Chuyến vượt biển t́m tự do

Tốt nghiệp khóa 20 SQHQ ngành Cơ Khí, tôi được gửi đi thực tập trên chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Sau khi đi thưc tập trên Đệ Thất Hạm Đội về, tôi được tân đáo Hộ Tống Hạm Chi Lăng II, PCE HQ-08. Năm 1972 tôi được thuyên chuyển về Hải Quân Công Xưởng, Pḥng Điều Hành Kỹ Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tôi là sĩ quan trực đêm 28 đến sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975. Sau khi chào cờ và làm thủ tục bàn giao xong, tôi về nhà ở vùng Tân Đinh để dùng cơm. Trên đường ra cổng, tôi đă thấy lác đác một số sĩ quan cao cấp đang đưa gia đ́nh vào tạm trú trong HQCX hay Cư Xá Sĩ Quan, trại Cửu Long. Khoảng sau buổi trưa th́ t́nh h́nh Sài G̣n đă bắt đầu thấy nhốn nháo, nhiều xe hơi nhà chở đầy người chạy về hướng phi trường Tân Sơn Nhất, và bờ sông Bạch Đằng. Gia đ́nh tôi gồm ba má, năm đứa em cùng tôi và vợ tôi với cái bụng bầu gần 8 tháng, chất lên chiếc xe nhà t́m đường ra đi v́ mẹ tôi là người Bắc di cư nên đă biết thế nào là cái họa Cộng Sản. Xe nhắm hướng chạy vào HQCX để có chút ít hy vọng đưa gia đ́nh lên tàu. Đến gần nút chặn trên đựng Cường Để, lính gác bắn chỉ thiên chận đường và đuổi chúng tôi đi. Ba tôi chần chừ măi nhưng thấy không hy vọng được ǵ nên chán nản lái xe quay về nhà.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu quân đội buông súng và tuyên bố đầu hàng, miền Nam Việt Nam hoàn toàn rơi vào tay đảng Cộng Sản đầy thâm hiểm và khát máu! Những h́nh ảnh và những ǵ liên quan đến cuộc đời quân ngũ của tôi đă được lén lút thiêu hủy trong sân nhà.

Tôi đi tŕnh diện và bị nhốt tù chính trị tại Trảng Lớn thuộc tỉnh Tây Ninh, sau đó bị đưa vào Rừng Lá, Trảng Táo, lao động khổ sai cho đến cuối năm 1977 th́ được cho về “quản chế”, và làm ruộng tại vùng quê. Trước đó, vợ tôi và gia đ́nh đă bị áp lực phải bỏ nhà bỏ cửa và rời khỏi Sài G̣n đi vùng kinh tế mới để sản xuất. Sau mấy năm đă sống dưới chế độ Cộng Sản, ba mẹ tôi đă biết được rằng chúng tôi không thể nào sống được dưới chế độ vô lương của Cộng Sản nên đă lo cách t́m đường vượt biển cho toàn bộ gia đ́nh.

Sau nhiều lần vượt biên bị thất bại với ba đứa em bị bắt ở tù, tôi đă dùng giấy tờ tùy thân gỉả mạo để xuống Rạch Giá vào khoảng đầu tháng 11 năm 1978. Tôi ra đi một ḿnh, để lại người vợ trẻ yêu thương, con trai lớn mới hơn ba tuổi, và con gái mới sanh. Mẹ tôi mới mất trước đó mấy tháng. Xuống Rạch Giá được một ngày, nằm “ếm ḿnh” trong căn nhà “an toàn” với một số người cho đến khuya, chúng tôi đă được chuyền dần ra ghe lớn nằm ngoài khơi. Ghe lớn là một ghe đánh cá loại Kiên Giang có chiều dài khoảng trên 10 thước, và chiều ngang khoảng gần ba thước, mang số hiệu KG-0729. Chúng tôi ngồi như cá ṃi trong hộp, người đông, con nít đă được cho uống thuốc ho xi rô để ngủ và khỏi la khóc dễ bị lộ. Tôi không biết rơ là có bao nhiêu người được nhét lên ghe, nhưng cũng phải đến hơn trăm người. Ngoài số người đi chính thức do chủ tàu tổ chức th́ bọn công an bán băi cũng c̣n nhét thêm vào một số người riêng của chúng nữa!

Biển động nhẹ nhưng cũng làm nhiều người ngất ngư say sóng. Ghe chạy được đến tối ngày thứ hai th́ bị trở ngại, máy khục khặc nổ, có lẽ do nước theo trục láp chân vịt vào hầm máy. Ghe bị tắt máy trôi ĺnh b́nh, tàu lắc sóng ngang nên làm cho nhiều người mệt lả, nhất là ăn uống thiếu thốn trong mấy ngày qua. Khoảng 8 hay 9 giờ, trời tối đen, và lất phất những giọt mưa nhẹ hạt, chúng tôi bỗng thấy ánh đèn của một chiếc tàu đánh cá từ đằng xa chạy tới, nhiều người mừng rỡ vẫy gọi kêu cứu. Chúng giảm máy, và cho tàu cập sát lại ghe chúng tôi. Một số người nhẩy qua khi thấy chúng vẫy tay gọi qua, và trong số đó có tôi. V́ ghe chúng tôi qúa đông người nên chúng tôi tưởng là chúng tử tế cho san bớt người qua. Ba hay bốn thằng nhẩy qua ghe của chúng tôi leo lên chỗ tài công. Khi số người đă qua tàu của chúng cũng kha khá đông, chúng cho tàu tách ra, một bà hay cô tôi cũng không rơ v́ trời đă tối rồi, nhẩy qua không kịp nên rớt xuống biển, nhiều người la lên nhưng lúc này chúng mới lộ ra những khuôn mặt nanh ác bỏ mặc cho bà kia lóp ngóp dưới nước, kêu la được vài tiếng rồi im bặt và ch́m lỉm! Chúng ḥ hét bằng những tiếng Thái hay Mă Lai mà chúng tôi không biết, tay cầm dao hay những cây gậy bằng những ống nước bằng sắt, và đánh đập thẳng tay những người nào tỏ ư phản kháng hay do không hiểu lệnh lạc chúng muốn nói ǵ! Chúng chia chúng tôi ra làm hai nhóm, đàn ông riêng và đàn bà riêng, bắt ngồi xuống thành hàng. Ông chủ tàu tổ chức, đứng lên khuyên chúng tôi nên tuân hành theo lệnh của chúng, nhưng thằng cướp đứng phía sau ông lại tưởng là ông có ư phản kháng nên đă đập vào đầu ông bằng một cây gậy bằng sắt, và ông ngă xuống chết tươi. Chúng đạp ông xuống biển, máu từ đầu ông chẩy có ḍng kéo ra đến mạn ghe! Chúng bắt đầu gom góp nữ trang và đồng hồ của mấy bà mấy cô. Một bà có chiếc ṿng cẫm thạch gỡ măi không ra, chúng hươi dao định chặt tay để lấy ṿng th́ may qúa chiếc ṿng cẩm thạch tuột rơi ra được. Thấy vậy, tôi lặng lẽ tháo chiếc nhẫn cưới ở ngón tay áp út, thả nhẹ rơi xuống sàn ghe, và lấy chân lùa nhẹ xuống khe hở của sàn tàu. Một ông có chiếc răng vàng bị chúng “dộng” cho một cái để gẫy răng vàng và rớt ra cho chúng lấy. Chúng bắt chúng tôi cởi hết quần áo và chỉ c̣n độc lại những chiếc quần lót, và gom vào trong một cái bao bố.

Chúng lùa đám chúng tôi xuống những khoang hầm chứa cá. Sau này được biết là chúng cứ tuần tự làm như thế cho đến hết người trên ghe của chúng tôi. Chúng lôi những cô gái hay những người đàn bà xinh đẹp lên để hăm hiếp, tiếng kêu la khóc lạy van của những người này vang lên trong biển vắng và dội xuống hầm cá của chúng tôi nghe thật thảm thiết. Người nào chống cự mănh liệt th́ chúng đạp luôn xuống biển. Chúng tôi ở trong khoang hầm cá lạnh run lập cập v́ không có quần áo và đứng trên những tảng nước đá để ướp cá dưới chân. Đến thật khuya, chúng mở cửa hầm và kêu chúng tôi lên dẫn ra mạn tàu. Chúng cho tàu chạy đi trước khi không quên cho tàu của chúng húc mạnh vào ngang sườn chiếc ghe Kiên Giang số 0729 của chúng tôi để đánh ch́m phi tang v́ thấy phía thật là xa có ánh đèn của một chiếc tàu lớn. Chúng đạp chúng tôi xuống biển, hay hốt hoảng có một số người nhẩy theo khi chưa bị đạp xuống, và có lẽ tôi là một trong số những người này. Cũng nhờ vậy mà chỗ tôi nhẩy xuống biển cũng không cách xa ghe của chúng tôi là mấy, khoảng hai hay ba chục thước. Biển đêm đen như mực, trên trời ánh trăng sáng lạnh, tôi xoải tay bơi về ghe của ḿnh. Tôi là một người bơi không khá, b́nh thường chỉ lóp ngóp được một vài chục sải tay là đă thấy thở hổn hển rồi tuy là một sĩ quan Hải Quân, nhưng không hiểu v́ bản năng sinh tồn, một động lực mănh liệt nào hay Trời Phật hoặc linh hồn của má tôi đă giúp tôi bơi được về đến ghe của ḿnh và leo lên. Một vài người khác cũng bơi được về đến ghe như tôi, nhưng tiếng kêu cứu vẫn thống thiết vang lên trong đêm vắng của những người không bơi về đến nơi được. Những người kém may mắn này là những người không biết bơi hay khi bị đạp xuống biển th́ tàu của bọn hải tặc đă chạy ra khá xa. Chúng tôi không biết làm sao hay cách nào để cứu họ, ghe ḿnh th́ chết máy trôi lềnh bềnh theo con nước. Trên ghe không một áo phao, không một vật ǵ đủ khả dĩ nổi như phao để có thể bám lấy bơi ra tiếp cứu họ! Tiếng kêu sau cùng rồi cũng im bặt, chỉ c̣n tiếng sóng vỗ vào mạn ghe đều đặn, buồn thảm như tiếng ru Hời tiễn đưa những linh hồn kém may mắn vào với biển đen, và những tiếng khóc tức tửi của những người đàn bà bị hăm hiếp. Đồ ăn thức uống của chúng tôi đă bị bọn cướp quăng hết xuống biển. Chúng tôi hoàn hồn được đôi chút, chia nhau lấy giẻ hay quần áo c̣n sót lại đem chèn vô những chỗ bị lủng để chận nước tràn vào, và thay phiên nhau tát nước ra từ hai bên mạn thuyền.

Chúng tôi h́ hục sửa máy trong ánh sáng le lói của mấy ngọn đền cầy, anh thợ máy là một người khá chuyên nghiệp nên đến gần sáng th́ máy tàu lạch bạch nổ lại. Số người trên tàu vắng hẳn, chỉ c̣n lại chừng hơn hai phần ba lúc ra đi, và bây giờ thấy đă có chỗ chen chân đi lại. Chủ tàu đă bị giết trong đêm nên không lấy ai để chỉ huy con tàu. Bản đồ đi biển của chúng tôi chỉ là một trang giấy xé ra từ một cuốn sách Địa Lư thời trung học, không la bàn hay bất kỳ một trợ cụ đi biển nào! Tôi bàn cho anh tài công là cứ nhắm hướng Tây mà đi th́ ḿnh có thể sẽ gặp được đất liền từ giải đất của Thái Lan hay Mă lai Á. Buổi sáng cứ nhắm hướng để mặt trời nằm phía sau lái, và buổi chiếu th́ cứ nhắm hướng mặt trời lặn mà đi tới. Đúng ngọ th́ hơi phiền một tư, nhưng chúng tôi cứ cố giữ đúng hướng độ tương đối bằng cách căn cứ vào góc độ của một miếng vải treo trên mui như một lá cờ nhỏ để định hướng.

Cứ chạy như thế cho đến chiều th́ chúng tôi đă thấy đất liền. Khoảng 7 giờ chiều th́ chúng tôi vào được đến gần bờ, đă thấy lác đác có một vài người đi dạo trên băi. Băi rất lài và ghe chúng tôi bị sóng xô vỡ đáy và đẩy lên trên một cồn cát ngầm ngoài biển cách bờ khoảng trên dưới trăm thước. Chúng tôi kêu gào khản cả cổ nhưng mọi người như vô cảm, nh́n ra ghe của chúng tôi như những vật vô hồn, không thấy bận tâm! Một vài người, trong đó có tôi nhẩy đại xuống bơi vào bờ, bơi th́ ít mà sóng đẩy vào bờ th́ nhiều. Lên bờ chúng tôi mệt lả người v́ thiếu ăn và thiếu uống cùng những nỗi kinh hoàng vừa xẩy ra trong đêm. Một người đàn bà Mỹ đứng trên bờ cát đă nói với chúng tôi là yên trí v́ chồng của bà đă chạy đi báo cho cảnh sát. Một lúc sau ông chồng của bà cùng xe cảnh sát chạy đến và có mang theo ít chiếc phao. Tôi phụ đem phao bơi ra cho những người c̣n lại trên chiếc ghe vỡ nát. Cuối cùng chúng tôi cũng đem được hết cả mọi người lên bờ. Người đàn bà Mỹ tốt bụng và ông chồng người Anh của bà trong lúc đi dạo buổi chiều trên băi biển sau bữa ăn tối đă thấy chúng tôi và ra tay cứu giúp. Vùng bờ biển chúng tôi ghé vào là vùng Terengganu thuộc phía Đông Bắc Mă Lai Á.

Chúng tôi được cảnh sát Mă Lai đem về một cái garage bỏ trống để ngủ qua đêm, và sáng hôm sau th́ được chở qua trại tỵ nạn ở đảo Pulau Bidong. Gia tài của tôi cũng như đa số nhLưu Ngọc Quangững người đàn ông khác trên ghe chỉ c̣n độc lại một chiếc quần xà lỏn trên người. Tất cả mọi thứ khác đều đă bị bọn đầu trâu mặt ngựa trên tàu đánh cá Thái Lan (đă biến thành bọn cướp biển) trấn lột chúng tôi trong đêm. Tôi nằm ở khu F, khu trên đồi, của đảo Bidong, được sự giúp đỡ của anh chị Đăng Văn Đệ (Hàng Hải Thương Thuyền), và sau đó tôi có gặp lại được một số các bạn đồng khóa. Tôi t́nh nguyện vào đội trật tự trên đảo để được phát cho hai bộ đồ cũ.

Sau khi tôi đến được bến bờ tự do, cô em gái út vượt biển cùng với gia đ́nh bên vợ tôi cũng đến được bờ biển Đông Nam của xứ Mă Lai. Đầu năm 1979, hai đứa em trai ra đi t́m tự do trên một con thuyền nhỏ, và cũng đến được đảo Galang của Nam Dương. Tháng 6 năm 1979, tôi được qua Mỹ đến thành phố Baton Rouge, Louisiana đoàn tụ với đứa em trai đă du học từ trước năm 1975.

Ít lâu sau th́ ba tôi đă “móc nối” được với một người Pháp quen biết từ trước để được giúp đỡ phần gia đ́nh c̣n lại rời khỏi Việt Nam đến định cư tại Côte d’Ivoire, một thuộc địa cũ của Pháp tại Phi Châu. Ba tôi có việc làm lại v́ trước kia đă đi tu nghiệp về quan thuế tại Pháp.

Nhờ ơn trên che chở, sau đó mọi người trong gia đinh tôi được đoàn tụ tại vùng đất mới và sẽ chỉ trở về Việt Nam khi không c̣n Cộng Sàn. Chuyện thảm nạn của chiếc ghe vượt biên của chúng tôi mang số Kiên Giang 0729 đă được viết và đăng tải trên báo Mỹ: “The tragedy of the KG-0729, Far Eastern Economic Review, December 22, 1978.”

Lưu Ngọc Quang

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng ḿnh
Hai h́nh ảnh - một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè không thể quên !
Họp mặt
Những cái tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh của 5 ngày t́m về một thời tuổi trẻ  
Kỷ niệm Quân trường: Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


 Bài vở cũ


Xuân và người lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt  
Xuân về trên đầu súng  
Đêm xa người  
Câu chuyện của người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng sản  
Tâm t́nh này cho anh  
Quân trường và chiến trường  
Một giao thừa trong đời  
Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!  
Tiếc thương  
Đã bốn mươi năm con thầm đợi ba!  
Ăn Tết trên thuyền  
Cô gái làng Thái-Mỹ  
Người về từ Đại Dương  
Văn tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa  
Hoàng Sa qua những nhân chứng 
Cảm nghĩ của người đằng sau cuộc chiến  
Đất người 
Chẳng qua  
Ly rượu mừng  
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa  
40 năm hải chiến Hoàng Sa  
Yểm trợ trận chiến Hoàng Sa  
Kư ức cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những ngày tháng tù đầy không thể quên  
Những giọt nước mắt ...  
Đồng Minh can trường

Chạy đâu cho thoát 
Bonjour Việt Nam – người đi, người ở, người về… Tuổi trẻ chúng tôi 
Vượt ngục 
Thần Năm Chén 
Hải Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương Những ngày hè không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên sông núi
Chuyện thật tôi biết về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng hy hữu...
Người lính vẫn c̣n đây  
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng 213
Hồi kư của một SQ Thủ Đức  
Người vợ lính Ở Thủ Đức   
Con tôi đi nhận xác chồng! 
Tôi viết cho anh "Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện" 
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài niệm  
Tuổi già nên phiên phiến mọi chuyện ..  
46 năm họp mặt  
Quăng đời trên dốc đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh (Kunming) trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh - Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6: Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH  
Không bỏ rơi đồng đội 
Cô em vợ  
Giải vây đồi 46: Căn cứ ALPHA  
Huyền thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam - Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt biển t́m tự do  
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3  
Cũng một đời người  
Thương tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs  
Ngày nầy, năm 1975…  
Người mang thánh giá  
Hành tŕnh di tản t́m tự do  
Tổ Quốc Ghi Ơn  
Vài nét anh hùng của TSQ  
Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'  
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên bờ Bến Hải
Trên chiến trường xưa
Người thiếu phụ trong mưa phùn
Tháng Tư viết về ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá  
Phan Bôi Châu - Trường tôi ngày đó  
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện này
Ba tôi... người lính đổi màu

Những chuyến bay định mệnh