Đinh văn Tiến Hùng
Tết là ngày trọng đại mang nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt nam.Tết gợi lên những vui tươi đầm ấm nhất của t́nh gia đ́nh,
thân tộc và bạn bè. Những với người tù chính trị Tết mất hết cả ư
nghĩa trên.
Chỉ c̣n ba ngày nữa là Tết đến với chúng tôi, những người tù tại
miền rừng núi thâm sơn chướng khí giá lanh này, nên người địa phương
có câu ‘Nước Sơn la,ma Nghĩa lộ’.Hoa dại đang thi nhau phô sắc trên
đỉnh núi mây mù giăng toả mà chúng tôi gọi là’Cổng trời’. Đứng trên
nh́n xuông phía dưới chỉ toàn màu trắng đục. Ngồi trên phiến đá cùng
người bạn tù, lấy hai củ khoai ăn lót dạ sau khi leo lên tới đỉnh đă
thấm mệt. Ăn xong vẫn c̣n thấy bụng cồn cào, sợ không đủ sức làm,
tôi nói với bạn :
- Chúng ta t́m quanh đây xem có ǵ ăn được không ?
- Ngoài măng c̣n ǵ nữa !
- Thôi cũng được, có c̣n hơn không.
Chúng tôi đứng lên kiếm một bụm măng non.Thật ra chẳng phải t́m kiếm
khó khăn,v́ đây là đỉnh vầu mọc nhiều hơn giang.Vầu là một loại
giống cây tre, nhưng to và dài hơn nhiều,người Sơn cước dùng làm
máng dẫn nước từ trên núi xuông bản làng. Măng vầu khi đă trồi khỏi
mặt đất ăn rất đắng, nhưng c̣n ch́m dưới đất ăn lại rất ngọt – nhiều
người v́ quá đói và thèm chất ngọt ăn nhiều bị sốt rét phù thủng –
H́ hục đào bới măi mới moi lên mặt đất một bụm măng bằng cổ tay.
Đang ăn ngon lành anh bạn ngừng hỏi :
- Bạn trong ban tổ chức mừng Xuân, tối qua họp bàn có ǵ lạ không ?
- Truyền thống muôn đời không thay đổi.Văn nghệ đón Xuân, viết báo
liếp (làm ǵ có tường), mỗi người ba cái bánh chưng bằng ḷng bàn
tay, ba gói thuốc lá Tam đảo, Đồ sơn, thịt trâu già xào với rau
lang.
- Thôi cũng được, có c̣n hơn không!
Tôi mỉm cười v́ câu nói chua xót hoà vốn của người bạn được nhắc
lại.Sau khi chặt đủ chỉ tiêu mỗi người 10 cây giang, chúng tôi chuẩn
bị hạ sơn khi ánh nắng đă lên cao,v́ buổi chiều c̣n phải về sớm chẻ
lạt cung cấp cho nhà bếp gói bánh.V́ đường dốc lại trơn trựơt không
đủ sức vác cả bó xuông núi, nên mỗi người khắc tên ḿnh vào từng
cây. Đứng trên lao xuống và hô thật lớn :
- Xuống cây ! Xuống cây !
Tiếng hô vang vọng núi đồi để bạn tù phia dưới biết mà tránh cho an
toàn. Khi lao hết số cây, chúng tôi men theo đường ṃn xuống núi,
t́m đủ số cây gom lại vác về trại. Khi băng qua ḍng suối chúng tôi
dừng lại rửa mặt chân tay.Tiếng nước chảy róc rách qua khe đá cùng
với tiếng chày rơi đều đều vào ḷng cối mà người Thiểu số đă lợi
dụng sức nước chuyển động để giă gạo. Bọn cán ngố gọi là ‘Chiếc chày
tự giác’ mà người dân tộc nhờ ‘Đỉnh cao trí tuệ’của cán bộ Bác Đảng
hướng dẫn, đă biết vận dụng thiên nhiên thay cho sức người, cũng như
chiếc xe ba gác kéo tay vang danh một thời của nhân dân tỉnh Kiến an
để biến sức người thay sức ngựa.
