Phan Thiết,
trận phản công tiêu diệt một lực lượng biển người của địch tại
Bu-Prang (Quảng Đức) và đặc biệt nhất là trận chiến Kontum mùa Hè
1972. Vậy mà cuối cùng chúng tôi bỗng dưng trở thành những người bại
trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có găy súng, buông súng hay
không, chúng tôi cũng thuộc về phía “đầu hàng” theo lệnh của ông
tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau
này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời
dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng
sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần”. Có người lại bảo ông
giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng
có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm
máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay
đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là một thằng lính năm tháng ở trong rừng núi,
ngộp thở với bao nhiêu thứ lệnh lạc trên chiến trường, tôi không
biết ǵ về chính trị, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong
những ngày cuối cùng tại thủ đô Sài g̣n, nhưng tôi cảm thấy “nhục!”
Trong chiến tranh, thắng bại dù sao
cũng là lẽ thường t́nh. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đă đầu
hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đă
phải đầu hàng quân đội Đồng Minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do
Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đă hành
xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô
cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn
lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn
quá. Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua
một kẻ địch không đáng để thua. Và một chế độ tự do nhân bản, văn
minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc
hậu. (Có lẽ trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa từng có những
người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần
đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội Dương Thu
Hương và có thể c̣n nhiều người khác nữa– bởi nhận ra ḿnh bị lừa
dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một đất nước
tự do, văn minh, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần xứ sở của ḿnh.)
Điều đau ḷng và đáng tủi nhục hơn là thua quá nhanh. Hai cuộc triệt
thoái sai lầm tệ hại, từ Pleiku theo Tỉnh Lộ 7B của Quân Đoàn II và
từ bờ biển Thuận An của Quân Đoàn I, dự trù theo đường biển, đă thất
bại quá nặng nề bi thảm, không những làm mất hai quân đoàn ở những
tuyến đầu cùng cả một sư đoàn tổng trừ bị tinh nhuệ, mà quan trọng
hơn, làm mất tinh thần và niềm tin chiến đấu cho quân, dân cả nước.
Điều đau đớn và tội nghiệp nhất của người lính chiến là khi họ không
c̣n niềm tin vào cấp chỉ huy, lănh đạo của ḿnh. Đánh giặc mà không
có hậu phương, không c̣n được tiếp tế, không có viện binh, có nơi
không có cả cấp chỉ huy, và nhất là không biết cắt bỏ đất đến đâu,
th́ trận đánh đó trở thành bi thảm, niềm tin chiến thắng trở nên rất
mong manh, vô vọng, người lính nếu c̣n chiến đấu chỉ v́ t́nh đồng
đội và tự vệ cho sự sống c̣n của chính cá nhân ḿnh.
Mặc dù ghi được hai điểm son cuối cùng trong quân sử (– Tại Ban Mê
Thuột, chỉ một tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung Đoàn 53 được tăng cường
hai Trung Đội PB 105 ly và một Đại Đội Trinh Sát, dưới sự chỉ huy
của Trung Tá Vơ Ân, quyết tử thủ tại căn cứ B50 bên phi trường Phụng
Dực, đă dũng cảm chống trả một lực lượng hùng hậu của địch, với quân
số gấp 5, 7 lần cùng nhiều chiến xa T-54, bao vây đúng một tuần sau
khi cả thành phố Ban Mê Thuột đă thất thủ, tiêu diệt nhiều đơn vị,
chiến xa địch, cho đến khi cạn đạn dược, phải mở đường máu thoát ra
– và tuyến thép Long Khánh của Tướng Lê Minh Đảo đă cầm chân cả hơn
một quân đoàn Cộng sản gần hai tuần lễ, gây tổn thất nặng nề cho
địch, làm ngỡ ngàng cả thế giới, nhất là Ṭa Bạch Ốc); nhưng cũng
chỉ đúng 50 ngày, kể từ khi mất Ban Mê Thuột, một quân lực hùng mạnh
gần như tan ră, và cả miền Nam mất vào tay giặc!
Ngoại trừ phần lớn lực lượng Hải Quân và Lữ Đoàn I Nhảy Dù có phương
tiện ra đi theo kế hoạch, một số thuộc các đơn vị Không Quân, và
từng nhóm hoặc cá nhân mang theo gia đ́nh tự vượt thoát bằng các
loại phi cơ, ghe tàu kiếm được, hầu hết c̣n lại phải vào tù, từ
những tướng lănh đến sĩ quan mới ra trường, có cả một số hạ sĩ quan
giữ những chức vụ liên quan tới an ninh, t́nh báo. Một số không nhỏ
đă bị “bên thắng cuộc” tàn sát dă man tại địa phương, ngay sau khi
cướp lấy chính quyền. Đặc biệt đáng kính phục, một số tướng lănh
cùng nhiều cấp chỉ huy và binh sĩ khí phách đă tự sát vào giờ thứ 25
để giữ tṛn tiết tháo. Cả một miền Nam thua trận đă nhanh chóng trở
thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Tiền bạc (có được từ mồ
hôi nước mắt và có khi bằng xương máu) bỗng chốc không c̣n giá trị,
nhà cửa, tài sản bị cướp sạch dưới danh nghĩa tịch thu, rất nhiều
gia đ́nh từ ông bà già đến những đứa con nít sơ sinh bị xua đuổi,
cưỡng bách đi đến những nơi rừng thiêng nước độc. Người dân có cảm
giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương ḿnh. Tương lai chỉ
c̣n là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ c̣n biết nh́n ra
biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia
chân trời mịt mờ vô định. Và c̣n ǵ đau đớn hơn khi con người nghĩ
tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng!
Hơn tám năm bị đày ải qua nhiều trại tù Nam-Bắc, ngày trở về tôi
không c̣n được nh́n lại mặt cha ḿnh. Ông đă chết sau gần một năm bị
bắt vào một trại tù khác trong Nam khi tuổi sắp 70. May mắn là tôi
c̣n người vợ chung t́nh cùng tôi qua bao cuộc biển dâu, bươn chải
nuôi đàn con dại, cho dù bữa no bữa đói.
Nh́n thấy vợ con đói khổ, tả tơi, ḿnh chẳng có thể giúp được điều
ǵ, mà c̣n tạo thêm gánh nặng, cuối cùng, chỉ c̣n cách duy nhất –
đem hết sinh mạng cả nhà để đánh một canh bạc cuối cùng – vượt biển.
***
Tôi đến trại tị nạn khi phong trào kháng chiến, phục quốc đang trong
thời kỳ đỉnh điểm. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam
do vị tướng Hải Quân Hoàng Cơ Minh lănh đạo, nghe nói có căn cứ,
chiến khu ở đâu đó trên đất Thái Lan gần biên giới Lào-Việt. Có cả
tờ báo và đài phát thanh Kháng Chiến. Tôi cùng rất nhiều anh em nức
ḷng hăng hái tuyên thệ để được trở thành đoàn viên. Đứng trước bàn
thờ tổ quốc, đưa tay lên chào lá quốc kỳ, hô mấy lời thề mà trong
trái tim bừng lên khí thế và nước mắt rưng rưng cảm động. Nhiều
người sẵn sàng trở về chiến đấu. Riêng tôi c̣n tin tưởng và phấn
chấn hơn khi được xem cuốn phim quay trong “chiến khu quốc nội”,
nhận ra người bạn học đồng hương thân thiết, một sĩ quan TQLC, là
kháng chiến quân cầm súng đứng bên cạnh Trung Tá Lê Hồng (bấy giờ
được gọi là Thiếu Tướng Đặng Quốc Hiền), dưới lá cờ vàng phất phới
tung bay giữa núi rừng biên giới.
(Tr/Tá Lê Hồng trong chiến khu)
(Trung Tá Lê Hồng là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong binh chủng Nhảy
Dù, mà tôi từng biết danh và kính phục. Ông xuất thân từ người lính
binh nh́ và hầu hết những cấp bậc đều được vinh thăng tại mặt trận.
Sau trận chiến Long Khánh lẫy lừng, cùng sát cánh với SĐ 18 của
Tướng Đảo, ngăn chặn hằng cả quân đoàn Bắc Việt có nhiều chiến xa,
trên đường tiến chiếm Sài g̣n, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù di chuyển về G̣
Công, t́m đường để về Vùng 4 chiến đấu cùng Tướng Nguyễn Khoa Nam,
nhưng đă quá muộn, không c̣n thời gian và cơ hội nữa. Với chức vụ Lữ
Đoàn Phó LĐ1/ND, Trung Tá Lê Hồng đă thừa lệnh vị Lữ Đoàn Trưởng t́m
mua ghe thuyền đưa toàn quân ra biển. Và đó là đơn vị Lục quân tác
chiến duy nhất đă di tản toàn bộ đến Hoa Kỳ.)
Nhưng chỉ vài tuần, sau ngày “Đại Hội Chính Nghĩa” của Mặt Trận tổ
chức rầm rộ tại Washington DC-Hoa Kỳ th́ chúng tôi dồn dập nhận được
bao nhiêu tin tức không vui. Một số lớn cán bộ chủ chốt và đoàn viên
tách ra, chia làm hai ba nhóm, lên án tố cáo lẫn nhau, lộ ra nhiều
điều không thật. Chúng tôi ở tít mù xa nên chỉ biết tạm thời “án
binh bất động.” để giữ t́nh anh em, chiến hữu. Chưa kịp phản ứng ǵ
th́ nghe tin vị Tướng lănh đạo cùng nhiều cán bộ, kháng chiến quân
đă hy sinh tại Nam Lào. H́nh ảnh và tin tức có đầy trên báo chí,
truyền h́nh Cộng sản. Lực lượng “quốc nội” xem như tan ră. Thằng bạn
tôi có tên trong danh sách “bị giết”, Trung Tá Lê Hồng cũng không
c̣n (sau này nghe nói ông chết trong chiến khu v́ trọng bệnh). Như
một quả bóng căng đầy bị x́ hơi, chúng tôi chẳng c̣n ǵ để hy vọng.
Tôi đau đớn rời khỏi tổ chức mà ḿnh đă hết ḷng góp công gầy dựng.
Nỗi buồn lại tăng lên gấp bội, khi những người chết, dù ǵ họ cũng
đă hy sinh v́ Tổ quốc, lại không hề được chính thức công bố, truy
điệu, vinh danh. Tôi ra phía sau nhà, đứng một ḿnh trong bóng đêm,
đốt ba nén hương hướng về phương Đông để tưởng nhớ thằng bạn cũ mà
trong ḷng ngậm ngùi đau đớn. Sau này tôi có dịp liên lạc được với
vợ con nó, sống rất nghèo khổ ở Việt nam, ngay quê vợ tôi. Ông bà
nhạc tôi từng cưu mang đứa con trai lớn của nó một thời gian, lo cho
việc ăn ở, học hành.
Những năm đầu định cư, sống trên vùng Bắc Âu băng giá, tôi càng lạnh
lẽo hơn khi biết tin người anh hùng Trần Văn Bá, Chủ tịch Tổng Hội
Sinh Viên Việt Nam ở Pháp cùng các ông Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và
một số thành viên trong Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước
Giải phóng Việt Nam bị bắt khi xâm nhập vào bờ biển Cà Mau. Sau đó
anh Bá đă bị CS xử bắn cùng nhiều người khác. Trên bàn thờ nhà tôi,
có thêm tấm di ảnh của anh. Anh rất xứng đáng để được vinh danh như
một vị anh hùng.
(anh hùng Trần Văn Bá)
Một tổ chức khác, Liên Minh Quang Phục Việt Nam của ông Vơ Đại Tôn,
một cựu sĩ quan cao cấp, từ Úc Châu, gạt lệ từ giă vợ trẻ con thơ
t́m đường về phục quốc. Tôi hoàn toàn không biết ǵ về sách lược hay
kế hoạch của ông cho đến khi nghe tin ông bị bắt. (Sau này bất ngờ
được xem cuốn phim quay cảnh ông bị cộng sản đưa ra một cuộc họp báo
quốc tế tại Hà Nội ngày 13.7.1982. Cuốn phim do phóng viên Neil
Davis của NBC News cùng kư giả Mori của đài truyền h́nh NHK/ Nhật
Bản, thực hiện và may mắn được mang ra khỏi Việt Nam để tŕnh chiếu
trên đài truyền h́nh Tokyo, Nhật Bản. Chắc chắn bọn cầm quyền Hà Nội
đă áp lực để bắt ông phải nói theo sự dàn dựng của chúng, nhưng ông
đă khôn khéo lừa dụ địch, tương kế tựu kế, nhằm đưa được tiếng nói
của ḿnh ra bên ngoài thế giới. Trước nhiều phóng viên của các nước
cộng sản và thế giới tự do, với nét mặt đanh thép và giọng nói dơng
dạc, hùng hồn ông tuyên bố (nguyên văn): “Tổ chức của tôi có cơ sở
tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc. Trong một mục đích của tổ
chức, chúng tôi có kế hoạch dự trù xâm nhập trở về Việt Nam để t́m
hiểu t́nh h́nh và từ đó sẽ đặt kế hoạch cho tương lai. V́ lẽ đó, tôi
sẽ không phản bội bất cứ ai đă giúp đỡ, ủng hộ tôi. Tôi tiếp tục lập
trường chính trị của tôi để tranh đấu cho tự do và giải phóng dân
tộc. Tôi đă sẵn sàng nhận bất cứ bản án nào mà chế độ Công sản dành
cho tôi”
Cả hội trường im bặt, các phóng viên quốc tế sửng sốt, đám cán bộ
cộng sản nh́n nhau ngơ ngác. Cuộc họp báo buộc phải dừng lại bởi xem
như bất thành với ư đồ của đám người tổ chức (thuộc Bộ Thông Tin Văn
Hóa CS).
Niềm hạnh phúc vỡ ̣a trong trái tim tôi, hănh diện về một vị đàn anh
khí phách, nhưng sau đó lo lắng cho số phận của ông.
(ông Vơ Đại Tôn trong buổi họp báo của CS tại Hà Nội)
Sau mười năm bị hành hạ kiên giam trong ngục tối, nhờ sự can thiệp
của chính giới quốc tế và Úc Châu, ngày 11.12.1991, ông được trở về
Úc với thân xác gầy g̣ c̣n hằn những vết đ̣n thù. Nhiều báo chí trên
thế giới và hầu hết cộng đồng người Việt khắp nơi ca ngợi ông như
một anh hùng, nhưng rồi cũng có ít người chê trách, kể cả miệt thị
ông. Một lần nữa, tôi có cảm giác cay đắng, ngậm ngùi. Dù ǵ, ḷng
can đảm, tính khí khái và sư hy sinh lớn lao của ông cũng đă quá đủ
để làm tôi kính phục. Xưa nay mấy ai đem chuyện thành bại mà luận
anh hùng. Và với tôi, ông xứng đáng là một anh hùng.
Rồi tất cả cũng từ từ đi vào quên lăng. Chuyện kháng chiến, phục
quốc lắng xuống, nhưng mầm móng chia rẽ, nghi kỵ bắt đầu. Niềm tin
mất dần, và dường như ḷng một số đông người Việt tị nạn cũng dần dà
chán chường, nguội lạnh.
***
Vừa bỏ lại đằng sau gần mười năm khốn cùng tăm tối, lại vừa thoát
chết trên biển Đông, giờ mới bước lên bến bờ tự do th́ gặp bao nhiêu
điều hụt hẫng đau ḷng, tôi không c̣n muốn nh́n lại vùng bóng tối
phía sau lưng bằng cách dồn hết nỗ lực ḥa nhập vào quê hương mới.
Đời sống ở vùng Bắc Âu thật an b́nh, dân t́nh hiền ḥa, đất nước thơ
mộng với rừng núi, sông hồ quanh năm tĩnh mịch, như là những liều
thuốc nhiệm mầu tưởng chừng có thể chữa lành được những vết thương
c̣n lại trong ḷng ḿnh.
Tám năm sau, nhân dịp đưa ba cô gái sang Mỹ học, tôi có dịp gặp lại
một số đồng đội và bạn cùng tù cũ. Thời gian này, đă có nhiều đợt
cựu tù “cải tạo” đến Mỹ theo diện HO. Rất vui và cảm động qua bao
cuộc trùng phùng. Một chiều cuối tuần, chúng tôi theo anh bạn, trước
kia là tiểu đoàn trưởng, đến tham dự buổi họp mặt binh chủng của
anh, một binh chủng từng vang tiếng một thời, được tổ chức tại một
nhà hàng lớn trong khu Little Saigon. Rất đông đảo người tham dự.
Sau gần hai mươi năm tôi mới thấy lại nhiều anh em mặc quân phục, có
vài người mang cả cấp bậc, và lần đầu tiên ở hải ngoại, chứng kiến
một nghi lễ rước quốc, quân kỳ và chào cờ, với đầy đủ súng ống, có
cả tiếng kèn đồng thổi bài truy điệu, tôi đă xúc động, nước mắt tuôn
trào. Sau khi vị trưởng ban tổ chức giới thiệu thành phần ban chấp
hành và đọc qua tiểu sử cùng những chiến công hào hùng của binh
chủng, một vị tướng đại diện cho binh chủng được trịnh trọng mời lên
sân khấu để “có đôi lời” cùng anh em đồng đội. Mái đầu đă bạc, nhưng
phong cách của ông vẫn uy nghi, lời nói dơng dạc, lẫn chút xúc động
khi nhắc đến những “thằng em” c̣n nằm lại ở chiến trường, hay đă
chết trong tù ngục. Không khí như trầm xuống. Nước mắt tôi lại trào
ra. Sau đó, tiếng nhạc nổi lên và cả chương tŕnh dài c̣n lại dành
cho văn nghệ, dạ vũ. Sự đổi “tông” ấy đă làm tôi hụt hẫng, tiếc
nuối. Như một giấc mơ đẹp đẽ bỗng biến mất bởi những h́nh ảnh và âm
vang đưa tôi trở về thực tế. Giá mà tôi rời khỏi hội trường sớm, sau
phần nói chuyện của ông tướng th́ hay biết bao nhiêu. Chắc tôi c̣n
giữ được trong ḷng nhiều hơi ấm cùng chút niềm kiêu hănh hiếm hoi.
Thời gian sau này, sau khi về hưu, tôi sang Mỹ sống nhiều hơn, đă
làm quen với các sinh hoạt ở đây, dần dà rồi cũng thấy b́nh thường
trước bao điều nhân t́nh thế thái. Nhưng tôi vẫn thấy nao ḷng, khi
chứng kiến những đồng đội của ḿnh ngày một già thêm và bộ quân phục
trên người không c̣n tạo cho họ cái oai phong, đẹp đẽ của ngày xưa,
cái thời mà hầu như bản nhạc nào của miền Nam cũng nhắc đến và ca
ngợi họ như những người hùng lư tưởng của các cô nữ sinh Gia Long,
Trưng Vương, Bùi Thị Xuân, Đồng Khánh, các cô sinh viên Văn Khoa,
Luật Khoa trên những con đường t́nh có lá me bay, cây dài bóng mát…,
hay h́nh ảnh đẹp đẽ oai phong trong các cuộc diễn binh vào những
Ngày Quân Lực năm nào, giờ thỉnh thoảng vẫn c̣n được nh́n thấy lại
trên các video.
Một hôm, tôi lặng người khi thấy trong cuộc diễn hành Tết trên đường
phố Bolsa, có mấy ông bà mặc quân phục mang cả lon tướng, tá của
nhiều quân chủng, mà tôi chưa hề nghe danh, biết mặt, bởi trông họ
quê mùa, kệch cỡm, mang phù hiệu, giây biểu chương c̣n không đúng
cách. Th́ ra một đám tướng tá phường tuồng của một nhóm bệnh hoạn tự
phong nào đó. Tôi giận đến phải buông ra mấy tiếng chửi thề và trách
cứ ban tổ chức sao có thể để cho họ mạo nhận, diễn tṛ lố lăng như
thế? Chẳng lẽ cái quân đội của chúng tôi từng có biết bao máu đào
của hàng hàng lớp lớp chiến binh đổ xuống tô thắm màu cờ, giờ bị
“xuống cấp” đến mức này sao? Từ đó, tôi không c̣n muốn có mặt trong
các buổi họp mặt, diễn hành khi có những người mặc quân phục, mang
lon lá một cách ô hợp, lố lăng như thế. Tôi không muốn phải đau
ḷng. Chính những h́nh ảnh tệ hại này đă nhắc nhớ, ám ảnh để tôi
nhận ra ḿnh là người lính trong đội quân thất trận, điều mà lúc nào
tôi cũng muốn quên đi.
Cũng ở Mỹ, đặc biệt Tiểu Bang California, nơi từng được mệnh danh
“thủ đô người Việt tị nạn” và “thành tŕ chống Cộng”, tôi đă phải
chứng kiến bao điều thị phi, chia rẽ, nghe những lời miệt thị giữa
những người từng một thời là huynh đệ, đồng môn, đồng đội, đă từng
quỳ xuống trên cùng một vũ đ́nh trường đưa tay lên “xin thề” trong
ngày lễ ra trường, và cùng sống chết bên nhau trên những chiến
trường ngập đầy lửa đạn. Gần như cộng đồng, tập thể nào cũng chia ba
xẻ bảy. C̣n sức mạnh nào để đối phó với kẻ thù xảo quyệt, gian trá,
bạo tàn, khi thế hệ chúng tôi tuổi đă già, sức đă kiệt, và sẽ để lại
được những hoài băo ǵ cho con cháu mai sau?
Mảnh đất xấu là nơi cơ hội cho cỏ dại, thường là loại cỏ đuôi chó.
Tôi thật sự buồn nôn khi nh́n thấy vài bộ mặt, nhận ḿnh từng là
người hùng của binh chủng này binh chủng nọ, nhưng chạy về khóc lóc,
bợ đỡ kẻ thù. Nghe những lời xu nịnh của họ, mà tôi thấy lợm giọng
Bạn bè chiến đấu cùng tôi ngày xưa, giờ cũng bị những biến cố của
ḍng đời “lưu vong” này mà chia năm xẻ bảy. Tệ hơn có một số c̣n xem
nhau như kẻ thù. Từ những bất đồng trong “kháng chiến”, “phục quốc”
đến việc hội hè, đoàn thể, xây dựng tượng đài, tu sửa Nghĩa Trang QĐ
Biên Ḥa, thậm chí đến cả việc ủng hộ hay chống TT Trump, và mới đây
là chuyện “Recall” hay “No Recall” trong Hội Đồng Thành Phố
Westminster- đă giết chết biết bao t́nh chiến hữu, đồng đội, đồng
môn, huynh đệ một thời.
Tôi thực t́nh không hiểu nổi, chỉ cảm thấy đau ḷng, xót xa, và nuối
tiếc. Cái bóng ma cuộc chiến của hơn 45 năm trước mà tôi luôn muốn
quên đi, giờ càng đè nặng lên tấm thân c̣m cơi, bóp nghẹt trái tim
già nua của tôi, từng khát khao bao niềm hy vọng. Vết thương cũ
trong ḷng, tưởng có thể lành, giờ nhói đau trở lại. Và món nợ máu
xương của bao đồng đội, đă hơn 45 năm rồi, biết đến khi nào mới trả
được cho anh em!
Cầu xin hồn thiêng sông núi, anh linh tiên tổ và liệt vị anh hùng,
tử sĩ phù trợ cho cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt những
huynh đệ từng mặc áo lính của tôi, sớm dẹp bỏ mọi chia rẽ, tị hiềm,
đưa tất cả quy về một mối, cùng một ḷng hổ trợ đồng bào trong nước,
để họ có đủ can đảm bước qua nỗi sợ hăi, cùng đứng lên làm ngọn sóng
thần nhận ch́m chế độ Cộng sản man rợ, độc tài, tham nhũng, bán nước
cầu vinh, để con cháu đời sau không c̣n bị nợ nần, ô nhục, xích
xiềng, vươn lên sánh vai ngẩng mặt tự hào cùng năm châu bốn bể.
Một chế độ đi ngược lại ḷng dân và xu thế phát triển của nhân loại,
tất yếu phải bị đào thải. Vấn đề c̣n lại chỉ là thời gian – và sẽ
biến thiên tùy theo những trái tim có cùng nhịp đập.
Tháng 4/ 2020
Phạm Tín An Ninh
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Giánh Sinh trong trại tù cs
Người Việt cao quư
Trung Tá Hoàng Tích Hữu Ái
VNCH đă dũng cảm khai hỏa lại TQ tại Hoàng Sa
Những dấu hiệu quân Mỹ đă sẵn sàng ở Biển
Đông
Một thoáng “Hương Xưa”
Mơ chuyến ra khơi
Những người lính cũ
Truyện những con tàu : Gia đ́nh.. Cô Năm
Hỏng
rồi tiếng nước Tôi!!!.
Tấm thẻ
bài
T́m vui
cuối đời
Giấc mộng không b́nh thường
Xưa rồi diễm
Trường Bộ Binh Thủ Đức - Đoạn đường chiến
binh
Những cánh dù không về đến điểm hẹn
Ghé bến Cao Hùng
Hồi ức của một người Mỹ về cấp chỉ huy
QL/VNCH
Một phiên
gác đêm
Cái nón sắt của người lính VNCH
Con Ba Đồng
Tháp
Câu chuyện về một người VN t́nh nguyện đi
lính Mỹ
Nghỉ hè ở Mallorca
HQ 602 - Vụ thảm sát HT Ngô Minh Dương
Trà cú từ trại LLĐB đến căn cứ Hải Quân
Khấn người t́nh địch
Quên chuyện phải
nhớ....
Chỉ là kỷ niệm
Căn cứ Tuyên Nhơn
Tôi đi tù
Anh ở
đây! Sao anh ở đây?
Nhật kư buồn!
Lực lượng Hải thuyền (1960-1965)
Bên
nhau đi nốt cuộc đời
Sài G̣n - Trăm nhớ ngh́n thương
Cái bóng
cuộc chiến và món nợ 45 năm
Lư do then chốt dẫn đến 30-04-1975
Sài G̣n những ngày cuối tháng 4/1975
Truyện những con tàu : Hộ tống hạm (phần 1)
Chuyến bay
cuối
Ai
đầu hàng, nhưng tao th́ không!
Ngày
30-4 lại đáo hạn năm 2020!
Chuyện bên
đường
Vietnam
War: Ai thắng ai thua?
Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Truyện những con tàu: Tuần duyên hạm (PGM)
Làng Yuba City trong cơn ác
dịch Corona
Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo vị Tướng bất tử
Tách cà phê muối
T́nh yêu thời chinh chiến
Hội chợ Tết Canh Tư do CĐNVTD/VIC Tổ Chức
Vạt nắng bên đồi
Có đêm nào buồn
bằng đêm 30
Ḍng sông ngày ấy
Lạc giữa
mùa Xuân
Năm Canh Tư 2020 nói chuyện chuột
Đêm xuân trên vùng biển chết
Tại sao Vũ Hoàng Chương bị bắt?
Quả Phụ Hoàng Sa