Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Bông hồng cho mẹ Việt Nam và cho
những ai đang c̣n cha, c̣n mẹ.
“. . .
Chị th́ thầm vào tai anh:
“C̣n mấy hôm nữa là rằm tháng Giêng chắc ḿnh phải về nhà chứ.”Anh kéo chiếc mền mỏng lên ngang ngực, chiếc mền ngắn quá, ḷi cả nửa ống chân ra ngoài. Anh nh́n chung quanh một ṿng, ngượng ngùng co chân lại.
“Về sao được em, phải chờ chứ, c̣n nước c̣n tát, mấy hôm nay thằng bé cũng thấy khá hơn một chút.”
Hai vợ chồng đang nằm ngủ ngay trước cửa Bệnh Viện Ung Thư, con trai họ 12 tuổi kiếm được một chỗ nằm chung một giường với một đứa trẻ khác bên trong, (sau khi anh chị đưa cho y tá trực ở đó hai lần hai cái phong b́.) Dưới gầm giường th́ có bố mẹ của đứa bé kia rồi, không c̣n chỗ cho anh chị nữa.
Họ lên đây từ trước Tết, đợi măi mới tới phiên con được khám. Trong khi chờ th́ cứ ngồi, nằm, ngay ở hành lang bệnh viện. Anh chị không phải là cặp vợ chồng duy nhất ngủ ở ngoài này. Số người chờ khám cho thân nhân hay chờ khám cho chính ḿnh nhiều hơn số giường của bệnh viện có, nên người chờ đợi, ăn, ngủ, tràn lan ra tới hành lang.
Trời mưa lụt, nước tràn ngập cả trong pḥng đợi, người ngồi, kẻ nằm trên những chiếc ghế nhựa trông thật thảm thương. Ngày khô th́ chiếu trải la liệt dưới đất. Bệnh Viện mà trông như trại tỵ nạn.
Anh chị từ Ḥa B́nh mang con về Hà Nội chạy chữa, thằng bé 12 tuổi đang đi học bỗng ngă bệnh, chữa măi Bác sĩ tỉnh nhà không khỏi, thử máu, chụp h́nh mới biết là bị ung thư màng óc.
Chị lại th́ thầm: “Tết ḿnh đă không có mặt ở nhà để cúng ông bà, th́ Rằm cũng phải về cúng Phật chứ anh. Hay em ở lại với con, anh về mấy hôm đi.”
“Anh về cũng chẳng an tâm được. Mấy hôm ngủ ngoài sương thấy em đă bắt đầu ho. Thôi, Trời Phật cũng thông cảm cho ḿnh.”
Chị im lặng một lúc, lại ngập ngừng nói: “Thôi anh cứ yên tâm về đi, c̣n bà nội thằng Tí ở nhà nữa, anh về đi kẻo mẹ trông, em biết là mẹ mong anh về lắm.”
Người chồng ngồi hẳn dậy, co hai chân lên ṿng tay ôm qua đầu gối, thở dài.
“Ừ, chắc anh nên về, em nói đúng, bà nội thằng Tí đang mong tin lắm. Anh đă chia tiền ra từng gói nhỏ để em tiện chi tiêu. Tiền trả cho Bệnh Viện chữa trị, tiền đưa bác sĩ th́ anh để riêng, tiền đưa y tá, tiền lao công anh cũng để riêng.”
Người vợ ngồi hẳn dậy, quấn lại cái
chăn cho gọn, thu xếp mấy cái túi đựng cả một gia đ́nh lưu động của
ḿnh. Chị nh́n chung quanh một vùng bao quát, trong ánh nắng sớm mai
yên tĩnh mọi người chưa thức dậy hết. Họ nằm ngang, nằm dọc, hay
xoay chân ngược chiều nhau. Những bàn chân gầy g̣, và những cái đầu
xơ xác tóc, họ đang ngủ hay đă thức rồi mà vẫn c̣n nằm im lo lắng
bất an. Mặt trời sẽ lên, thêm một ngày chờ đợi, đến bao giờ mới tới
phiên ḿnh, hay phiên của người thân ḿnh. Số tiền mang trong túi,
cài hai ba cái kim cho chặt, liệu có đủ trả tiền chạy chữa, tiền
thuốc và tiền “phong b́” không?
. . . ”
Chuyện kể bên trên, từ bài viết “Bệnh Viện và Nghĩa Trang” của Trần
Mộng Tú. Đây chỉ là một chuyện. Mỗi một manh chiếu từ trước cổng
bệnh viện, đến bên dưới gầm giường bệnh nhân, là một câu chuyện
t́nh. Mỗi câu chuyện có khác nhau, nhưng cùng giống nhau cái thảm
thương, rát nát trong ḷng. Sau tháng Tư năm 1975, chuyện t́nh cha
mẹ, con cháu, anh em,.. càng bao la, dạt dào, bất tận. Nhất là, khi
những người thân c̣n kẹt trong lao tù “cải tạo”. Những gia đ́nh bị
kết tội là có liên hệ quân-cán-chính, với chính quyền miền Nam; …
thân quyến không những khổ v́ phải nuôi chồng, nuôi con, mà c̣n
triệu đắng ngh́n cay v́ cái lư lịch gia đ́nh “ngụy quân”, “ngụy
quyền”. Các tầng lớp thường dân, họ cũng khổ không kém; không phải
chỉ khổ trong thập nhiên 80-90, mà cho măi đến ngày hôm nay.
Khác hẳn với các bệnh viện dành cho cán bộ quan chức, kẻ có chức vụ và lắm bạc tiền. Từ ngoài đường, nh́n qua là biết ngay bệnh viện dành cho thường dân. Người chờ được khám bệnh và người nuôi bệnh nằm ngồi lê lết khắp nơi; họ hứng trọn mưa nắng từ bên ngoài cổng bệnh viện, chen chúc bên dưới các mái hiên, la liệt trên hành lang hay các nơi tựa được tấm lưng, chui rút ngay cả bên dưới gầm giường bệnh. Người nuôi bệnh thường là cha mẹ nuôi con, hay những người con nuôi bậc sinh thành, một số làm nghề nuôi bệnh mướn… Tại đây, người nhà phải tự lo cho người bệnh từ uống thuốc, đến các việc dơ bẩn khác. Đă thế, tất cả mọi dịch vụ từ cổng vào đến lối ra, trong khắp khu bệnh viện, kể cả nuôi bệnh, đều phải có tiền lo lót để sẵn trong các phong b́, gọi là “tiền phong b́”. Phần người bệnh, tuy phải nằm chen chúc cùng giường với các bệnh nhân khác, họ vẫn phải trả đúng theo giá nhà nước quy định cho mỗi người, cho mỗi ngày. Trong đây, chừng như lương tâm và ḷng bác ái của các bậc mang danh phận thầy thuốc, cũng bị bệnh hoạn hay không c̣n chỗ để sống.
Những gia đ́nh có người đàn ông c̣n
kẹt trong trại tù “cải tạo”, th́ chuyện kể về mẹ, về cha, về người
vợ trên quê hương ḿnh chan chứa hàng triệu xót xa. Chuyện từ góc
phố buôn gánh bán gồng nuôi con ăn học. Chuyện dắt díu nhau lên vùng
kinh tế mới xa xôi, lam lũ cùng gió sương, đất đá, với sắn khoai đói
lạnh. Chuyện mẹ phải quay về thành thị “bán máu” nuôi con…
“Có lần tôi đi ngang. Qua vỉa hè Đồng Khởi.
Một bà ôm chiếc gối. Đứng hát như người say:
Khoan chết đă con trai.
Mẹ c̣n chờ mua sữa.
Mai Ba về có hỏi.
Mẹ biết nói sao đây.
Người biết chuyện cho hay. Chồng bà, đưa ra Bắc.
Từ khi con trai mất. Bà trở thành người điên.
Nhà bà là mái hiên. Tấm vải dầu che nắng.
Sớm chiều khoai với sắn. Heo hút với bầy con.
Bà ngày một héo hon. Bỏ vùng kinh tế mới.
Về Sài G̣n chen lấn. Giữa cuộc đời đắng cay.
Đứa con út ốm đau. Vẫn hằng đêm đ̣i sữa.
Chẳng c̣n ǵ bán nữa. Ngoài giọt máu mẹ cha.
Khi trời vừa sáng ra. Bà lại lên Chợ Rẫy.
Lần nầy lần thứ mấy. Bà bán máu nuôi con.
Trên đường về đi ngang. Ghé cửa hàng mua sữa.
Bà gục người trước cửa. Suốt đêm mà không hay.
Đứa con út đang đau. Chờ mẹ về chưa tới.
Qua đời trong cơn đói. Thiếu cả một ṿng tay.
Khi bà về tới nơi. Th́ con ḿnh đă chết.
Bà ôm con lạnh ngắt. Đứng hát như người say:
Khoan chết đă con trai.
Mẹ c̣n chờ mua sữa.
Mai Ba về có hỏi.
Mẹ biết nói sao đây.
Đêm qua tôi nằm mơ. Thấy ḿnh ôm chiếc gối.
Đứng trên đường Đồng Khởi. Và hát như
người điên.”
… Đồng Khởi ?!
Sau khi miền Nam mất Sài G̣n, không
phải chỉ có những cái tên như Đồng Khởi hay Nam kỳ khởi nghĩa…, c̣n
nhiều tên đường kỳ dị, nghe xa lạ đối với người dân miền Nam lắm!
Những thương tâm, như trên “vỉa hè Đồng Khởi”, mà anh Trần Trung Đạo
ghi lại trong bài thơ “Bà Mẹ Điên”; không phải chỉ ở những tháng
ngày trước khi anh vượt biển t́m tự do, mà c̣n đầy dẫy ngày hôm nay.
Chuyện “bán máu” từ đó đến nay, đă trở thành những chuyện tầm
thường. Cũng như các nước văn minh tiến bộ, người dân miền Nam chỉ
nghe biết chữ “hiến máu”; đây là nghĩa cử nhân đạo, v́ ḷng bác ái.
Thế nhưng, từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Nam có thêm một
nghề rất lạ thường; lạ thường như cái tên của nó, đó là “bán máu”.
Nghề “bán máu” công khai và hợp pháp. Giá mua bán máu của bệnh viện
thấp hơn giá chợ đen. Thế nhưng, mua hay bán máu chợ đen, cũng đều
phải qua các bệnh viện của nhà nước. Nghề “bán máu”, trong cái xă
hội chủ nghĩa, đúng nghĩa như tên gọi, được trả tiền theo lượng máu
ḿnh bán. Người ta đi bán máu để có tiền mà duy tŕ sự sống, cho
người thân hay cho chính ḿnh, để rồi lại bán đi chính sự sống đó
của ḿnh. Cái ṿng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn!
Đă hơn 45 năm, quê nhà ḿnh có quá nhiều chuyện thương tâm, hơn
chuyện mẹ bán máu nuôi con bên ngoài các cổng nhà thương, rồi kiệt
lực chết. Chết trước khi kịp mang tiền mua chút gạo nuôi con. Và rồi
đứa con cũng chết v́ đói … Những câu chuyện thương tâm trong xă hội,
không thể vướng bận nhà nước của nó. Nghĩa trang cho cán bộ đảng,
chắc hẳn phải quan trọng hơn bệnh viện cứu trị cho dân; như bản tin
ngày 2/2/2019 của báo Tuổi Trẻ:
“Theo đó, nghĩa trang Yên Trung thuộc địa phận xă Yên Trung, huyện Thạch Thất, nằm dưới chân núi Ba V́, cách trung tâm thành phố khoảng 40km về phía Tây; phía Bắc và Tây giáp Vườn Quốc gia Ba V́; phía Đông giáp đồi núi và đường cao tốc Ḥa Lạc - Ḥa B́nh; phía Nam là đồi núi và khu dân cư.
Tổng diện tích toàn bộ nghĩa trang lên tới 120ha. Nguồn vốn xây dựng nghĩa trang dự kiến hơn 1.400 tỷ đồng, lấy từ ngân sách nhà nước
Nghĩa trang Yên Trung là nghĩa trang cấp quốc gia, nơi an nghỉ, khu tưởng niệm lănh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, các anh hùng, danh nhân của đất nước sau khi từ trần.
Nghĩa trang có đầy đủ các hạng mục từ nhà làm việc, đón tiếp, nhà dịch vụ, khu nghi lễ, khu vực tổ chức nghi lễ, đất an táng (quy mô 2.200 - 2.500 ngôi mộ), đất cây xanh mặt nước, đất giao thông, băi đỗ xe và khu đệm cây xanh cảnh quan (sức chứa 5.000 người).”…. Tự hào quá Việt Nam ơi!
Cán bộ đảng chưa chết đă được nhà nước lo chu toàn nơi chết. Chỉ tại mỗi một nghĩa trang tên Yên Trung, đă có sức chứa đến 5.000 người chờ sẵn.
Người ta có quá nhiều cái đáng bận tâm hơn để củng cố đảng, để ca ngợi chế độ đă ban cho cơ hội vơ vét lợi danh. Bây giờ, báo chí và các bài viết trong nước nhắc đến tên đường Đồng Khởi, với những tựa đề đập mạnh vào mắt, đánh bóng cho chế độ cai trị như: “Con đường sang trọng bậc nhất”, “5 lư do khẳng định “Đẳng cấp độc tôn” đường Đồng Khởi”,… Trên một tờ báo, tự hào là “trí thức trực tuyến”, Mộc Trà đă kể lể đầy tự hào: “Đồng Khởi xưa có tên là Catinat - c̣n có tên khác là “Rue no.16” (thời Pháp thuộc). Từ đó đến nay, đường Đồng Khởi đă có hơn 150 năm lịch sử, trở thành một trong những con đường lâu đời nhất tại thành phố. Với một vị thế độc tôn và tầm quan trọng bậc nhất đối với kinh tế, văn hóa, chính trị, du lịch, là sự kết hợp hoàn hảo, ḥa quyện giữa lịch sử, hiện tại và tương lai; đường Đồng Khởi xứng đáng với danh xưng “con đường vàng”, “trái tim” không thể thay thế được của thành phố mang tên ….”
Nhiều bài, có đến cả ngàn chữ, cũng
chỉ để nói nhắc đến con số 150 năm, chiều dài lịch sử của con đường,
để rồi tung tăng ca tụng những “sang trọng bậc nhất” bây giờ, nhờ
công ơn xây dựng của đảng. Có lẽ, hơn 45 năm rồi, vốn đă quen tuân
theo những bài bản có chủ trương, quy định. Các bài viết về con
đường Đồng Khởi, tránh né nhắc đến chứng tích lịch sử vô cùng quan
trọng: Con đường bị gọi là Đồng Khởi bây giờ, đă từng được mang tên
Tự Do, từ năm 1954 đến tháng 4 năm 1975; trong suốt thời kỳ miền Nam
Việt Nam c̣n tự do, khi thành phố vẫn c̣n mang tên Sài G̣n, khi Sài
G̣n vẫn c̣n đường Tự Do, đường Công Lư,… khi Công Lư và Tự Do của
miền Nam chưa bị tiêu hủy bởi “Đồng Khởi” và “Nam kỳ khởi nghĩa”.
Mặt trời sẽ lên, thêm một ngày chờ đợi!
Ngày thêm ngày, người c̣n bị lùa chạy
trên con đường một chiều, mải miết xuôi theo ḍng đời. Ḍng đời mà
đảng đă an bài cho dân. Ḍng đời vô vọng. Bao giờ tới phiên ḿnh,
hay phiên của người thân! Như Sài G̣n và những con đường đă mất tên,
Công Lư và Tự Do vẫn c̣n bị vùi dập trong các hố chôn lịch sử của
nhà cầm quyền.
Cho đến ngh́n sau, lời đau nhớ măi:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư!
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do!
Bùi Đức Tính
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Giánh Sinh trong trại tù cs
Người Việt cao quư
Trung Tá Hoàng Tích Hữu Ái
VNCH đă dũng cảm khai hỏa lại TQ tại Hoàng Sa
Những dấu hiệu quân Mỹ đă sẵn sàng ở Biển
Đông
Một thoáng “Hương Xưa”
Mơ chuyến ra khơi
Những người lính cũ
Truyện những con tàu : Gia đ́nh.. Cô Năm
Hỏng
rồi tiếng nước Tôi!!!.
Tấm thẻ
bài
T́m vui
cuối đời
Giấc mộng không b́nh thường
Xưa rồi diễm
Trường Bộ Binh Thủ Đức - Đoạn đường chiến
binh
Những cánh dù không về đến điểm hẹn
Ghé bến Cao Hùng
Hồi ức của một người Mỹ về cấp chỉ huy
QL/VNCH
Một phiên
gác đêm
Cái nón sắt của người lính VNCH
Con Ba Đồng
Tháp
Câu chuyện về một người VN t́nh nguyện đi
lính Mỹ
Nghỉ hè ở Mallorca
HQ 602 - Vụ thảm sát HT Ngô Minh Dương
Trà cú từ trại LLĐB đến căn cứ Hải Quân
Khấn người t́nh địch
Quên chuyện phải
nhớ....
Chỉ là kỷ niệm
Căn cứ Tuyên Nhơn
Tôi đi tù
Anh ở
đây! Sao anh ở đây?
Nhật kư buồn!
Lực lượng Hải thuyền (1960-1965)
Bên
nhau đi nốt cuộc đời
Sài G̣n - Trăm nhớ ngh́n thương
Cái bóng
cuộc chiến và món nợ 45 năm
Lư do then chốt dẫn đến 30-04-1975
Sài G̣n những ngày cuối tháng 4/1975
Truyện những con tàu : Hộ tống hạm (phần 1)
Chuyến bay
cuối
Ai
đầu hàng, nhưng tao th́ không!
Ngày
30-4 lại đáo hạn năm 2020!
Chuyện bên
đường
Vietnam
War: Ai thắng ai thua?
Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Truyện những con tàu: Tuần duyên hạm (PGM)
Làng Yuba City trong cơn ác
dịch Corona
Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo vị Tướng bất tử
Tách cà phê muối
T́nh yêu thời chinh chiến
Hội chợ Tết Canh Tư do CĐNVTD/VIC Tổ Chức
Vạt nắng bên đồi
Có đêm nào buồn
bằng đêm 30
Ḍng sông ngày ấy
Lạc giữa
mùa Xuân
Năm Canh Tư 2020 nói chuyện chuột
Đêm xuân trên vùng biển chết
Tại sao Vũ Hoàng Chương bị bắt?
Quả Phụ Hoàng Sa