Tôi đang bực ḿnh v́ sự khoe khoang ngu dốt của những đỉnh cao trí
tuệ loài người, bỗng nghe tiếng cười vang của các cô gái Thái từ
trên đỉnh đồi đi xuống lấy nước. Khi nh́n thấy những người tù ốm
yếu, rách rưới, các cô e ngại dừng bước. Chúng tôi hiểu ư gật đầu
làm hiệu rồi đi lên. Hai cô gái c̣n rất trẻ, nước da trắng trẻo, mặc
quần đen áo trắng có riềm màu sặc sỡ nổi bật giữa núi đồi hoang dại.
Nhưng với thân phận người tù có ‘tức cảnh sinh t́nh’cũng đành để
lắng đọng trong tâm hồn ḿnh. Theo đuổi những ư nghĩ quên cả sức
nặng bó giang đè trên vai áo rách, chúng tôi lầm lũi theo con đường
ṃn về trại mà đâu hay mùa Xuân đang về trên cây cỏ rừng chiều hoang
lạnh !
Chiều 30 Tết, khung cảnh trại tù được trang hoang sạch sẽ hơn mọi
ngày. Ngay chiếc cổng tre ra vào hàng chữ đỏ nổi trên tấm vải vàng
:”Chúc mừng năm mới “.Trước các lán (nhà), khẩu hiệu được treo lên
theo chỉ thị như :”Lao động là vinh quang – Vui Xuân không quên học
tập lao động tốt- Xuân về Bắc Nam xum họp, nhà nhà yên vui”.Trong
hội trường phía trước là cờ đỏ sao vàng với h́nh Hồ chí Minh. Phía
trên là hàng chữ ‘Không có ǵ quí hơn độc lập tự do’,dưới ảnh ‘Bác
Hồ vĩ đại sống măi trong sự nghiệp chúng ta’. Chung quanh hội trường
treo những tờ báo liếp được cắt dán loạn xạ từ những tờ báo Liên sô,
Nhân dân, Quân đội hay Sài g̣n giải phóng…với đủ các h́nh màu hí
họa, các bài thơ và các câu châm ngôn của lănh tụ như :’Hoà b́nh
phát sinh từ ṇng súng (Mao chủ tịch)- Thiên tài chỉ có 10%, c̣n 90%
nhờ lao động không ngừng (Lê-nin)- Không có ǵ qúi hơn độc lập tự do
(Hồ chủ tịch)- Xưa yêu phong cảnh thiên nhiên đẹp, Mây gíó trăng hoa
tuyết núi sông, Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết
xung phong (Bác Hồ với văn thi sĩ miền Bắc)- Bàn tay ta làm nên tất
cả, Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
(Tố Hữu) – Mưa lớn coi như mưa nhỏ, mưa nhỏ coi như không mưa. Mỗi
người tích cực làm việc bằng hai (Châm ngôn lao động trại).
Sở dĩ chúng tôi cóp nhặt tài liệu trong báo nhiều hơn là tự chế v́
đa số anh em không muốn bộc lộ tâm tư ḿnh.
Tối 30 thay v́ tổ chức đón giao thừa, cán bộ cho chúng tôi nghỉ lao
động sớm để chuẩn bị ngày mai đón Xuân mới.V́ thực ra nếu có tổ chức
lấy ǵ mà đón giao thừa. Pháo th́ không có. Đạn th́ phải để cho bộ
đội biên pḥng ngăn giặc không đuợc bắn bậy. Đồ ăn lại không có tiêu
chuẩn cho đêm 30. Khi ‘cửa chuồng’(danh từ tù viên đặt để chỉ nhà tù
bằng tre nứa hai tầng giường giống chiếc chuồng gà khổng lồ) đóng
lại, chúng tôi tụ tập từng nhóm. Người nhắc lại những kỷ niệm vui
buồn về Xuân, vài anh ca nhè nhẹ những khúc nhạc Xuân quen thuộc.
Nhóm Công Giáo quây quần quanh vị Tuyên trẻ tĩnh tâm ít phút trước
khi dự Thánh lễ giao thừa âm thầm khó nghèo thật cảm động.
Khi tiếng cồng bằng trái bom vỡ vang dội núi rừng, trại tù hoàn toàn
im ĺm đen tối, nhường lại cho những âm thanh huyền bí núi
rừng.Tiếng cựa ḿnh của những bạn tù không ngủ, c̣n thao thức với
những suy tư dằn vặt về thân phận ḿnh và đồng bạn trong đêm Xuân
đầu tiên biệt xứ. Giá lạnh sương đêm dâng lên mỗi lúc một nhiều,
cùng với cơn đói cồn cáo ruột gan bào ṃn thân xác….
Sáng ngày mùng 1 Tết, không phải thức dậy 6 giờ như ngày thường và
đuợc miễm vác đá.V́ cứ mỗi sáng vừa nhảy xuống giường, đă nghe tiếng
c̣i réo gọi của những tên quản giáo, bắt mọi người lao xuống suối
vác một tảng đá chạy ngược lên đồi, xếp thành đống lớn chuẩn bị xây
nhà tù biệt giam.Việc làm này không được miễn ngay cả những ngày mùa
đông mưa phùn gíó bấc lạnh buốt da thịt,có lẽ cũng là tác dụng làm
cho người tù tỉnh ngủ và quên lạnh.
Mùng Một Tết được ngủ đến 8 giờ sáng, nhưng mọi người đă thức dậy.
Không khí trong pḥng xôn xao hơn ngày thường, tiếng chào gọi chúc
nhau:’Chúc năm mới khỏe mạnh! Chúc sớm xum họp với gia đ́nh!’ Tôi đi
một ṿng chúc các bạn tù. Riêng anh TĐB người bạn rất thân cùng Binh
chủng LLĐB–mấy hôm nay bị tiêu chảy c̣n quá yếu vẫn nằm trên
giuờng.Tôi tiến đến vỗ nhẹ lên người anh :”Chúc bạn sớm b́nh phục!
Hăy cố gắng lên!’Anh khẽ gạt đầu rơm rớm nước mắt. Anh B và tôi đă
cùng sống với nhau qua nhiều trại tù miền Bắc, cùng chia sẻ đắng cay
tủi nhục để cố vượt qua mong có ngày trở về. Rồi tôi chuyển trại vào
Nam và được phóng thích trước anh mấy tháng. Khi anh trở về chúng
tôi vẫn liên lạc thường xuyên.Tôi sang Hoa kỳ định cư trước anh.
Những ngày đầu vội vă bận rộn mưu sinh nơi quê nguời, tôi chưa kịp
liên lạc cùng bạn bè nơi quê nhà, th́ một hôm đọc báo qua lời Phân
ưu mới biết anh đă vĩnh viễn ra đi. Ôi những năm tháng nghiệt ngă
trong lao tù anh đă gượng sống mong ngày trở về, nhưng anh lại nằm
xuống khi những ước vọng làm lại cuộc đời chưa thực hiện được….
Đúng 9 giờ cửa pḥng giam mở, sắp hàng lên hội trường. Các đội lần
lượt vào hội trường, trên tay mỗi người cầm một chiếc ghế tre để
ngồi.Bọn cán bộ và vệ binh cũng có mặt đông đủ, quân phục gắn quân
hàm (cấp bậc) và chúng không quên mang theo vũ khí. Một lát sau tên
trại trưởng và cán bộ ‘khung’ bước vào sau tiếng hô nghiêm, mọi
người đứng dậy.
Buổi lễ bắt đầu bằng nghi thức chào cờ và suy tôn lănh tụ.Tiếp theo
tên chính trị viên đọc thư chúc Tết của Chủ tịch Nước gửi đồng bào.
Một trại viên (tù binh) đại diện đọc thư chúc Tết cán bộ và toàn thể
trại viên (bài được soạn sẵn theo ư của chính trị viên). Sau cùng
tên trại trưởng mang quân hàm thiếu tá vuốt áo ngay ngắn đứng lên,
cất cao giọng thuộc ḷng như vẹt :
“ Nhân danh thủ trưởng trại, đại diện Nhà nước, Đảng và cán bộ trại,
tôi gửi lời chúc các anh trại viên một năm mới: học tập lao động tốt
để sớm xum họp với gia đ́nh. Nhà nước và Đảng luôn quan tâm đến các
anh, đặc biệt năm nay lần đâu tiên các anh đuợc hưởng một cái Tết
tại miền Bắc với 30 năm’ tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xă
hội chủ nghĩa’. Miền Nam gọi, miền Bắc thưa. Suốt 20 năm chống Mỹ
cứu nước, miền Bắc là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam từ hạt
gạo bẻ đôi, hạt muối cắn làm hai để mới có như ngày hôm nay. Nam Bắc
đă thống nhất, nhưng hậu quả của Mỹ-ngụy để lại c̣n nặng nề cần phải
cải tạo để miền Nam theo chân miền Bắc đi lên. Các anh là những
người lầm đường, đă tiếp tay phá hoại Đất nưóc.Tội các anh trước
nhân dân rất lớn, nhiều như lá rừng nước biển, nhưng các anh nếu
biết thành tâm hối cải, học tập lao động tốt sẽ được nhân dân và nhà
nước khoan hồng để sớm trở thành người công dân tốt, hữu ích cho gia
đ́nh và Đất nước….”
Gịong điệu này chúng tôi nghe đă quá chán không biết bao nhiêu lần
mỗi khi lên lớp học chính trị. Chúng tôi tự hỏi: ”Không biết 30 năm
xây dựng XHCN miền Bắc như thế nào, mà xe chở tù chạy suốt dọc đường
qua các phố thị, làng mạc, chỉ thấy nhà cửa xiêu vẹo, ruộng vườn xác
xơ. H́nh ảnh hai phụ nữ gầy ốm xanh xao gồng người kéo cầy, cùng cụ
già áo rách đẩy phía sau làm tôi không sao quên đuợc. Những nhà cũ
kỹ từ thời Pháp c̣n sót lại lên mầu nâu xậm. Người đi bộ nhiều hơn
xe đạp nơi các thành phố. Những ngôi nhà thờ, chùa chiền vắng tiếng
chuông v́ đă biến thành hợp tác xă nông nghiệp hay chăn nuôi. Nhưng
chẳng thấy lúa gạo, trâu ḅ, gà vịt đâu cả, có lẽ đă chi viện cho
miền Nam hết rồi.’Tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc’ quá đến nỗi
trẻ em không đuợc cắp sách đến trường, mùa đông ngồi trước căn nhà
lá xiêu vẹo với chiếc áo rách mong manh, trông nhà cho cha mẹ đi lao
động XHCN. Những cô gái dâng cả tuổi xuân cho Bác và Đảng trong Nông
trường tập thể. Bao thanh niên vượt Trường sơn vào Nam để chôn xác
nơi khe núi rừng sâu.
Mải suy tư tôi chẳng để ư tên thủ trưởng nói tiếp những ǵ cho tới
khi mọi người lục tục ra khỏi hội trường, mặt trời đă gần đứng bóng.
Đội nhà bếp thông báo anh em lănh tiêu chuẩn ba ngày Tết. Mỗi ngừoi
ba bánh chưng bằng ḷng bàn tay, ba gói thuốc lá hay thuốc lào. Phần
ăn trưa: một chén cơm (thực đơn cao cấp) v́ ngày thường chỉ ăn khoai
hay sắn, một chén thịt trâu hầm (tính luôn cả xương và da), một chén
rau lang xào với ba miếng ḷng bằng đốt ngón tay và nước chè tươi
không giới hạn tiêu chuẩn.- Bữa ăn của một gia đ́nh nghèo nhất tại
miền Nam đón Xuân c̣n thịnh soạn hơn nhiều, nhưng đối với người tù
đây là biến cố để đời.
Tối mùng một là chương tŕnh văn nghệ đặc biệt mừng Xuân do các tù
viên’ tự biên tự diễn’. Mở đầu là hoạt cảnh Táo cải tạo du Xuân do
một tù viên đóng vai Táo quân hia măo chỉnh tề. Ông Táo mặt mày hí
hửng, tay dắt xe đạp, vai mang cái đài (radio) và tay đeo chiếc đồng
hồ hai cửa sổ ( những đồ này cán bộ vui vẻ cho mượn vui Xuân), lững
thững bước ra, vạch ống tay áo xem giờ, vặn đài rú lên, cúi chào tứ
phía, rồi cất cao giọng :”Tôi là Táo cải tạo, trước khi về chầu Ngọc
Hoàng Thượng Đế tŕnh tâu mọi việc của trại trong suốt năm qua. Xin
chúc Quí cán bộ sống lâu trăm tuổi, quí anh em trại viên học tập lao
động tốt mau về đoàn tụ với gia đ́nh..”
Đang thao thao, bỗng tiếng đài tít tít báo hiệu giờ điểm.Táo quân
vội giơ đồng hồ lên xem hốt hoảng:”Chết rồi, đă đến giờ về chầu Ngọc
Hoàng, ta phải’ khẩn trương’ không trễ mất, cũng may có cái xe
đạp’tranh thủ’ cũng c̣n kịp.”Nói rồi dắt chiếc xe đạp chạy vào văng
cả hia măo. Hội trường được dịp tha hồ vỗ tay cười la hét cổ vũ. Có
vài anh c̣n hô to ‘Bis ! Bis !’. Bọn cán bộ cũng vỗ tay tán thưởng
nhiệt liệt. Nhưng chúng không ngờ màn hoạt cảnh vừa rồi anh em đă
nghiên cứu trước và được cán bộ chính trị thông qua – với mục đích
chế diễu phong trào “3 Đê” của cán bộ miền Bắc khi mới vào Nam sau
30/4/75 – đều ao ước có một chiếc xe Đạp mới, vai mang cái Đài và
tay đeo Đồng hồ hai cửa sổ.
Những màn tŕnh diễn tiếp theo gồm đơn ca, hợp ca, có cả vũ quạt,
múa nón do tù viên giả trai trông khá hấp dẫn. Cuối cùng là kịch vui
‘Xă Xệ, Lư Toét du
Xuân’gồm hai màn độc đáo. Xen kẽ c̣n có vọng cổ rất mùi…Buổi tŕnh
diễn kéo dài tới khuya mới chấm dứt.
Sáng mùng 2 lại được dậy trễ, tiếp tục các tṛ chơi như kéo giây,
nhạy bị, cướp cờ, chơi cờ tướng…Giải thưởng là báo ảnh, thuốc lào,
thuốc lá và bánh chưng.Tiêu chuẩn thực đơn giống ngày mùng 1. Nhân
dịp vui Xuân cho phát biểu ư kiến, chúng tôi đề nghị được thay đổi
thực đơn và tăng thêm khẩu phần cơm (v́ chỉ một chén cơm ăn vẫn c̣n
đói) đă được cán bộ trả lời :”Nơi miền rừng núi gạo rất hiếm, từ
miền xuôi (đồng bằng) chuyển lên có định mức nhất định.Thịt heo,
gà,vịt cũng thiếu, chỉ có thịt trâu do đồng bào thiểu số thông cảm
chia bớt cho trại (thực tế đó là những con trâu già ốm không c̣n cầy
bừa nổi nên thịt giai như cao su).V́ thế không thể thay đổi. Các anh
chịu khó khắc phục đợi đến Xuân sau.
Tối mùng 2 xem chiếu phim. Nhờ công lao vất vả của đội trực phải lặn
lội trên 10 cây số, gồng gánh khiêng vác máy và phim, vượt đồi lội
suối mượn từ huyện về, gồm 3 bộ phim ‘đặc sắc’ là “Chiến thắng Điện
biên – Giải phóng miền Nam và bác Hồ với thiếu nhi”.
Trước khi chiếu, cán bộ văn hoá huyện có dịp đề cao tuyên truyền
từng phim. Phim th́ cũ rích, ráp nối nên hay đứt.Tiếng’ thuyết minh’
rời rạc khó nghe, hoà với tiếng máy rè rè suốt 4 tiếng đồng hồ đưa
nhiều tù viên vào giấc mộng du Xuân, chỉ bừng tỉnh khi tiếng vỗ tay
trổi lên sau mỗi cuốn phim chấm dứt.
Cuộc vui nào rồi cũng qua mau, nhất là những cuộc vui gượng ép trong
chốn ngục tù lại càng qua mau hơn chẳng để lại chút ǵ vấn vương.
Tập tục dân tộc Việt nam là nghỉ ít nhất là 3 ngày Tết, có nhiều nơi
tại miền Nam kéo dài cả tuần với những Lễ Hội tưng bừng. Trong tù
bọn cán bộ nói cho nghỉ 3 ngày, nhưng đến ngày mùng 3 chúng bày tṛ
truyền thống ‘trồng cây nhớ ơn Bác’. Chỉ tiêu mỗi người 100 hốc sắn
đào trên đồi đá khô cứng. Những tên cán bộ vờ vĩnh tham gia công
tác, nhưng ở khu đất mềm trước ban chỉ huy và mỗi tên lănh bao nhiêu
hốc ai mà biết được, chỉ thấy chừng 1 tiếng sau chúng đă phủi tay về
trại. C̣n bọn chúng tôi h́ hục tới 5,6 giờ chiều mới xong.Về trại
c̣n phải lo tổng vệ sinh để sáng mùng 4 tiếp rục đi lao động sản
xuất cho đủ chỉ tiêu và kịp thời vụ.
Rửa tay chân xong về trại lănh khẩu phần mùng 3 Tết gồm hai củ khoai
lang và chén rau luộc chấm muối th́ trời đă tối. Đêm núi rừng xuống
mau mang theo giá lạnh gió núi sương rừng tê buốt cả thân xác và tâm
hồn.Từng người tù ngồi yên lặng trong bóng đêm, chậm chạp nhai từng
miếng khoai như những con trâu già nhai lại. Chúng tôi đang nghĩ về
thân phận ḿnh và đặc biệt các bạn tù bị biệt giam nơi hốc đá phía
sau đồi- về cuộc vui giả tạo vừa qua, về một chế độ coi con người
thua thú vật.Tiếng từ điếu thuốc lào rít lên của người bạn tù. Những
đóm lửa lập loè ma quái của đầu điếu thuốc đang cháy dở, mùi thơm
thoang thoảng bay theo gió rừng.
Bụng càng cồn cào khi ăn hết hai củ khoai và chén rau rừng, tôi định
bóc chiếc bánh chưng thứ ba c̣n lại ăn nốt. Nhưng lại thôi v́ chợt
nghĩ đến ngày mai cần ‘bồi dưỡng’ cho một ngày lao động kiệt lực.Tôi
giơ tay lên vuốt mặt, không ngờ nước mắt ḿnh đă trào ra. Các bạn tù
chắc cũng đang mang một tâm trạng như ḿnh. Lúc mày tôi mới hiểu
thấm thía câu “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”./.
Đinh văn Tiến Hùng
( Trích Nhật kư trong ngục tù Cộng sản )
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh