PASSAGE TO FREEDOM


Sau khi Hiệp định Genève 1954 chia đôi nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc do cộng sản thống trị. Miền Nam theo chính thể tự do.

Từ tháng 8 năm 1954, đồng bào miền Bắc đă bỏ quê nhà để lánh nạn cộng sản mà di cư vào miền Nam tự do, trong một chiến dịch được gọi là “OPERATION PASSAGE TO FREEDOM”

Năm 1954, những người trọng tuổi, đă từng v́ chế độ cộng sản bạo tàn mà phải rời bỏ quê nhà di cư vào sống trong miền Nam tự do, chắc vẫn c̣n nhớ h́nh ảnh ông bà, cha mẹ hay chính ḿnh, bồng bế con cháu, d́u dắt nhau và gồng gánh những tài sản c̣n sót lại để bước lên những chiếc tàu, được đồng bào ḿnh gọi là tàu há mồm. Biểu ngữ lớn, treo căng ngang trước mũi tàu có hai hàng chữ: “YOUR PASSAGE TO FREEDOM”, và “ĐÂY LÀ CON ĐƯỜNG TỰ DO CỦA BẠN”. Có biểu ngữ, hàng chữ Việt ngắn gọn hơn: “SANG PHÍA TỰ DO”

Trong giai đoạn này, có khoảng 310.000 đồng bào miền Bắc được Hải quân Hoa Kỳ giúp đưa vào miền Nam, và khoảng 500.000 người lánh nạn cộng sản từ Bắc Việt Nam đă được quân đội Pháp, Anh, Ba Lan… và quân đội Quốc gia Việt Nam giúp di cư vào Nam. Và v́ số người di cư quá đông, Cao uỷ Pháp đă xin gia hạn thêm ba tháng, đến ngày 19 tháng 8. Chuyến tàu cuối cùng chở người miền Bắc di cư cập bến Sài G̣n vào ngày 16 tháng 8. Mặc dù đă hết hạn cho phép di cư, đồng bào miền Bắc vẫn liều mạng sống, bằng đường bộ hoặc ghe thuyền, bằng mọi cách để trốn khỏi chế độ cộng sản ở miền Bắc. Đến đầu năm 1956, đă có đến 927.000 người di cư vào sống trong miền Nam tự do.

Chữ Passage thường dùng cho một chuyến đi bằng tàu, hay chỉ một lối vượt qua eo hẹp, có ngăn chặn hai bên, như đường hầm chẳng hạn.

Thật vậy, đoạn đường t́m tự do của người Việt Nam đă không hề thênh thang và dễ dàng, đă có lắm đoạn trường, đầy tang thương!

Quyển RUNNING ON EMPTY đồng biên soạn bởi các tác giả Michael J. Molloy, Peter Duschinsky, Kurt F. Jensen, và Robert J. Shalka là một tài liệu lịch sử nói về thảm trạng tỵ nạn Đông Dương, 1975 – 1980. Sách dày 582 trang, được biên soạn rất công phu trong đó ghi lại biết bao chuyện thương tâm về người tỵ nạn cộng sản tại Đông Dương và thuyền nhân Việt nam. Trang 105 & 106 có ghi lại một đoạn hồi kư của một linh mục ḍng Jesuit - người trước đây từng phục vụ ở vùng Đông Dương và đă quay lại để giúp các thuyền nhân - đă tường thuật một cách sinh động về t́nh trạng vô cùng bi thảm tại một trại tỵ nạn ở gần băi biển của Thái Lan:

“Mỗi buổi sáng, khi chúng tôi đi xuống các băi biển, sẽ có những thi thể - đàn ông, phụ nữ và trẻ em – trôi dạt vào bờ trong đêm qua.

Đôi khi, có đến hàng trăm xác người, trông như những mảnh gỗ trên băi biển. Trong số xác người đó, có nhiều cô gái đă bị hăm hiếp sau đó ném xuống biển để rồi chết đuối. Bi thảm tột cùng mà ngôn từ không thể nào kể lại được ... Đôi khi, cũng có người, với một phép lạ nào đó, họ vẫn c̣n sống sót. Họ nằm trên băi biển v́ kiệt sức hoặc bất tỉnh. Họ trôi dạt vào bờ trong đêm, chúng tôi đă giúp họ hồi sinh và chăm nom họ khi chúng tôi t́m thấy. Tất nhiên, thời tiết đă gây nhiều tai hại cho thuyền nhân. Có nhiều chiếc thuyền vượt biển thật nhỏ bé, mong manh, tồi tàn. Cũng có nhiều khi, người tỵ nạn bị nhà cầm quyền Việt Nam bắn chận và kéo tàu họ về Việt Nam, những người phạm tội vượt biển c̣n sống sót th́ bị tù đày. Thế nhưng thảm nạn cướp biển có lẽ là nguyên nhân trầm trọng nhất trong các vụ giết người. Bọn cướp biển chận bắt gần như tất cả ghe thuyền vượt biên.

Trước tiên, chúng t́m kiếm vàng, thậm chí c̣n tàn bạo đến mức kéo cạy lấy vàng bọc răng từ trong hàm răng của mọi người. Điều tiếp theo thu hút chúng, chính là những cô gái trẻ. Những tên cướp biển lo ngại bị bắt, và cách tốt nhất để không bị bắt với tang chứng là phá hủy chiếc thuyền và giết hết tất cả những người mà chúng đă hăm hại, và thậm chí chúng nó c̣n ném các cô gái xuống biển sau khi đồng bọn đă thỏa măn ... Sau đó, các thi thể thuyền nhân bị cuốn trôi vào bờ biển hoặc ch́m mất vào trong ḷng biển.”

C̣n có biết bao thảm cảnh đă được thế giới biết đến và gọi là “Asian Holocaust”; như thời Holocaust, 1941-1945, khi người Do Thái bị quân Nazi lùng bắt và tàn sát. Trang 112 có một tường thuật về chính sách man rợ của quân Việt cộng, đă lùng bắt và tàn sát đồng bào ra đi t́m tự do, như sau:

“Thời báo NewYork Times đă kể lại một câu chuyện thật, thật kinh hoàng: “Các nguồn tin chính thức của Philippines hôm nay cho biết rằng quân đội cộng sản Việt Nam đă giết 85 người tỵ nạn người Việt, trong đó có 45 trẻ em, khi thuyền đánh cá của họ mắc cạn... trên một ḥn đảo ở Biển Đông... 8 người may mắn sống sót sau vụ thảm sát ngày 22 tháng Sáu năm 1979 này và cuối cùng trôi dạt đến được đất liền và ẩn náu ở Philippines... Tài liệu đáng tin cậy đă cho biết quân đội cộng sản Việt Nam đă nổ súng vào chiếc ghe của người tỵ nạn bằng súng cối, súng máy và các thứ vũ khí tự động.”

Bao chuyện thương tâm của thuyền nhân Việt Nam đă được nghe biết. Hăy c̣n biết bao nỗi hăi hùng, đă theo thân xác của người vượt trốn chế độ cộng sản, vùi chôn trong rừng sâu, trên hoang đảo hay dưới đáy biển. Biết bao chuyến đi đă không bao giờ đến được bến bờ tự do. Họ ra đi mà không bao giờ đến.

Theo Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc, khoảng 200.000 đến 400.000 thuyền nhân đă chết trên biển.

. . .

Passage to Freedom là tựa đề của bộ phim thật cảm động, là tài liệu lịch sử về cuộc di dân vĩ đại trong lịch sử nhân loại của đồng bào thuộc 3 quốc gia Việt, Miên và Lào. Cuộc trốn chạy khỏi chế độ cai trị của các nhà cầm quyền cộng sản để t́m tư do, do Hội Lịch Sử Di Dân của Canada và Đại Học Carleton Canada thực hiện qua dự án Hearts of Freedom.

Canada đă tái định cư cho hơn 60.000 người tỵ nạn Đông Nam Á từ năm 1975 đến năm 1985. Sự kiện “OPEN DOORS, OPEN HEARTS” của Canada đối với cuộc khủng hoảng người tỵ nạn, đă được quốc tế công nhận với Huân chương Nansen của UNHCR vào năm 1986. Bộ phim cũng đă ghi nhận sự thành công trong quá tŕnh ḥa nhập vào cuộc sống ở Canada. Người tỵ nạn và con cháu của họ đă trở thành những công dân hữu ích, thành công và góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước Canada.

Trong buổi khai mạc Asian Heritage Month (Tháng Di Sản Á Châu) vào hôm 1 tháng 5 này, tôi được gặp lại ông Michael J. Molloy, ông là cựu viên chức cao cấp về Di Trú của Bộ Ngoại Giao Canada, và là đồng tác giả của quyển Running on Empty. Chúng tôi có dịp nói về một sự kiện rất đặc biệt và quan trọng về thảm cảnh trốn chạy t́m tự do của người Việt Nam. Đó là:

“Trong lịch sử, người Việt Nam chỉ rời bỏ quê hương v́ đă bị dồn vào cùng đường, không c̣n lối thoát nào khác hơn. Họ bỏ nước ra đi không phải v́ chiến tranh! … Suốt 20 năm chiến tranh, người Việt đă vẫn ở lại trên đất nước Việt Nam để chiến đấu chống lại quân cộng sản, đă hy sinh để bảo vệ lănh thổ và quyền tự do của miền Nam.

Cuộc di cư vĩ đại đă chỉ xảy ra sau khi Sài G̣n bị sụp đổ, sau khi dứt tiếng súng, đă hết chiến tranh. Đồng bào Việt Nam chỉ phải bỏ nước ra đi sau khi cộng sản chiếm trọn Việt Nam. Họ đă phải rời bỏ quê hương Việt Nam chỉ v́ cùng đường, chỉ v́ không thể sống dưới chế độ cai trị bạo tàn của cộng sản Việt Nam … Đây c̣n là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chọn được sống tự do; chống lại chế độ cộng sản bằng chính mạng sống của ḿnh!”

Nh́n lại, bộ phim tài liệu Passage to Freedom tŕnh chiếu vào ngày 29 tháng Tư năm 2023, tại SFU Harbour Centre - Vancouver Campus, chúng ta đă ghi nhận được hai điều quan trọng:

Trước hết: Tội ác của cộng sản từ khi cướp chính quyền ở miền Bắc đến khi chiếm trọn miền Nam.

Sau cùng, và là quan trọng nhất: “Freedom is not free!”

Thật vậy, Tự Do không phải tự dưng mà có! Đồng bào Việt Nam đă phải trả cái giá rất đắt cho Tự Do!

Passage to Freedom – 29/04/2023
Bùi Đức Tính
 

 

 

 


Bùi Đức Tính

Tập Truyện Thuyền Đời

Chương 1 - Ḍng sông quê hương - Audio
Chương 2 - Xuân quê hương - Audio
Chương 3 - Con thuyền - Audio
Chương 4 - Cuộc đời - Audio
Chương 5 - Đêm vẫn đen - Audio
Chương 6 - Chuyến đi cuối nămAudio
Chương 7 - Rồi Tết lại đến - Audio
Chương 8 - C̣n thương quê hương tôi - Audio
Chương 9 - Nhớ cả trời Việt Nam - Audio
Chương 10 - Một lần đi - Audio
Chương 11 - Từ ḍng sông này - Audio


Passage to Freedom  
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Hồi Kư Thuyền Đời của nhà văn Bùi Đức Tính  
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long   
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Mùa hè đỏ lửa  
Có chuyến bay  
Lời ca
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Tết