ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN VÀ GƯƠNG ANH DŨNG CAN TRƯỜNG
CỦA TẬP THỂ THIẾU SINH QUÂN QLVNCH VÀO NHỮNG NGÀY “QUỐC PHÁ GIA
VONG” 30 THÁNG TƯ NĂM 1975.
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-Thơ. Thân
phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc Gia Việt Nam. Thủa nhỏ ông
rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật ǵ. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai
bị, cả hai bên. Tính t́nh hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi
ông bắt đầu đi học (1945) th́ chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự
học bị gián đoạn. Măi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học
không lấy ǵ làm giỏi cho lắm, thường th́ chỉ đứng trung b́nh trong
lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu
Sinh Quân.Thời điểm này, trên toàn lănh thổ VN có 7 trường TSQ, phân
phối như sau :
– Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-Định.
– Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế.
– Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-Nội.
– Trường TSQ Móng-Cáy dành cho sắc dân Nùng.
– Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-Mê-Thuột.
– Trường TSQ Đà-Lạt của quân đội Pháp.
– Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-Tầu.
Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nh́ trường TSQ đệ nhất quân khu
niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương tŕnh Pháp. Ông đỗ
tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di
chuyển từ Gia-Định về Mỹ-Tho.
Khi hiệp định Genève kư ngày 20-7-1954, th́ ngày 19 tháng 8 năm
1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-Nội vào, sát nhập
với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-Tho. Niên học 1954-1955, trường
TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương tŕnh Việt, và chỉ mở
tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-Văn
là ông Nguyễn Hữu-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là
giữa một số bạn học chương tŕnh Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại
tỏ ra xuất sắc về môn Việt-Văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn,
th́ bài của Cẩn được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe
bảy kỳ. Nhưng bài của Cẩn chỉ đứng thứ nh́ trong lớp mà thôi. Năm
này Cẩn bắt đầu làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những
bài thơ này cực kỳ lăng mạn.
Ghi chú.
Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong thời gian dạy tại trường TSQ,
ông tự học, đỗ cử nhân luật. Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ
làm thẩm phán ở Tuy-Ḥa, rồi làm bộ trưởng Lao-Động, rồi thẩm phán ở
Phước-Tuy, rồi lại làm bộ trưởng Lao-Động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn
ở Houston, bang Texas, Hoa-kỳ và từ trần năm 2000.
Hết năm học, Cẩn đă 17 tuổi. Theo học quy của trường TSQ, th́ khi
một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi
học chuyên môn. C̣n như mười bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra
xuất sắc th́ được giữ lại học đệ tứ, rồi... cho học lên cao nữa.
Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-Trường Vơ
Khoa Thủ-Đức, về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn
về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng
chỉ bậc nh́, và bắt đầu kư đăng vào quân đội với cấp bậc binh nh́.
Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế dành cho các
TSQ Pháp trong thời b́nh. Một học sinh ra trường, th́ ba tháng đầu
với cấp bậc binh nh́, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau
thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau
Cẩn là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.
Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng.
Sang năm 1961 th́ lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ
Quốc-Pḥng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường
này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ, có bằng
Trung-Học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của đại tướng Lê
Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một cựu TSQ, các hạ sĩ quan
xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội đủ tŕnh độ học vấn,
cũng như thâm niên công vụ, đều được nhập học.
Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt này, đă cung cấp cho đất nước VN
không biết bao nhiêu sĩ quan gương mẫu, anh hùng trên chiến trường.
Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy.
Dường như có một mật lệnh của Tổng-Thống Ngô Đ́nh-Diệm hay đại tướng
Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa
về phục vụ tại các binh chủng : Dù, Thủy-Quân Lục Chiến (TQLC) ,
Biệt-Động Quân (BĐQ), Quân-Báo, An-Ninh Quân Đội, và Lực-Lượng Đặc
Biệt (LLĐB).
Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện BĐQ, rồi
thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm
tốn là trung đội trưởng. Lănh thổ khu này gồm các tỉnh Cần-Thơ
(Phong-Dinh), Chương-Thiện, Sóc-Trăng (Ba-Xuyên), Bặc-Liêu, Cà-Mâu
(An-Xuyên). Về sau, v́ t́nh h́nh chiến tranh thay đổi, quân cộng-sản
từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các
đại đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của
khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42,
đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn Cọp ba đầu
rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là Cọp xám U-Minh Hạ.
Tôi đă gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ ? Tại đâu ? Câu truyện như thế này :
Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt truyện, Đại-Nam nhất
thống chí viết về « Ngụy Tây-sơn », có rất nhiều nghi vấn trong
những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại rừng
U-minh. Tôi nảy ra ư xuống vùng tận cùng của đất nước này t́m hiểu
thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, « các thầy mang
bàn thờ xuống đường » , chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ
tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, v́ đi như vậy dễ tiêu dao
miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của tôi, cụ
lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói « Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn
tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau ». Tôi nhất quyết
đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính
phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi.
Nhưng làm thế nào để có thể được vào tất cả những làng, những xă, mà
không gặp trở ngại ? Làm sao có phương tiện di chuyển ? Chỉ một cú
điện thoại, ông bố tôi đă kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tờ
tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới
thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-Cảng. Thế là tôi bỗng trở
thành kư giả bất đắc dĩ. Tôi đến bộ tư lệnh MACV xin giúp phương
tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến thuật. Tôi chỉ mong
t́m hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm kư giả !
Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về cuộc chiến tranh thê thảm,
tôi đă viết rất nhiều bài kư sự chiến trường, đăng trên một số báo
ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên
Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây-Dựng Nông Thôn
tại kinh Tắc-Vân, Cà-Mau. Tôi là thầy thuốc, mà cô bị trúng đạn,
chết trên tay tôi. Tôi viết bài « Giang biên hoa lạc » gây xúc động
mạnh cho độc giả Hương-Cảng và giới Hoa-Kiều tại VN. Sau tôi có dịch
bài này sang tiếng Việt với tên là « Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-Vân » .
Tôi gửi bài này dự thi giải kư sự chiến trường của Cục Tâm-Lư Chiến
năm 1967. Bài của tôi được giải nh́. Giải nhất về Trang-Châu cũng là
một bài kư sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với
tôi « Về nội dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ
ước của tuổi trẻ quên ḿnh cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu
trung thực, c̣n bài của cháu th́ ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng
đó là sự thực ».
Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc-Cẩn,
trong bài « Ngũ Hổ U-Minh Thượng », kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng
nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại
chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là :
· Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33,
· Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ.
· Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ,
· Thiếu-tá Lê Văn-Hưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31.
· Đại-úy Vương Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33.
Ghi chú:
Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người th́ Kiệt tuẫn quốc năm
1967. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng tự tử, Cẩn bị xử bắn. C̣n Trổ ,
sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-Giang, hiện định cư tại
Houston, bang Texas, Hoa-Kỳ. C̣n Huy tôi không biết sau ra sao ?
Ngày19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-Lợi bằng phi cơ
Caribou của quân đội Hoa-Kỳ. Người đón tôi là thiếu tá Raider, của
cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại tá cố vấn
trưởng Hathaway không biết ǵ về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ
căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là
tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm kư giả. Ông cho tôi
biết t́nh h́nh địch rất chi tiết. Về t́nh h́nh quân đội VN tại năm
tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói :
– « Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc quân đoàn 4 trấn nhậm.
Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn 31 đóng tại
Chương-Thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-Mau. Trung-đoàn 33 đóng tại
Ba-Xuyên. Ngoài ra c̣n có hai tiểu đoàn Biệt-Động Quân mang số 42 và
44. Tiểu đoàn 42 đóng tại Bặc-Liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-Xuyên
».
Ông ca tụng quân đội VN như sau :
« Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại
không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử.
Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút,
xin ông lướt qua những cái đó ».
Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gửi theo tiểu
đoàn 42 Biệt-Động Quân. Tiểu đoàn trưởng là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt,
tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối
với cố vấn đoàn th́ tôi là kư giả. C̣n Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là
bác sĩ t́nh nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn được đặt làm trừ bị tại
phi trường Vĩnh-Lợi, từ bẩy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận.
Nếu khi nhảy, th́ tiểu đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm
đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nh́ gồm đại đội 3 và
đại đội chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt,
Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập vơ, coi
trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận
nhau dễ dàng. Đại-úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy.
Anh hỏi tôi :
– Lần đầu tiên ra trận, « sơ » có sợ không ?
Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt-Nam :
– Tráng sĩ khi ra trận, không chết th́ cũng bị thương. Nếu sợ chết
th́ đừng ra trận.
Cẩn hỏi tôi đă học quân sự chưa ? Tôi đáp :
– Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nh́ thôi. Nhưng
cũng biết ḅ, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng th́
tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến th́ tôi có hạng, v́ tôi là ông thầy
dạy vơ.
Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi :
– Ông bác sĩ này ngon thực !
Tôi hỏi Kiệt :
– Trong hai cánh, th́ cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn ?
Kiệt chỉ Cẩn :
– Anh cứ nhảy theo thằng này, th́ sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành
nghề.
Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp
trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải
phẫu dă chiến. Khoảng mười giờ th́ có lệnh : Một đơn vị địa phương
quân chạm địch tại Vĩnh-Châu. Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-Trăng.
Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy
là một khu đồng lầy.
Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, t́nh h́nh
trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đă lên trực
thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi
lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng bẩy phút,
th́ Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt :
– Ḱa, chỗ chúng ḿnh đáp ḱa.
Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm người từ trực thăng
lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi quên : Những người lính
dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ ruộng, mô
đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nh́n về trước. Đó là một làng, lưa
thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây dừa xanh tươi. Mặc
dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy, vẫn chưa bắn
trả. Tôi đưa mắt nh́n một lượt, các sĩ quan, người th́ nằm, người
th́ quỳ, cũng có người đứng.
Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ, mà đứng quan sát trận
ḿnh, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin
vào số tử-vi của ḿnh thọ, tôi cũng đứng.
Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nh́ đă nhảy xuống trận địa. Trận
vừa dàn xong, th́ sĩ quan đề lô xin pháo binh nă vào những chỗ có ổ
moọc-chê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn
trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng.
Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng
nước, bụi, nước bắn tung.
Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách b́a làng không đầy năm mươi
thước, th́ súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài ra sau
cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn lật ngươc.
Tôi chạy lại cấp cứu, th́ không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế
là pháo binh vô hiệu. Trực thăng vơ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ
báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh
cho phi công trực thăng nă xuống địa điểm có địch quân.
Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ
huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên.
Sau khi trực thăng vơ trang nă ba loạt rocket, đại liên, th́ lệnh
xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người
người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng
im hẳn.
Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng
được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. C̣n như bị
thương nhẹ th́ được điều trị tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi
thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, nghe tôi nói rằng : Nếu họ
muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ, mà không
phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi
giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong hơn giờ mới
xong. Tôi hỏi Cẩn :
– Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi,
th́ là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại ?
– Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết
với nhau, th́ xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị
thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi chơi
nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.
Tôi đi một ṿng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo bà ba
đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt c̣n non choẹt, đa số
tuổi khoảng 15 đến 20, cái th́ nằm vắt vẻo trên bờ kinh, cái th́ bị
cháy đen, cái th́ mất đầu. Cũng có cái nằm chết trong hầm. Không
biết, trong khi họ phơi xác ở đây, th́ cha mẹ, anh em, vợ con họ có
biết không ?
Sau trận đó th́ Cẩn được thăng cấp đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ
biệt tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung
đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng
là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường
TSQ về chiến đấu cùng với ḿnh. Cẩn đă được thỏa măn một phần yêu
cầu. Tôi hỏi Cẩn :
– Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích ǵ ?
– Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu TSQ này đều ra trường sau tôi.
Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà
chúng no lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn
chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà tại quân
trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết
th́ chết chứ không lùi, v́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh,
th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.
Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lănh thổ
năm tỉnh Hậu-Giang, khi Đại-Ngăi, khi Tắc-Vân, khi Kiên-Hưng, khi
Thác-Lác, khi Cờ-Đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được
thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân
đội. Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc
rất kỹ Lục-Thao, Tam-Lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các
danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-Quân. Tôi dùng kiến
thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ
1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học
tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy,
cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh
của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lư thuyết trong thư tịch cổ ?
Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan 1/33 đi làm trung đoàn
trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9. Năm 1972, Cẩn được lệnh mang
trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-Lộc. Cuối năm 1973, Cẩn
được trở về chiến trường śnh lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu
khu trưởng Chương-Thiện. Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm
1974 tại Chương-Thiện. Tôi hỏi Cẩn :
– Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ
rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không ?
– Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức
có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Ḿnh phải biết liêm sỉ
chứ ? Coi sư đoàn sao được.
– Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm ǵ ?
– Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho
đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường TSQ, hoặc
coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những
kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ
thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết
lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là ǵ ?
– « Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến
tranh chống du kích taị vùng đồng lầy ». Nhưng liệu bộ Quốc-pḥng có
cho phép in hay không ?
– Không cho in th́ ḿnh cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm
được ?
Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với Cẩn.
Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Măi năm 1976,
tôi được tin : Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng mặt bánh đúc
Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh đó. Các đơn vị
Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-Thiện, th́ gặp sức kháng
cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị đem ra xử tử.
Ghi chú:
Tại Sài-G̣n 9 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị dù
chấm dứt. Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-Thiện kéo dài tới 15 giờ.
Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-Sinh-Quân c̣n kéo
dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-Tầu. Nếu tôi không lầm th́
các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam.
Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:
Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin), xuất thân trường
Thiếu-Sinh-Quân Hà-Nội, sau di vào Mỹ-Tho. Trung-tá Địch đă sống với
Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-Sinh-Quân Mỹ-Tho. Thời gian 1972, cả hai
từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.
Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh
Vũ-Thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu
Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang. Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử
dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự
chiến đấu tiểu khu Chương-Thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn
vương Trần Quốc Toản trong sách này). Bà Bodoret chứng kiến tận mắt
hai cuộc xử án Cẩn.
Cuộc xử án như sau:
Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở
đi khắp thành phố Chương-Thiện cho dân chúng xem chiến lợi phẩm.
Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Cái
gọi là ṭa án nhân dân được lập ngay trước ṭa hành chánh. Sau khi
quan ṭa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy trong các đạo
luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn nhân của
Cẩn th́ đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích. Nhưng
chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng
không có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi : Những ai đồng ư xử tử Cẩn
th́ dơ tay lên ! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án
ngừng lại.
Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn ra ở sân vận động thể thao
Cần-Thơ. Lần này người ta chuẩn bị kỹ hơn, người ta cho tụi ḅ-vàng
xen lẫn với dân chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng người ta khôn
khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn đă nợ máu với ai, th́ hăy ra mà
xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ hỏi : Ai đồng ư xử tử Cẩn th́ dơ tay.
Ḅ vàng dơ tay, một số dân chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không
đơ tay.
Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội mà ṭa án nêu ra không ? Cẩn cười
nhạt :
« Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như
các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm
nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi
chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội.
Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là
giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng
bịt mắt ».
Rồi Cẩn hô:
« Đả đảo cộng-sản. Việt-Nam muôn năm »
Sau khi Cẩn bị băn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió.
Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động
không gian, rồi một trận mưa như trút xuống.
Nắng mưa là hiện tượng b́nh thường của trời đất. Nhưng dân chúng
Cần-Thơ th́ cho rằng, trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn
sóng gió của đất nước.
Khi tôi gặp Cẩn, th́ tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết.
Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ quanh Cẩn, in vào tâm
năo tôi rất sâu, rất đẹp. V́ vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết,
th́ bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật
chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận chỉ tiến
lên hoặc chết, chứ không lùi.
Có rất nhiều người đặt câu hỏi : Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực .
Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được học ở nhà, ở trường đến tŕnh độ
cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi
là cư sĩ Phật-giáo. Tôi th́ sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn
th́ lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn th́ nổi danh
tửu lượng cao nhất sư đoàn 21 bộ binh. Tôi thấy người đẹp là chân
tay run lẩy bẩy, Cẩn th́ rửng rưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi
thân với nhau ngay. Thân đến độ giăi bầy cho nhau tất cả những tâm
sự thầm kín nhất, không một người thứ nh́ biết được. Tại sao ? Cho
đến nay, tôi mới trả lời được rằng : Cẩn cũng như những người quanh
Cẩn, là những h́nh bóng thực, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ
thấy trong lịch sử. Nay được gặp trong thực tế.
Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở
bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến,
đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành
trong ṿng tay người.
Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn mà không phê b́nh, v́ Cẩn là bạn thân
của tôi. Vả tôi không đủ ngôn từ đẹp đẽ để tặng Cẩn.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
Thứ Tư, 28 Tháng 1 Năm 2009 09:04
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xă
Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ
trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời
Đệ Nhất Cộng Ḥa, dưới sự lănh đạo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm).
Đại Tá Cẩn sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi
lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, th́ chiến tranh
Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Măi hai năm sau,
tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi t́nh h́nh ở các
thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu,
quân Pháp chiếm đóng các thành phố, ông mới nhập học Trường Thiếu
Sinh Quân Gia Định.
Sau đó, ông theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan
QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Tốt nghiệp, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được
thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một
khóa học Rừng Núi Śnh Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Khả năng quân sự
thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy
Cẩn, đă đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, nên ông được
thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, và Trung Úy Cẩn được bổ
nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của
một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém là Thiếu Tá
Lưu Trọng Kiệt.
V́ những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 th́ Trung
Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng
Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45
Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và
4 Huy Chương Hoa Kỳ.
Năm 1973, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao chức tỉnh trưởng Chương
Thiện, một tỉnh có địa h́nh phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây,
với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng, từ đó quân Bắc
Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận
xă hẻo lánh. Khi đó, ông mới có 35 tuổi, là vị tỉnh trưởng trẻ tuổi
nhất của Việt Nam Cộng Ḥa.
Ngày 30-4-1975, lúc 9 giờ tối, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn
Minh đọc lệnh đầu hàng, Đại Tá Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ
Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện vẫn chiến đấu đến
11 giờ trưa ngày 1.5.1975, khi quân ta hết đạn, Đại Tá Cẩn lệnh cho
thuộc cấp buông súng. Khi những người lính VC chỉa súng vào hầm chỉ
huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên
và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt.
VC tạm cho các sĩ quan tham mưu được về nhà, c̣n Đại Tá Cẩn th́
chúng áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.
Ngày 14.8.1975, VC giải Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về Cần Thơ xử bắn tại sân
vận động. Trước khi bị bắn, ông khẳng khái tuyên bố: “Tôi không đầu
hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn, hăy để cho tôi mặc
quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. VC kính sợ ông,
nhưng chúng đă từ chối. Tuy nhiên, VC chấp thuận không bịt mắt ông
theo lời ông yêu cầu. Ông thản nhiên nh́n vào họng súng của kẻ thù,
và tha thiết nh́n lần cuối quê hương đất nước và đồng bào trước khi
súng địch nổ.Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá
Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại
Tá Cẩn, và là người đă cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu
chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 khi ông bị sa vào tay
giặc.
LỜI MỞ ĐẦU:
Có rất ít người hiểu rơ những nét hào hùng của Thiếu Sinh Quân, nhất
là trong thời cận đại 1954 đến năm 1956 rồi cho đến ngày 30 tháng 04
năm 1975. Họ là những đứa con trung thành với Tổ Quôc Dân Tộc, những
cán bộ ṇng cốt trung kiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, những
chiến sĩ can trường “chống cộng” của Người Việt Quồc Gia. Từ trước
tới nay đă trải qua bao thế hệ, Họ vẫn xứng đáng là “Những người con
yêu của Đất Mẹ Việt Nam”. Chúng tôi xin tóm lược những sự kiện được
dẫn chứng từ các tài liệu lịch sử được sưu khảo từ năm 1899 trong
Văn Khố Pháp Quốc, và những sự kiện lich sử thời cận đại, từ năm
1956 đến năm 1975, đặc biệt là trong những ngày đau thương của đất
nước Việt Nam, trước và trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, để chứng
minh những điều của ”Lời mở đầu” trong tập tài liệu nói về “Thiếu
Sinh Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà”..
Lược sử Trường Thiếu Sinh Quân VNCH
Vào thời Pháp thuộc, dưới triều đại Vua Minh Mạng, năm 1899, Toàn
Quyền Đông Dương Paul Doumer kư Nghị định ngày 21 tháng 11 năm 1899,
cho 2 đơn vi Quân Đội Liên hiệp Pháp, tại Hà Nội và Sài G̣n, được
thành lập 2 TOÁN Thiếu Sinh Quân, nhân số TSQ vào thời kỳ nầy, mỗi
TOÁN chỉ có 10 người. Từ đó các Trường hay Toán, tại những nơi khác,
lần lượt được thành lập, và nhân số các Thiếu Sinh Quân được thu
nhận cũng từ từ tăng lên từ 10 đến 20 rồi 50.
Ngoài Bắc có các Toán Thiếu Sinh Quân: Móng Cái, Núi Đèo, Đáp Cầu,
Phủ Lạng Thương, Việt Tŕ, Hà Nội; tại miền Trung có Trường Thiếu
Sinh Quân Huế, (trước tọa lạc tại thành Mang Cá, sau dời vào Thành
Nội Huế); trong Nam có các TrườngThiếu Sinh Quân Đông Dương (tại
Vũng Tàu), Thủ Dầu Một (tại Tỉnh B́nh Dương), Đa Kao (tại Tỉnh Gia
Định), Thành Ô Ma (Tại Tổng Nha Cảnh Sát cũ Sài G̣n), Đặc Lắc (tại
Thị Xă Đà Lạt); Ban Mê Thuột (tại Tỉnh Ban Mê Thuột), và Trường
Thiêu Sinh Quân Mỹ Tho (tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho).
Về phương cách huấn luyện và điều hành của các Toán hay Trường, đều
rập theo khuân mẫu của các Trường Thiếu Sinh Quân của Quân Đội Pháp
tại Pháp Quốc.
Sau Hiệp Định Genève 1954, (chia đôi Đất Nước) các Trường Thiếu Sinh
Quân Miền Bắc được di chuyển vào Miền Nam, và được sát nhập vào
Trường Thiếu Sinh Quân tại Tỉnh Lỵ Mỹ Tho.
Trong tổ chức của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chúng ta, có Quân
Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, đào tạo và cung cấp cho Quân Đội
những Sĩ Quan Hiện Dịch, Chuyên Nghiệp, Quân Trường Vơ Khoa Thủ Đức,
đào tạo và cung cấp cho Quân Đội những Sĩ Quan Trừ Bị; Quân Trường
Đồng Đế (Nha Trang), huấn luyện và đào tạo những Sĩ Quan cũng như Hạ
Sĩ Quan hiện dịch cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Duy nhất chỉ có một Quân Trường đă đào tạo và cung cấp cho Quân Đội,
không những Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan Cấp Úy, Sĩ Quan Cấp Tá và cả những
Sĩ Quan Cấp Tướng Lănh, đó là Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam Cộng
Hoà.
Về cấp Tướng Lănh, điển h́nh qua 2 Vị Tướng, gốc Thiếu Sinh Quân:
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vận là Vị Tướng Lănh đầu tiên của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà; Ông có công lao rất lớn trong việc gầy dựng Quân
Đội Quốc Gia Miền Nam; và Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Vị Tổng Tham Mưu
Trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộnh Ḥag Hoà.
Tiếp theo các Tướng Lănh đàn Anh, c̣n có các Tướng khác như Trung
Tướng Nguyễn văn Là (cựu Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực), Trung Tướng
Nguyễn Hữu Có (Cựu Tổng Trưởng Quốc Pḥng), Thiếu Tướng Nguyễn Sĩ
Quang, Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng (Cựu Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt),
Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc (Cựu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1/Quân Khu I),
Thiếu Tướng Đào Duy Ân (Cựu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3/Quân Khu III),
Thiếu Tướng Trương Quang Ân (Cựu Tư Lệnh Sư Doàn 23/ Khu 23 Chiến
Thuật), Chuẩn Tướng Lư Ṭng Bá (Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 25/ Khu 31
Chiến Thuật). Tất cả đều là những vị Tướng kiệt xuất trong hàng ngũ
Tướng Lănh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, một ḷng trung thành với
Đất Nước Dân Tộc.
Ngoài các Tướng Lănh kể trên, từ nơi ḷ luyện thép Thiếu Sinh Quân,
c̣n cung cấp cho Quân Đội hàng trăm hàng ngh́n Sĩ Quan Cấp Tá, Cấp
Úy, và Hạ Sĩ Quan, rải đều cùng khắp 4 Quân Khu, 4 Vùng Chiến Thuật,
hiện diện đều trong các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà, nhiều nhất là trong các đơn vị hành quân tác chiến.
Đơn vị nào cũng có Thiếu Sinh Quân, và luôn được cấp chỉ huy tin
dùng ở đức tính “gan ĺ can đảm” trên trận mạc. Đâu đâu cũng có
những đứa con trung kiên của đất nước, đồng cam lao cộng khổ với các
Chiến Hữu khác, để cùng chia sẻ những nổi nhọc nhằn với Đất Mẹ Việt
Nam, trong suốt 30 năm chinh chiến giữa Quốc Gia và Cộng Sản.
Giai đoạn chuyển tiếp bắt đầu từ thời Pháp thuộc chuyển qua thời kỳ
ảnh hưởng Hoa Kỳ, tức là từ năm 1954 đến năm 1956.
Giai đoạn này rất là căng thẳng, v́ phái bộ viện trợ Hoa Kỳ không có
ngân khoản dự trù cho các trường Thiếu Sinh Quân và họ đề nghị với
Bộ Quốc Pḥng Việt Nam Cộng Hoà cho giải tán hết tất cả 6 Truờng
Thiếu Sinh Quân hiện có tại Miền Nam Việt Nam.
Nhưng rất may, đến giớ phút chót, nhờ ân đức của Tống Thống Ngô Đ́nh
Diệm và Trung Tướng Lê Văn Tỵ (đang là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân
Lực), Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm có quyết định:
Không những không giải tán, mà c̣n ra lệnh cho Tổng Tham Mưu Ttưởng
Quân Đội, cho tập trung hết tất cả 6 Trường Thiếu Sinh Quân hiện
hữu, nhập lai chung thành một trường Thiếu Sinh Quân thống nhất,
tổng cộng 1,350 TSQ đồng di chuyển về Vũng Tàu, và được nâng cấp lên
thành “Quân Trường” có tầm vóc Quốc Gia, với danh xưng “Trường Thiếu
Sinh Quân Việt Nam”, vào ngày 01 Tháng 06 năm 1956.
Ngân khoản đài thọ cho Quân Trường Thiếu Sinh Quân được du di từ
ngân khoản dành cho Quân Đội Quốc Gia hiện hữu.
Từ ngày Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam được chính thức thành lâp
(tháng 6 năm 1956, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, trải qua 19
năm, có thể nói là thời kỳ “CỰC THỊNH” của Trường Thiếu Sinh Quân
Việt Nam.
Tính từ khi mới thành lập những Toán TSQ (năm 1899) đến năm 1975,
Quân Trường Thiếu Sinh Quân đă đào tạo và cung cấp cho Quân Đội được
6,000 đứa con yêu cho đất nước, những cán bộ Quân Sự chuyên nghiệp
cho Quân Đội có tŕnh độ Văn Hoá bậc Đại Học như:
- Các cựu TSQ tốt nghiệp từ Quân Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, có
bằng Cử Nhân Khoa Học Thực Nghiệm, điển h́nh như Cựu TSQ Đặng Phương
Thành, Cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh, và một số Huynh Đệ cùng Khoá khác.
- Các cựu TSQ, tốt nghiệp Trường Đại Học Sư Phạm, với Bằng Đại Học
Sư Phạm. Sau khi tốt nghiệp, được điều động trở về Trường TSQ, làm
Giáo Sư Văn Hoá, để tiếp tục đào tạo và dạy dỗ đàn em TSQ. Điển h́nh
như: cựu TSQ Lê Văn Hai, cựu TSQ Chu Văn Hải và một số đông các cựu
TSQ khác.
Các cựu TSQ có Bằng Cử Nhân Luật, sau khi tốt nghiệp, được Bộ Ngoại
Giao tuyển dụng, để trở thành những Tùy Viên Quân Sự cho các Sứ Quán
VNCH tại các nước đồng minh trên thế giới, điển h́nh như cựu TSQ
Nguyễn Quang Mông, cựu TSQ Đặng Văn Dũng và một vài cựu TSQ khác.
Các cựu TSQ tốt nghiệp Trường Quân Y hay Dân Y, có bằng Y Khoa Bác
Sĩ, điển h́nh như cựu TSQ Trần Thế Tùng tức nhà văn sử học Trần Đại
Sỹ. Ngoài Trần Thế Tùng, c̣n có rất nhiều Y khoa Bác Sĩ Quân Y, điển
h́nh như cựu TSQ Đỗ Đ́nh Tưởng, Hoàng Đ́nh Thái,.và một số đông Quân
Y Sĩ khác; sau khi tốt nghiệp, họ được bổ sung đi các các đơn vị
hành quân tác chiến.
Trước ngày Quốc Phá Gia Vong, vào năm 1972-1973 , c̣n có 2 cựu TSQ
được giữ chức vụ Tỉnh Trưởng, đó là cựu TSQ Hồ Ngọc Cẩn (Tỉnh Trưởng
kiêm Tiểu Khu Trưởng TK/ Chương Thiện vào năm 1973), và cựu TSQ
Nguyễn Ngọc Ánh (Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng TK/ B́nh Tuy vào
năm 1972).
Tiếp nối đàn anh, gần ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nhóm 07 TSQ may
mắn được trực thăng Mỹ “bốc đi”, nay đă trở thành những chuyên viên
cao cấp của Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ, có Bằng Tiến Sĩ, có người đang là
Giáo Sư Đại Học, (nghành Sinh Lư Hoá = Bio-Chemist) đang phục vụ tại
Cơ Quan Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ, điển h́nh như cựu TSQ Phi Quang Khải
(mang cấp bậc giả định Chuẩn Tướng).
Sau năm 1975, kiểm điểm chỉ c̣n lại 1,500 Huynh Đệ TSQ mà thôi. Như
vậy, máu xương cũa TSQ đă cống hiến cho Đất Mẹ Việt Nam lên đến ¾ =
75% nhân số.
Đàn anh dẫn dắt đàn em trong ngày khai giảng niên học mới
Đă trải qua 34 năm, kể từ ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị” BỨC
TỬ”, vào gần kề và trong thời gian ”Quốc Phá Gia Vong” đó, vẫn c̣n
những “Đứa Con Yêu” của Tổ Quốc, những cán bộ trung kiên của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà, kể cả một Quân Trường mang tên Thiếu Sinh
Quân Việt Nam, nêu gương bất khuất, không chịu đầu hàng Cộng Sản,
vẫn cương quyết chiến đấu đến giờ phút cuối cùng, xuyên qua 3 sự
kiện “Lịch Sử “ như sau:
1. TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG VÀM CỎ TÂY VỚÍ CỐ ĐẠI TÁ CỰU TSQ ĐẶNG
PHƯƠNG THÀNH:
Ngày 16 tháng 04 năm 1975 (2 tuần trước ngày mất nước), trên kinh
Thủ Thừa thuộc Tỉnh Long An giáp giới Sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng
Thuỷ Bộ gồm có Giang Đoàn Đặc Nhiệm 99 với gần 100 giang đĩnh, do Vị
Tư Lệnh Hải Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, cấp tốc thành lập để
kịp thời đáp ứng cho nhu cầu của đất nước đang cơn ngặt nghèo, dầu
sôi lửa bỏng, hợp cùng Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, do Đại
Tá Đặng Phương Thành, (gốc Thiếu Sinh Quân, tốt nghiệp Khóa 16
Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam) đă chận đánh Công Trường 5 thuộc
Quân Đoàn 232 Cộng Sản Bắc Việt. do Tướng Cộng Sản Lê đức Anh Chỉ
Huy, ngăn không cho đơn vị này (Công Trường 5) vượt qua Sông Vàm Cỏ.
Trung Đoàn 12 Bộ Bộ Binh và Lực lương Thuỷ Bộ 99, đă đánh một trận
để đời tại ngă ba Sông Vàm Cỏ Tây, Cộng quân phải khiếp đảm kinh hồn
tháo chạy, để lại trên chiến địa trên 3,000 xác cán binh tử trận.
Máu Cộng Quân loang đầy ḍng sông. Xác Cộng quân lấp đầy con kinh
Thủ Thừa ra tận đến bờ Sông Vàm Cỏ.
Nhưng rồi….Người Hùng Đặng Phương Thành phải chịu kiếp tù đày khổ
sai. Nhớ lại cái hận của trận thảm bại năm xưa (tại ngă ba Sông Vàm
Cỏ Tây), và nhân cơ hội cựu TSQ Đăng Phương Thành đứng ra tổ chức
vượt ngục…bị bắt trở về: trong đêm trời vần vũ mây đen, tại căn hầm
“khổ sai” biệt lập, các bạn “tù” kế cận, nghe được tiếng “Kêu Trời”
và những tiếng rên la uất nghẹn của người Anh Hùng thất thế sa cơ….
Sáng sớm hôm sau, khi sương mù c̣n giăng phủ, người ta lờ mờ thấy
mấy tên cai ngục lôi xác một người từ trong xà lim bỏ ra ngoài…rồi
ra lệnh cho các bạn tù khác khiêng đi chôn. Các “tù” Quân Nhân
QL/VNCH mới nhận ra thân xác của Đại Tá Đặng Phương Thành, ḿnh mẩy
tím bầm, môi mắt sưng vù, miệng c̣n động vũng máu tươi, chết một
cách tức tưởi, thật thảm thương !!! Đúng là Mănh Hổ sa cơ, lũ Chồn
Cáo chia nhau xẻ thịt.
2. TẠI TỈNH LỴ CHƯƠNG THIỆN VÙNG 4 CHIẾN THUẬT VỚICỐ ĐẠI TÁ TỈNH
TRƯỞNG CỰU TSQ HỒ NGỌC CẨN
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn xuất thân Khóa 2 Sĩ Quan đặc
biệt Trường Đồng Đế (Nha Trang), với cấp bậc Chuẩn Úy giữa năm 1962.
Thuộc Binh Chủng Biệt Động Quân, Ông là một trong “NGŨ HỔ TƯỚNG”
Miền Tây, bởi những chiến tích lẫy lừng trong những cuộc hành quân
có tên “Dân Chi” của Sư Đoàn 21 Bộ Binh (Khu 42 Chiến Thuật). Ông
cũng là Vị Trung Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Chiến Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9
Bộ Binh đến tăng cường, giải vây An Lộc. Năm 1972, sau trận An Lộc,
Ông được vinh thăng Đại Tá đặc cách mặt trận, và được bổ nhiệm giữ
chức Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện (năm
1973). Với tính t́nh cương trực, yêu thương đồng đội, quí trọng dân
chúng, Đại Tá Cẩn đă rất thành công trong chức vụ ”Tỉnh Trưởng kiêm
Tiểu Khu Trưởng” Tiểu Khu Chương Thiện. (Lính mến, Dân thương).
Vào những ngày cuối cùng của “THÁNG TƯ ĐEN”, với tinh thần bất
khuất, sẵn mang “ḍng máu Thiếu Sinh Quân Chống Cộng” trong người,
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng một số chiến hữu “gốc Thiếu Sinh Quân” cùng
nhau ngăn chặn Cộng quân, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.
Theo tài liệu ghi chép lại, Đại Tá Cẩn cùng 4 chiến hữu gốc TSQ
trong đó có Trung Sĩ Vũ Tiến Quang, và 1 tài xế, trấn thủ trong một
pháo đài xây trước Tiểu Khu (cạnh Ṭa Hành ChánhTỉnh).
Sau vài giờ, từ khi Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng
Sản vô điều kiện và kêu gọi các đơn vị và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà
buông súng “đầu hàng” để “bàn giao”, một toán khoảng 15 cán bộ Cộng
Sản hăm hở đi vào Toà Hành Chánh Tỉnh để nhận bàn giao. Tất cả lũ
“Vẹm” chưa được đặt chân đến “thềm” trước cửa Ṭa Hành Chánh Tỉnh
đều bị bắn ngă gục.
Sau đó, Cộng quân huy động cả Tiểu Đoàn Bộ Binh thêm 4 chiếc M.113
của VNCH (chiến lợi phẩm) ùn ùn mở cuộc tấn công tràn vào. Với 2
khẩu Đại Liên M.60 và khẩu đại bác không giựt 57ly, từ trong
“Bunker” thay nhau khạc đạn, 4 chiếc M.113 đều bi bắn cháy bất động.
quân Cộng sản vội rút lui ra xa. Chúng chỉnh đốn lại hàng ngũ, rồi
lại tấn công…Trận chiến kéo dài cho đến chiều. Cộng quân cũng vẫn
không tấn chiếm được pháo đài (Bunker) nầy. Cho đến khi Đại Tá Cẩn
cùng 4 chiến hữu chiến đấu đến viên đạn cuối cùng th́ mới chịu thúc
thủ để cho “tên” tài xế chĩa súng bắt buộc phải buông súng đầu hàng.
Trận chiến được kết thúc với trên 100 cán binh Cộng Sản bị hạ; Đại
Tá Hồ Ngọc Cẩn và các Chiến hữu bị Cộng quân bắt giữ.
2 chiến sĩ Anh Hùng (gốc Thiếu Sinh Quân) bị hành quyết tại chỗ ngay
sau đó. Riêng Đại Tá Cẩn bị chúng đặt trên một xe 4×4 mui trần chạy
chung quanh Tỉnh Lỵ, phát loa kêu gọi “Đồng Bào” đến dự cuộc “đấu tố
“ Tội Ác”??? Đại Tá Cẩn, 2 tay bị trói quặt sau lưng, đứng thẳng,
ngẩng đầu nh́n về phía trước, dơng dạt nói trước đám đông dân chúng
(mọi người hiện diện, trên gương mặt đều có một nét buồn chán sâu
xa). Ông nói: “Tôi nhận thấy, tôi không có làm điều ǵ có lỗi với
đồng bào, dân cư trong Tỉnh, th́ làm sao tôi lại có tội với nhân
dân!!! Nếu nói rằng tôi có tội!!! th́ chỉ có cái tội “Tôi bất tuân
thượng lệnh không chịu buông súng đầu hàng Cộng sản”, c̣n hơn thế
nữa, chúng tôi vẫn tiếp tục cầm súng chiến đấu chống lại bọn chúng
tới cùng.”
Sau đó, Cộng quân giải Đại Tá Cẩn về Tỉnh Cần Thơ, khổ sai giam cầm
Người, hành hạ đủ điều, cuối cùng bị Cộng quân đem ra “hành quyết”
vào sáng ngày 14 tháng 8 năm 1975 tại sân banh Cần Thơ dưới sự chứng
kiến của hàng ngàn dân chúng (bị bắt buộc phải đi chứng kiến). Trong
số này có một chứng nhân c̣n sống, phu nhân của Cố Đại Tá Nguyễn Văn
Phát. Bà Nguyễn Thị Vi viết trong tác phẩm tựa đề 14.8.75 Ngày cuối
cùng của Đại Tá HỒ NGỌC CẨN:
“Ba giờ sáng, mỗi nhà một người cùng ra đi, đến tập hợp tại văn
pḥng khóm, nơi đă được tên tổ trưởng cho biết trước từ chiều hôm
qua. Nhà nào cũng phải có người đi, không được vắng mặt, đặc biệt
nhà có Sĩ Quan đi học tập, th́ phải là người chủ gia đ́nh, nghĩa là
Cha Mẹ hay người Vợ. Lư do, địa điểm không được biết trước. Lúc đó
người ta đoán lờ mờ có lẽ th́ cũng đi “mít tinh” như những lần
trước. Cũng được gọi tập hop lúc 3 giờ sáng, rối được dẫn đi bộ tới
nơi cử hành lễ, xa trên 2 hay 3 cây số! Lần này th́ chắc cũng vậy
thôi, cũng đến rồi đi…rồi cùng nhau phải la lớn, hô to các khẩu hiệu
“hoan hô” “đả đảo”. Với những thân người uể oải, gương mặt buồn rầu
đầy lo lắng, những đôi mắt ngơ ngác trắng bệch v́ mất ngủ, những mái
đấu bù rối không được chải gỡ, mà gỡ để làm ǵ? Khi tất cả mọi người
đều cần phải tự biến dạng con người ḿnh cho được xấu đi, tàn tạ đi
để hoà hợp cho giống h́nh hài của lũ người man rợ; Để chúng bớt chú
ư, v́ lư do thấy ḿnh sạch sẽ tươm tất th́ sẽ bị chúng để ư theo
dơi, hay sẽ bị chúng nh́n bằng cặp mắt căm thù, ghen ghét, rồi có
thể bị gọi đến hỏi thăm, bị tù, bị mất nhà như chơi. Chúng sẽ ghép
cho cái tội lảm t́nh báo phản động?!!. Như những người khác, tôi
cũng có mặt lúc 3 giờ sáng hôm ấy. Với chiếc áo bà ba nhạt mầu và
chiềc nón lá bung vành, bộ đồ ngụy trang đặc biệt mà tôi thường dành
để đi dự lễ và hội họp, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 75. Lách ḿnh
chen vào đám đông để t́m một chổ sáng nhất, tôi đứng ngay trên hàng
đầu để cho tên tổ trưởng, khóm trưởng thấy mặt, với dụng ư là để cho
chúng điểm danh có đi họp, để tránh bị theo dơi báo cáo, để không bị
ghép vào tội phản động, tội làm t́nh báo cho Mỹ, chứ không phải để
nghe bọn chúng giáo điều. Sau một lúc điểm danh nhanh chóng, đầy đủ
mặt (đâu có ai dám vắng mặt), tên khóm trưởng ra lệnh sắp hàng đôi,
rồi đi. Tất cả cùng gập đầu răm rắp nghe theo, mà không được biết là
đi đâu?!. Đặc biệt lần này đi trong im lặng, không bị kêu hô hoan
nghênh đă đảo ǵ hết !! Như một đoàn “ma trơi” đi trong sương lạnh.
Từng cây thịt chệnh choạng bước, nối đuôi nhau, câm lạnh nghẹn
ḷng!!. Thành phố Cần Thơ c̣n ngáy ngủ, ch́m trong ánh sáng lờ mờ
của ánh đèn đường thưa thớt đầy hơi sương, không khí nặng nề khó
thở. Đêm vẫn chưa tàn, cánh Thu buồn ảm đạm, mây giăng ngập trời một
mầu xám sậm thê lương!! đó đây như nức nở !! Như oán than, như muốn
gào, muốn thét lên; tiếng thét câm hờn !! hận ngh́n trùng !! “Họa
Cộng sản đă bao trùm đất nước Việt Nam”. Cần Thơ, Tây Đô Thành, ngày
nay vương đầy màu máu! khắp lối đều đỏ! nhuộm đỏ cả những đôi mắt
nhung huyền của những thiếu phụ Miền Nam. Khởi đi từ đường Lê văn
Duyệt, đoàn người chúng tôi được dẫn đi qua đường Trần Thanh Cần,
Phan Đ́nh Phùng, Nguyễn An Ninh, rồi Nguyễn Tường Tộ, thẳng vào “sân
vận động” của Tỉnh. Trên đường đi, chúng tôi cũng gặp đoàn người
khác đông và dài ngoằn ngoèo như đoàn của chúng tôi, từ các ngă
đường kéo đến, nhập vào rồi cùng đi. Họ cũng là những người như
chúng tôi, bị bắt buộc tập họp, rồi bị dẫn đi, cũng không được biết
trước là đi đâu và để làm ǵ ? Đến sân vận động, tôi nh́n thấy nơi
đó đă có rất đông người đến trước. Đặc biệt là ở đó đây có nhiều tên
cán bộ Cộng sản, tay cầm súng lăm le có vẻ quan trọng lắm, nét mặt
chau choắt đăm đăm, chúng ngẩng cổ nh́n soi bói từng người với vẻ
căm hờn cay đắng! Một cảm giác lạ đến với tôi như có một điềm ǵ báo
trước. Tôi rùng ḿnh ớn lạnh. Mọi người chắc cũng có cảm giác như
tôi, im lặng nh́n nhau lo sợ, đợi chờ. Trời âm u buồn! Buổi b́nh
minh như không chịu đón ánh sáng mặt trời !!! mỗi người trong lúc đó
như không có buổi ban mai .. !!.. - Làm ǵ đây? Lễ ǵ đây? Tiềng x́
sào người nọ hỏi người kia: - Ai cũng không biết !! - Chắc là đón
cán bộ cao cấp trung ương xuống nói chuyện ? - Không biết !! Sống
dưới chế độ Cộng sản, người dân muốn được an thân thường hay phải
nói “không biết”. Giữa sân vận động một chiếc bàn dài được đặt sẵn,
chung quanh đây đó đầy sắc cờ được dựng lên ngoài mầu cờ xanh đỏ gọi
là “cờ giải phóng quân” của chúng, c̣n có cờ lễ như các cây phướn đủ
màu như đám cúng “tống ôn” của thầy pháp. Ngoài cổng nhiều đoàn
người tiếp nối tiến vào, có nhiều chiếc xe hàng to lớn chở đầy
người, có lẽ người ở ngoại ô, nơi Quận Xă cũng bị bắt buộc đến. Tất
cả mọi người cũng như tôi, cứ phải đứng như vậy trong nhiều giờ,
đứng măi, đứng chai cứng người, đứng đến ngất xỉu luôn !!… Khi mặt
trời lên cao, nh́n đồng hồ của người bên cạnh đă 9 giờ 30, nhiều đám
người vẫn tiếp tục đến càng lúc càng đông hơn, chật ních cả sân vận
động. Từng đoàn, từng đoàn được xếp đứng ngay hàng lối, c̣n lại một
lối vào chạy thẳng đến chiếc bàn dài để ở giữa sân. Tiếp đó 4 chiếc
quân xa chở đấy ấp cán bộ Cộng sản đến. Đám này ăn vận màu xanh và
đen cùng với chiếc nón tai bèo trông thật là ngốc nghếch, thằng nào
mặt cũng đầy sát khí, hăm hở như khỉ ăn được đậu phộng rang. Có
tiếng x́ xèo nho nhỏ: “H́nh như xử án? Mà xử ai vậy? Câu hỏi lọt vào
tai tên “cán bộ 30” đứng gần đó, tên này lớn tiếng ra cái điều sành
sỏi:- Hôm nay cách mạng lập ṭa án nhân dân xử mấy tên “phản động”
bán nước đó. Tiếng x́ xào bị cắt đứt bởi tiếng máy nổ của đoàn xe từ
cổng chạy vào, nhiều chiếc xe jeep và quân xa nối tiếp nhau, giữa
đoàn là một xe bít bùng, tất cả dừng lại giữa sân. Các tên Cộng sản
cấp cao trên mấy chiếc jeep leo xuống đến ngồi vào bàn. Những tên
nầy ăn mặc hoàn toàn khác biệt với đám cán bộ địa phương, chúng ăn
vận quần áo ka ky mầu xanh lục, áo 4 túi bỏ ngoài, đầu đội nón cối.
Lúc ấy người ta gọi là “bộ đội chánh quy”. Mặt chúng đầy sát khí,
với đôi mắt sâu hoắm, xương g̣ má nhô cao, cầm th́ bạnh ra, miệng hô
hốc, nước da ch́ xanh mốc… họ cố sửa tướng ngồi cho có vẻ (?), nhưng
sao tôi vẫn thấy như là ở nơi họ có một cái ǵ biến đổi h́nh người
của họ thành ra dă thú sát nhân. Trên các quân xa đầy ắp cán bộ với
đầy đủ vơ khí cá nhân. Chúng nhẩy xuống chạy nhanh bao quanh làm một
ṿng rào người, những tên có nhiệm vụ chạy đến sau chiếc xe bít
bùng, cửa được mở ra… từ trên xe nhẩy xuống một người hai người rối
ba người….người nào cũng bị c̣ng quặt ra sau lưng. Tôi nh́n kỹ hơn,
có một người cao lớn mặc bộ bà ba đen, h́nh như có một nét ǵ quen
thuộc lắm.. Trời ơi !!! Đại Tá Cẩn!!! ĐạiTá đây sao? Tôi chỉ thầm
hỏi với ḷng tôi trong tiềm thức nức nở nghẹn ngào !! Mắt tôi mờ
dần… đầu quay quắt mạnh, cổ nghẹn cứng, ngực nặng chĩu, tay th́ lạnh
buồt, chân run, choáng váng!!… Tôi ngồi bệt xuống một chút, cố nén
ḷng để không bật ra tiếng nấc, v́ tôi biết trong các buổi mít tinh,
hội họp, rải rác trong đám đông luôn luôn có bọn chúng gài vào để
nghe ngóng, để sách động hô hào. Tôi nhắm mắt h́nh dung lại quang
cảnh “toà án nhân dân” trong cuốn phim “Chúng tôi muốn sống” của Lê
Quỳnh, quang cảnh hôm nay thật giống cảnh trong phim, cảnh đấu tố xử
án tại miền Bắc sau năm 1954. Với mấy cái nón cối để trên bàn, với
tập hồ sơ dầy cộm, những tờ giấy trước mặt 5 tên cán bộ “răng hô”
ngồi nơi bàn. Chúa ơi !! Tôi sợ quá !! Làm sao bây giờ? Không biết
làm sao để trốn ra khỏi đám thú vật và rừng người này? Lúc đó tôi
mới thấy ḿnh sai lầm khi chọn đứng vào chỗ trước hết, đứng cho tổ
trưởng nó thấy mặt mà, nhưng nếu biết trước được sự việc nầy th́
chắc là tôi đă phó mặc cho chúng nó ghi sao th́ ghi, báo cáo sao
cũng được. Tôi sẽ vắng mặt ở nhà không đi hôm nay, hay cùng đường
lắm th́ chỗ đứng của tôi hôm nay là nơi sau cùng của đám đông này,
để đừng xem, đừng thấy ǵ hết. Làm sao bây giờ? Không làm sao được
v́ mọi người đều đứng im. Từ nơi bục gỗ, bên mặt chiếc bàn, tên cán
bộ tay cầm tờ giấy mở ra bắt đầu đọc, đại ư là thành lập toàn án
nhân dân.. Chúng đọc, đọc nhều trang, nhiều tờ, mà tôi có nghe được
ǵ đâu, Lúc ấy chắc mọi người cũng như tôi, tất cả mọi người đều hồi
hộp nh́n những người bị đem ra xử. Với đầu óc quay cuồng, quanh bao
ư nghĩ ṭ ṃ, đen thui.. tôi nghĩ, ngày nào, rồi đến ngày nào thật
gần hay xa đến lượt ḿnh và người thân của ḿnh sẽ bị đem ra xử?!.
Tên thứ nhất dứt lời, đến tên thứ hai ngồi giữa cũng tiếp tục nh́n
vào giấy đọc, thỉnh thoảng nh́n lên rảo mắt đám đông như hăm he dằn
giọng. Danh từ “phản động” “bán nước” được chúng lập lại nhiều lần
như đang muốn nhai sống thịt tươi. Cứ mỗi lần chúng phát âm đến tên
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tôi cố dằn ḷng, nén tâm để nước mắt không tràn
xuống rèm mi, cố mở đôi mắt nh́n Đại Tá vóc dáng hiên ngang, mặt
rạng rỡ không hề mất niềm tin, mắt sáng miệng như mỉm cười, nh́n
thẳng về đằng trước, mặt ngước cao, nh́n vào khoảng trời rộng mênh
mông… Đại Tá không nh́n về phía bàn, không nh́n bọn chúng như không
muốn nghe, muốn thấy ǵ ở cái lũ độc ác vô lương. Miệng Đại Tá mấp
máy như đang cầu nguyện, như muốn nói lại lời ǵ để nhắn nhủ đến
toàn quân, toàn dân, tất cả những người của miền Nam yêu dấu, như
muốn trả lời câu hỏi của Tổ Quốc quê hương. “ANH ĐĂ LÀM G̀ CHO ĐẤT
NƯỚC ANH CHƯA?” Th́ đây là lúc Đại Tá Cẩn đă được dịp trả lời: Hôm
nay, tôi được làm tṛn bổn phận của người trai, đáp đền ơn nước. Và
chắc trong ḷng “người” cũng có chút ước mơ, mơ về các bạn đồng ngũ
yêu mến, cũng cùng có một lư tưởng, một niềm tin, Sống Tự Do và
Quyết chết cho Tự Do. Cả rừng người im lặng, không khí nặng nề nghẹt
thở, nhiều tiếng thở nhanh, dồn dập theo giọng nói lớn của tên cán
bộ xử án: “Tử H́nh”. Tôi chỉ nghe được vậy, một danh từ không quen
thuộc, chưa bao giờ đến bên tai tôi bởi bất cứ miệng người nào. Từ
ánh mắt như nh́n vào cơi mênh mông rồi bị lôi kéo vào thực tế, ĐạiTá
Cẩn nh́n thẳng vào bọn chúng, b́nh tĩnh hiên ngang, không một chút
sợ sệt, đang sẵn sàng chờ đợi cái chết. Sau tiếng “Tử H́nh” chúng
tiếp: “Anh muốn nói ǵ không? Để tỏ lượng khoan hồng, nhân dân cho
phép anh nói lời sau cùng”. C̣n ǵ để nói khi bọn nó đă nói quá
nhiều, những lời bày vẽ đặt điều, gán ghép buộc tội, rồi sau cùng
cũng tự chúng kết án ra lệnh xử tử, mà bản án đă được viết sẵn, cái
ǵ cũng ghi là theo đ̣i hỏi của nhân dân. Bỗng từ những chiếc máy
phóng thanh vang ra liên tiếp: “Đả đảo, Đả đảo; Tử h́nh, tử h́nh”.Cả
rừng người nhứt loạt bắt buộc la theo, la to theo lệnh của tổ
trưởng, khóm trưởng đứng gần đó. Ngoài ra c̣n những tên cán bộ giả
dạng dân, len lỏi vào cùng đứng với đám đông, xách động: “Hăy hô lớn
lên bà con, hô lớn lên, lớn lên Tử h́nh tử h́nh”.Lúc đó thân tôi như
ch́m ngập trong biển người…Chúa ơi!! tất cả đă trở nên độc ác, khát
máu hết rồi sao? Không đâu, trông kia cũng có nhiều người họ giống
tôi, mặt bơ phờ, xanh mét, môi mấp máy không thành lời, nhưng họ cố
lay động làm như cũng đang hô theo. Mắt tôi lúc nầy không rời Đại Tá
Cẩn. Đại Tá Cẩn hô to: * VIỆT NAM CỘNG H̉A MUÔN NĂM… * ĐẢ ĐẢO CỘNG
SẢN… Nhanh như cắt, nhiều tên cán bộ đang cầm súng đứng quanh vội
nhào tới, tên đứng gần nhất nhanh tay rút chiếc khăn trong túi, nhét
vào miệng Đại Tá Cẩn, rồi đưa mũi lưỡi lê đẩy chiếc khăn sâu vào
thêm và nói: “Câm miệng lại”. Những tên khác kẻ nắm khuỷu tay, kẻ
lấy tấm vải đen đă được chuẩn bị sẵn bịt mắt Đại Tá Cẩn, với hai tay
vẫn bị c̣ng ra sau, Đại Tá Cẩn nghiêng người lắc đầu như tỏ ư đừng
bịt mắt, tôi không sợ, nhưng sau đó, chúng cũng cột mảnh vải đen vào
mắt người, mở trói tay và dẫn đến đứng trước hàng bộ đội Cộng sản 5,
6 tên, tay cầm súng lăm le sẵn sàng chờ lệnh. Sau đó một tiếng hô
to, một loạt súng nổ, tiếp theo sau là tiếng nổ nhỏ, gọi là phát
súng ân huệ bắn thẳng vào trán Đại Tá Cẩn. Đại Tá ngă gục! Quá xúc
động, tôi cũng ngă theo, bất tỉnh, không c̣n nghe thấy ǵ nữa. Khi
tỉnh dậy, những bà con hàng xóm chứng kiến cuộc xử bắn Đại Tá Cẩn
cũng bàng hoàng xúc động. Họ bảo tôi “Cố gắng lên chị, ḿnh về đi,
xong hết rồi” Tôi chệnh choạng bước đi, chân nặng nề nương bên cánh
tay một người bạn cố gắng bước đi, đi thật nhanh khỏi chỗ này. Tôi
không dám quay nh́n lại, đầu óc quay cuồng, choáng váng, ḷng đầy
uất hận, chạnh nghĩ đến những người thân, đến người chồng, những anh
quân nhân QLVNCH giờ đây đang bị giam cầm, đang bị đầy đoạ trong
ngục tù Cộng sản. Rồi đây sẽ đến phiên ai, người nào sẽ bị đưa lên
đây hành quyết xử bắn . Nước mắt tôi chảy dài, tôi khóc, khóc nức
nở. Nước mắt và tiếng khóc cũng không làm vơi được niềm uất hận
trong tôi. Đi bên tôi c̣n mấy người lạ trông thấy vậy hỏi tôi: “Bộ
chị có bà con với người bị xử tử à?” Im lặng tôi không trả lời.
Trong lúc ấy tôi nh́n thấy những toán bộ đội Cộng sản mặt mày hờn
hở, nói cười luôn miệng, làm như chúng vừa thắng được một trận
chiến, giết được người cùng ṇi giống Việt ! Con người vô nhân độc
ác vậy sao? Thượng Đế ơi! Cúi xin Ngài hăy thương xót! Xin thương
xót chúng con, những người Việt Nam đă chịu nhiều đau khổ v́ chiến
tranh, v́ tai họa Cộng sản, đă đổi hướng xoay chiều, đưa cả giang
sơn nước Việt vào con đường chết, con đường đỏ màu máụ Cúi xin
Thượng Đế hăy giúp chúng con, giúp những người Quốc Gia Việt Nam yêu
nước giữ vững niềm tin chờ ngày phục hận, đem lại ánh b́nh minh vào
“Lư Tưởng Tự Do” . Xin cho anh hồn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được nhẹ nhàng
và măi măi ghi sâu vào ḷng mọi người Việt Nam yêu Tổ Quốc hôm nay.
(Để tưởng nhớ và kính dâng anh hồn người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn) .
VÀ "CÁI BÓNG CỦA HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN" VŨ TIẾN QUANG
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh
Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20
tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ
Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với
hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị
Quỳnh Chi mới tṛn một năm. V́ có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức
được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là
thư kư ṭa hành chánh. Nhờ đồng lương thư kư, thêm vào tiền tử tuất
cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu
thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng
Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một
học sinh trung b́nh trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học.
Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: "Ngôi sao sa trường:
Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ", bài báo thuật lại:
Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra
trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2
trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại
Chương Thiện. Quang nảy ra ư đi t́m người hùng bằng xương bằng thịt.
Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh
cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh
Quân. Quang suưt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao
tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của
Quang. Quang nghĩ: "Ḿnh phải như anh Minh".
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin
mẹ nộp đơn cho ḿnh nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang
không mấy vui vẻ, v́ Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân,
rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh th́…nguy lắm. Bà không
đồng ư. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói
dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân th́ cha phải
thuộc chủ lực quân, c̣n cha Quang là địa phương quân th́ không được.
Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử th́ ưu tiên
nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, th́
tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đ́nh, trong khuôn khổ
nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang t́m đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường
Thiếu Sinh Quân. Đă không giúp bà Đức th́ chớ, Minh c̣n đi cùng
Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường.
Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến pḥng 3, tiểu khu Chương
Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong pḥng 3 Tiểu Khu, có
Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm
tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ư, th́ ḿnh sẽ mất thằng em dễ
thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng tŕnh bầy
trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn
của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh
Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu tŕnh diện.
Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt
Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có
nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt
ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học
quân sự. C̣n học văn hóa th́ Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy,
không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong
lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà
Quang đă có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với
cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang
mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến
câu:
"Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh"
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút ḷng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào
cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được
giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh
tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang
cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần B́nh Trọng, từ chối công danh,
chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi
đối diện với quân thù, không sợ hăi, lại c̣n tỏ ra khinh thường
chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về
thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang t́m đến các đàn anh
trấn đóng tại Chương Thiện để tŕnh diện. Quang được các cựu Thiếu
Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe.
Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu
như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây
ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ
Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu
chuyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến
trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đă đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh.
Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh
nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra
trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan
cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan
ngoăn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông
cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Pḥng, thuộc
Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn
31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy,
thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên
thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố
vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống th́ hiệu thính
viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta.
Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang
nói lại trong máy.
Trung đội tiến vào trong làng th́ lọt trận điạ phục kích của trung
đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn
địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút th́ Hummer bị thương. Là
người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân.
Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai th́ Hummer lại bị trúng đạn nữa,
anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng vơ
trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng vơ trang. V́
được học địa h́nh, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh
cho trực thăng vơ trang nă vào pḥng tuyến địch, coi như Hummer c̣n
sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ c̣n khoảng cách
20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng
khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, th́ chỉ xin bắn vào trận địa
địch với khoảng cách quân ḿnh 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm
1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp
nhau để ăn uống, siết chặt t́nh thân hữu, đă đưa ra phương pháp táo
bạo là xin bắn vào pḥng tuyến địch, dù cách ḿnh 20 thước. Quang đă
được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng vơ trang nă vào
trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân ḿnh,
làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê
liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên
đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hơm vào; hai viên
khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không th́ Quang đă ô-hô
ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng
không th́ Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng
trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực
thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
V́ được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng ḿnh là
người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi
Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị
gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới ḷi đuôi chuột ra rằng
các ông cựu Thiếu Sinh Quân đă uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra
trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra
ṭa v́ "Không có tư cách mà lại chỉ huy". Nhưng các vị sĩ quan trong
sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của
chiến trường, tính t́nh phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang
không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết
hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong
đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt
Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan
truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lư
tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp
bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được
toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu
đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là
giấc mơ 6 năm trước của Quang đă thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng
kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu
trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu
Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng
Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu
đoàn 2-31 dẫn Quang đến tŕnh diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp
nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, th́ mày
thuộc loại ḿnh đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng
đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng th́ không đau. Nhưng vuốt anh cấu th́ đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Th́ vuốt của anh phải
sắc lắm.
- Hồi đó suưt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ th́ em mới sợ. Cái ḷ Thiếu Sinh Quân có
bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đă tŕnh diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết
mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra,
th́ quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng
là cựu Thiếu Sinh Quân th́ lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo
nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những
người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đă đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự
ra đi của người đàn anh, của người hùng lư tưởng làm Quang buồn
không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính
khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu
Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một
khinh binh. Đợi một vài tháng đă quen với chiến trường, rồi mới được
chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa tŕnh diện, Quang được cử
làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp
trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui ḷng. Họ tuân
lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung
sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học
sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975,
tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải
tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945,
do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn
luyện. Quang đă được Đại Ttá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến
trường:
"Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền
thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn
chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung
đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội
ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, th́ chúng bắn xối
xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu
yếu thế, th́ chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, th́ sẽ dẫm phải
ḿn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. V́ vậy khi đối trận với
chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi
chúng bắt đầu xung phong, th́ dùng vũ khí cộng đồng nă vào giữa,
cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, th́ tấn công hai bên, chứ đừng
đuổi theo. C̣n như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới
gần rồi mớí phản công".
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống.
Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả.
Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp,
sau 15 phút đại đội đă tấn công vào trong làng. Vừa tới b́a làng,
thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang
thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến
gần trăm mét. Đến đây, th́ phi pháo không can thiệp được nữa, v́
quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại
lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch.
Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn,
ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận
vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
"Lát nữa khi chúng xung phong th́ dùng M79 diệt hai khẩu đại liên,
B40, rồi hăy bắn trả".
Sau gần 20 phút, th́nh ĺnh địch xả súng bắn xối xả như mưa, như
gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang
khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung
phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn,
toàn bộ pḥng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn
hầm, binh sĩ không dám lại gần, v́ bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang
ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh ḅ
lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu,
ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Th́ ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu
thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban
nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được
gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ
chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm
quàng ṿng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp
đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau.
Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có
dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu
táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên
Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đ́nh đính ước với nhau. Họ cùng
đồng ư : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17
tuổi, th́ cho cưới nhau.
Nhưng mối t́nh đó đă đi vào lịch sử…
T́nh h́nh toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau
lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi
Quân Đoàn 1 bỏ mất lănh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được
Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ c̣n mười người.
Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đ́nh. Quang
vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện tŕnh diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.
Cẩn an ủi:
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn
Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-ḥa buông
súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ
chiến bào, về sống với gia đ́nh. Một vài đơn vị lẻ lẻ c̣n cầm cự.
Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-g̣n ngừng lúc 9 giờ 7
phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống
lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đă nằm trong tay ông.
Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh
buông súng. Chỉ c̣n tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra
lệnh:
"Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không
có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hăy tiếp tục chiến đấu".
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, v́ quân ít,
v́ hết đạn v́ mất tinh thần. Chỉ c̣n lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong
bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên
bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, th́ đạn
hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ c̣n
một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên.
Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng
Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh
trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ
đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của
đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
- Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi
cũng vẫn chiến đấu. V́ anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh
ra lệnh chiến đấu, th́ tôi không thể căi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên
chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền
tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang
tàng:
- Đại tá có lư tưởng của đại tá, tôi có lư tưởng của tôi. Đại tá
theo Karl Marx, theo Lénine; c̣n tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng.
Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lư tưởng của tôi. Tôi không gọi
đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với
chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó
ngôn ngữ của đảng Cộng-sản?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ th́ mày có chính nghĩa hay tao có chính
nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai th́ người đó có lư. Nhưng đối với
tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ
bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy
tôi có chính nghĩa, c̣n đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu
Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa th́ tôi không thể là ngụy. C̣n Cộng quân dùng
súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính
khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần B́nh Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục
vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao th́ mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu
tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận
mày là tên Việt Cộng không? Th́ mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngă bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng
trên môi người thiếu niên c̣n nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ,
thành ra không mường tượng ư nghĩa nụ cười đó là nụ cười ǵ? Độc giả
của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cựi đó mang ư nghĩa nào? Nụ
cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa
măn?
Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến
Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột
của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi
(cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc
Bodoret, học tṛ của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngă xuống, th́ trong đám đông dân chúng ṭ ṃ đứng
xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ
những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là
Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đă thuê được
chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe,
rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba
ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm
ra cúng mộ anh, th́ thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh,
chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích
thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện
bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi
đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi
dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-g̣n, chúng tôi thuê xe
đi Chương Thiện, t́m lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi
nông một nấm dăi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết
đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đă t́m ra. Cô khóc
như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng,
nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền th́ mua tiên cũng
được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên
Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt
Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lăng mạn. Tôi
đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái ḥm.
Bodoret hoan hô ư kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên
miếng đồng hàng chữ:
"Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa măn v́ thực hiện được giấc mộng"
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu
Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết,
được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng:
Quang thỏa măn nở nụ cười v́ mối t́nh trọn vẹn.
Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ. (Từ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)
3. TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN QUÂN QLVNCH VÀ CUỘC “CHỐNG TRẢ” SAU
CÙNG.
Đồng bào trong nước, và dân cư Vũng Tàu c̣n nhớ, cũng như Người Việt Quốc
Gia Tỵ Nạn Cộng Sản Hải Ngoại nghe truyền tụng rằng: “Giờ thứ 25”,
giờ phút sau cùng của Ngày “TANG CHỀ” của toàn thể Quân Dân Việt Nam
Cộng Hoà, 30-04-1975, về sự hào hùng kháng cự, của các “Chú lính tí
hon” Thiếu Sinh Quân, tự chỉ huy (không có cán bộ nhà Trường), cho
đến giờ phút cuối cùng.
* Trong lúc đó, tất cả các đơn vị, trước đây đồn trú tại Vũng Tàu
đều “ră ngũ”;
* Trong khi tại Thủ Đô Sài G̣n, T.54 Cộng sản đă ủi sập cổng chính
Dinh Độc Lập và chiếm cứ Thủ Đô Việt Nam Cộng Hoà của chúng ta.
Chỉ có hai nơi, vẫn c̣n đang tiếp tục kiên cường chiến đấu, kháng cự
không chịu buông súng đầu hàng giặc Cộng. Đó là tại Tỉnh lỵ Chương
Thiện do Vị Tỉnh Trưởng gốc Thiếu sinh quân, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
(được tường thuật ở đoạn trên) và Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam
Cộng Ḥa tại Thị Xă Vũng Tàu.
Trường Thiếu Sinh Quân trấn đóng ngay cửa ngơ con đường dẫn vào Thị
Xă Vũng Tàu. Cộng quân huy động cả Trung Đoàn Bộ Binh để tấn chiếm
Vũng Tàu trên đường xâm nhập từ Tỉnh Bà Rịa vào Vũng Tàu, bắt buộc
phải xuyên qua cửa ải Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Đoàn quân
Cộng sản, khi vừa tới ngă ba “Bến Đ́nh & Vũng Tàu” th́ chạm ngay một
lực lượng chống trả (địch chưa biết rơ thực lực của TSQ), trấn thủ
bên trong ngôi thành vách đá rộng lớn, phía trước cổng có đề chữ
Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Các Thiếu Sinh Quân đóng kín cửa
trường, và từ các lỗ châu mai, với những khẩu Đại Liên M.60, các
khẩu phóng lựu M.79, các khẩu súng trường M.16, thi đua nhau khạc
đạn chận đoàn quân Cộng sản đang hùng hổ tiến vào…sau vài lần cố
vượt qua, nhưng tất cả đều bị bắn ngă… Cuối cùng Công Quân phải điều
động một Chi Đội T.54 từ Tỉnh Bà Rịa đến trợ chiến, dùng Đại Bác 100
ly của chiến xa bắn thủng cửa thành, gây thêm thương tích cho một
vài em TSQ bên trong… Chiến xa dàn trận…Cộng quân phát loa kêu “đầu
hàng”!!
T́nh h́nh nội bộ bên trong Trường, lúc bấy giờ có khoảng 1,000 chú
ĺnh tí hon: 7/10 dưới 14 tuổi), phần c̣n lại là các em lớp 12 cũng
dưới 18 tuổi, tổ chức thành các Đại Đội chiến đấu, y như các bậc đàn
anh “Lính Chiến” chuyên nghiệp, của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, (các
Đại Đội TSQ được chỉ huy bởi các em lớp 12), Một số bị thương (tự
băng bó lấy, không có y tá cũng như Bác Sĩ). Không có ai “nấu cơm
cho ăn” như thường ngày… V́ sức cô, thế yếu trước đoàn quân hung
hăng của Cộng sản có cả T.54 trợ chiến, buộc ḷng các em phải cử
phái đoàn cầm cờ trắng ra “thương thuyết”. Một em Thiếu Sinh Quân
lớp 12 tiến đến gặp viên Chính Ủy để ra điều kiện: “Các Ông không
được tiến lấn thêm một bước nào nữa và phải để cho chúng tôi làm lễ
hạ Quốc kỳ và cuốn lại Quân kỳ, th́ chúng tôi mới chịu “đầu hàng”.
V́ muốn đạt được mục tiêu “Chiếm Thị Xă Vũng Tàu” như đă dự định,
(đă bị các TSQ cầm chận hơn nửa ngày tại ngă ba đường vào Vũng Tàu),
trong cái thế chẳng đặng đừng !!! Hơn thế nữa, không biết trong
trường TSQ có bao nhiêu “Chiến Binh gan ĺ”? chịu tử thủ, tiếp tục
chống cự.??.. Viên Chính Ủy phải chấp nhận ”điều kiện” của người đại
diện Thiếu Sinh Quân. Và các Em tập họp trước Vũ Đ́nh Trường…trịnh
trọng cử hành lễ hạ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà và cuốn lại Quân Kỳ
của Trường Thiếu sinh Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Như vậy, mặc dù các Em TSQ chịu “gác súng” đầu hàng, lực lượng Cộng
quân đang ở thế thượng phong, nhưng tên Chính Ủy của đoàn quân đang
đà chiến thắng, cũng phải nể phục, đứng nh́n Quân kỳ của Trường
Thiếu Sinh Quân có thêu ba chữ “Nhân Trí Dũng” cuốn lại và lá Quốc
Kỳ “nền vàng ba sọc đỏ” của Việt Nam Cộng Ḥa từ từ hạ xuống, một
cách trịnh trọng và trang nghiêm.
Trong khi trước đó, tại Dinh Độc Lập Sài G̣n,(phía trước tiền đ́nh
Dinh Độc Lập) một tên cán binh”quèn”, leo lên sân thượng, hạ cờ Quốc
Gia xuống, và cột cờ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” lên, một cách
rất ư là cẩu thả.
Sau khi làm lễ “hạ kỳ”, khoảng 1,000 em Thiếu sinh Quân bị Cộng quân
giam lỏng trong khuôn viên nhà trường; Nhưng rồi, lần hồi trong đêm
tối, nhờ am tường địa h́nh địa vật nơi ngôi “Trường Mẹ”, các em mở
cửa sau, lẩn vào “Núi Lớn” Vũng Tàu, đào thoát ra được hết bên
ngoài, ḥa nhập vào đoàn người đang trốn chạy nanh vuốt của “loài
quỷ đỏ” Phương Bắc.
Trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, đă trải qua bao nổi thăng trầm,
theo thời gian và thời cuộc. Nhưng Ba chữ Thiếu Sinh Quân vẫn c̣n
”Trơ gan cùng tuế nguyệt”; Tập thể Cựu Thiếu Sinh Quân Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà tại Hải Ngoại, hiện nay vẫn c̣n mộng ước trở về Đất Tổ
Việt Nam, để cùng nhau quang phục Quê Hương Xứ Sở.
Bài của Cựu TSQ/QLVNCH Nguyễn Ngọc Ánh
Với phần bổ túc về Người Lính Nhỏ Chính Khí Lớn Vũ Tiến Quang
của Yên Tử
Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh