Đào Vũ Anh Hùng
LTS : Tổ Quốc đăng tải bài "Phan Nhật Nam - Dựa Lưng Nỗi Chết"
của tác giả Đào Vũ Anh Hùng, tuy không c̣n tính cách thời sự nhưng
chúng tôi nhận thấy mẫu chân dung nhà văn không chịu khuất phục
trước mọi thủ đoạn trả thù tàn độc của Cộng sản, mang ḷng cảm phục
người chiến sĩ cầm bút tiêu biểu của Miền Nam. Xin mời bạn đọc đón
nhận để biết đến thân phận những người cầm bút thất thế của Miền Nam
và đánh giá chế độ CSVN "nhân đạo" như thế nào ?
Lần cuối cùng, tôi gặp Phan Nhật Nam, vào một sáng Chủ nhật, đâu
khoảng hơn tháng trước ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản. Nam đang
đứng nói chuyện với nhà văn Vũ Bằng và nhà văn Mặc Thu trên lề đường
trước nhà ông Chu Tử và vợ chồng Đằng Giao, 104 đường Công Lư. Thấy
Nam trẻ trung tươi sáng trong bộ quân phục Nhảy dù vải kaki vàng
thẳng cứng nếp hồ với đầy đủ lon lá, huy chương và sợi giây Bảo quốc
rực rỡ, tôi thoáng ngạc nhiên v́ lần gặp gỡ trước Nam đă nói với tôi
rằng vừa giải ngũ. Tôi hỏi đùa:
― Bạn tôi quân cách rềnh ràng đi lănh thưởng ?
Tôi có ư trêu Nam về số tiền một triệu ông Chu Tử đề nghị báo Sóng
Thần tặng Nam về tác phẩm " Tù Binh Và Hoà B́nh " để bỉ thử giải Văn
học Nghệ thuật bần tiện của Thiệu. Nam cười lớn:
― Cái giải thưởng của bố già cậu sài mẹ nó hết rồi, có cụ Vũ Bằng
biết đấy !
Rồi Nam tự giải thích khi thấy tôi hóm hỉnh nh́n Nam với bộ quân
phục:
― Cậu Nam giải ngũ nhưng cậu Nam vẫn là lính Nhảy dù hợp lệ ! Nhưng
mà giải ngũ rồi chán quá mi ơi. Buồn cóc biết làm ǵ và thèm mặc lại
quân phục?
Xong Nam dịu giọng nói như than thở:
― Có lẽ tao lại phải làm đơn xin tái ngũ. Giải ngũ mà tao có cảm
tưởng xấu hổ như một thằng đào ngũ !
Tôi có chuyện cần, vội gặp ông Chu Tử nên không nán lại góp chuyện
với ba người và t́m hiểu chuyện Nam giải ngũ là đùa hay thật. Tôi
chào và leo lên gác. Lúc trở xuống th́ Nam đă không c̣n đấy nữa, và
đó là lần cuối cùng tôi gặp Phan Nhật Nam, cho đến ngày di tản và
cho đến bây giờ là sáu năm chia biệt.
Gặp Nguyên Vũ ở Fort Chaffee, gặp Lê Văn Mễ và một số bạn trong và
ngoài binh chủng Nhẩy dù thân biết Phan Nhật Nam, tôi đều hỏi thăm
và rơ chắc Nam cùng vợ con kẹt lại. Tôi rất buồn và lo lắng cho Nam
cùng các bạn văn không di tản được. Nhưng tôi nghĩ nhớ và lo lắng
cho số phận Phan Nhật Nam nhiều nhất. Là bởi, lần ra Hà Nội quan sát
vụ trao trả tù binh, Nam đă ngông nghênh ôm theo cả một lô sách "
Mùa Hè Đỏ Lửa " kư tặng các văn nghệ sĩ miền Bắc. Đó là tác phẩm để
đời của nhà văn chiến trường số Một của miền Nam viết về cuộc chiến
khốc liệt mùa hè 72, đầy rẫy lời thống mạ chủ nghĩa và tập đoàn lănh
đạo miền Bắc, phơi bầy thực chất phi lư bi thảm của cuộc nội chiến
và toàn vẹn bộ mặt bất lương đốn mạt của " anh Hồ cộng sản " - thứ "
nhân tài chết tiệt của dân tộc " - mà Nam đem đến tận nơi, dí vào
mắt chúng. Tôi thật phục Nam. Tôi vẫn muốn có dịp hỏi thăm Nam về
chuyến theo phái đoàn Ủy ban Liên hiệp Quân sự ra Hà nội và khi trở
về, Nam đă viết cuốn " Tù Binh và Hoà B́nh mà tôi chưa được đọc ".
Đối với tôi, Nam đă chiếm giữ một cảm t́nh đặc biệt. Tôi yêu cái văn
chương bốc lửa của Nam, thích cái con người tàng tàng ngạo nghễ của
Nam. Kỷ niệm tôi có với Phan Nhật Nam không nhiều nhưng đủ để tôi và
Nam coi nhau như bạn thiết. Tôi đọc tác phẩm đầu tay của Nam, cuốn "
Dấu Binh Lửa " nhân một kỳ nghỉ dưỡng sức trên Đà Lạt và đă say mê
cuốn hút, cảm phục văn tài, vô cùng thú vị với những ḍng thể hiện
sống động mạnh mẽ, hiên ngang, đậm sũng t́nh người, chứa chan ḷng
yêu quê hương đất nước ... Phan Nhật Nam, ngôi sao mới hiện nhưng đă
chói lọi trong giới quân nhân cầm bút. Nam hiện thực đời ḿnh, phổ
diễn tâm t́nh, cảm nghĩ của một người vững chắc lập trường quốc gia
nhân bản, hiện thực tấn thảm kịch đầy bi phẫn đau thương của cả một
thế hệ trong đó có Nam vừa thủ diễn vừa là chứng giả. Nam đă nói lên
được tiếng ḷng thầm kín cùng khát vọng chung của những người cầm
súng. Nam là gạch nối giữa những người lính chiến và dân thành thị.
Nhờ có tác phẩm của Phan Nhật Nam, dân thành phố ngụp lặn trong b́nh
yên hưởng thụ mới giật ḿnh biết đến và biết rơ mức độ thảm khốc của
chiến tranh cùng sự hy sinh quá lớn của người lính. Điều rơ rệt nhất
là Nam đă nói lên được cho nhân loại hiểu về cái chính nghĩa của
cuộc đấu tranh để tự tồn. Rằng những người lính Việt Nam Cộng Hoà
cầm súng và chiến đấu không phải v́ bản năng hiếu sát hay yêu thích
chiến tranh, mà là chiến đấu để tồn tại. Cho chủ nghĩa Quốc gia tồn
tại và nền Tự do Dân chủ của miền Nam tồn tại.
Trong các thiên bút kư chiến trường, Phan Nhật Nam đă cực tả được độ
cao cùng tột của chiến tranh tàn khốc, hiện thực được cả một trời
đất mênh mang thống hận trong ḷng người dân Việt trước cảnh tương
tàn đẫm máu, đă vẽ ra một thiện thân sừng sững của người lính Nhảy
dù chiến đấu hào hùng và chết rất hào hùng. Những đời trai trẻ quên
bỏ hạnh phúc, t́nh yêu, tương lai, sự nghiệp cùng những vui riêng để
bước vào chốn cùng hung cực hiểm, đầy rẫy gian lao khổ nhọc và bị vô
ơn bạc đăi nhưng vẫn lầm ĺ chịu đựng và dũng cảm xông pha trận mạc,
trực diện kẻ thù, đổ mồ hôi, xương máu lao thẳng vào đạn lửa, phóng
ḿnh vào nỗi chết cho giải đất miền Nam được tồn tại và người dân
miền Nam được sống c̣n.
Phan Nhật Nam là một nhà văn có chân tài. Ngôn ngữ xử dụng trong văn
chương Phan Nhật Nam là thứ ngôn ngữ hừng hực như lửa, mạnh mẽ như
gió băo, vững chắc như thành đồng, tha thiết, nồng nàn, chứa chan
nhân tính ...
Tôi gặp Nam lần đầu do Thế Phong đưa lại chơi nhà Nam ở đường Trần
Nhật Duật, Tân Định. Nhưng biết nhiều về Nam th́ qua bạn cùng khoá
với Nam là Vơ Ư. Tôi nhớ lần đó Nam nói khoái tôi v́ bài bút kư "
Dakseang Gối Mỏi Lưng Đồi " tôi viết trên tuần báo Đời và kư tặng
tôi cuốn " Mùa Hè Đỏ Lửa " với vỏn vẹn mấy chữ Tặng ông, bạn tôi làm
Thế Phong cười ngất :
― Nó là nhà văn đang lên, sách bán có tiền nên hà tiện chữ nghĩa cho
bạn bè !
Sau này tôi mới nói cho Nam biết cái thằng bay chiếc C&C cho tướng
Hậu nửa đêm vào Tân Khai trong trận băo Mannie, giữa mưa đạn pḥng
không Việt cộng mà Nam nằm dưới đất nh́n thấy khi theo chiến đoàn
trung tá Cần vào giải vây An Lộc rồi viết trong " Mùa Hè Đỏ Lửa "
chính là tôi, Nam có vẻ thống khoái v́ sự ngẫu nhiên ấy, cười khà
khà và phán một câu:
― Thấy chiếc máy bay, tao thương quá. Những thằng Không quân chân
hổng giữa trời, chết mà không biết thằng khốn nạn nào " chơi " ḿnh
th́ " lỗ " quá! Thực t́nh tao " rét " mày ạ, chết dưới đất vững hơn
... Ai ngờ lại là mày bay cho ông Hậu ! Hà hà ! ... Mày rơi đêm đó
là tao lại có tí đề tài " viết cho một người nằm xuống " !
Trong những ngày bôn ba chiến trận, thỉnh thoảng tôi có gặp Nam vác
máy h́nh theo quân Dù đi làm phóng sự. Nhưng thường là những lúc tôi
về Saigon cùng Nam và một vài bạn văn nghệ ghé La Pagode bù khú. Đó
là những lần tôi có dịp thán phục khoa đấu láo của Nam. Cái giọng
oang oang nửa Huế, nửa Quảng Nam, pha tí Bắc kỳ, một khi mở máy là
nói liên miên đủ thứ đề tài ... Có thể nói khoa tán phét của Nam vô
địch ! Nam có khả năng nói thao thao hàng giờ không ngưng nghỉ và
thật lôi cuốn, có duyên, ba hoa châm biếm bất cần thiên hạ.
Tôi nhớ nhất một lần đang đấu vung vít với chúng tôi, Nam bất chợt
để ư thấy một cô gái ngồi uống nước một ḿnh ở bàn bên cạnh. Cô gái
mặc đồ đầm, có nét đẹp kiêu kỳ sang cả của một thứ kiều nữ con nhà
giàu học trường đầm, châm hút điếu Salem. Thế là Nam kêu lên:
Tại hạ xin có ư kiến: Người đẹp mà hút Salem là không đúng sách vở !
Thế là Nam bỏ mặc câu chuyện dở dang với chúng tôi, kéo ghế qua bàn
cô gái. Tôi không nhớ Nam hút thuốc ǵ nhưng cũng là một thứ thuốc
lá đầu lọc và Nam bô bô quảng cáo cho hiệu thuốc của ḿnh với những
lời dẫn chứng theo sách vở, theo kinh nghiệm, theo thống kê, theo
lời " Khổng Tử xổm tọa chi viết " , theo lời khuyên của bác sĩ này,
nhà sản xuất nọ và Nam đem luôn chính trị, kinh tế, quân sự và cả
truyện chưởng Kim Dung vào bài hát nói! Nam nói một cách trơn tru
hữu lư. Trong cái hoạt kê quấy nhộn ấy, tôi thấy khẩu tài của Nam
vượt xa miệng lưỡi dẻo kẹo của những anh giang hồ bán thuốc Sơn
Đông. Những tay măi vơ láu cá vặt đó, hay những lời tuyên truyền của
mấy cậu mợ cộng sản nhà quê không thể duyên dáng bay bướm trí thức
như Nam được. Cô gái cuối cùng phải bỏ nét mặt lạnh lùng kênh kiệu,
bật cười ph́ và nhận điếu thuốc Nam mời. Bài tán láo của Nam dài gần
nửa tiếng đồng hồ và hai tay ăn tục nói phét có hạng trong mấy chúng
tôi hôm đó là Thế Phong và Dương Hùng Cường cũng phải chào thua Nam.
Đó là một vài trong những kỷ niệm tôi có với Phan Nhật Nam. Tôi yêu
và phục Nam không chỉ có văn tài và và khoa đấu hót. Nam thông minh,
hiếu động, tính t́nh thẳng trực, ngang tàng khí phách, đôi khi hành
động như một thứ " cao bồi văn nghệ " nhưng không nhố nhăng lố bịch.
Cái ngông nghênh tự phụ của Nam, đối với tôi không có ǵ quá đáng.
Tâm hồn Nam sâu sắc, nhiều t́nh cảm và rất tốt với bạn bè. Nam bị
kẹt lại v́ ngày 30-4 dắt vợ con vào nhà tướng Kỳ nhưng không thấy
ông tướng râu kẽm, bèn chạy qua DAO. Trước cảnh chen lấn cùng ám ảnh
một đảo Guam không hơn ǵ các trại đón dân tị nạn miền Trung, Nam
chán nản đưa vợ con trở về. Cộng sản tiếp thu Saigon, Nam như con
chuột mắc nạn trong bẫy xập, cuống cuồng sợ hăi v́ tin cộng sản sẽ
lùng giết. Phan Nhật Nam, đại úy Nhảy Dù, nhà văn chống cộng lẫy
lừng tên tuổi, thành viên đối nghịch to mồm nhất trong Ủy ban Liên
hợp Quân sự? phải là thành phần Ngụy số một " có nợ máu với nhân dân
! " Nam hơn ai hết, hiểu rơ bản chất đê tiện của cộng sản, biết rơ
những ǵ đang chờ đợi ḿnh và Nam t́m chỗ ẩn thân. Nam bỏ Saigon về
Long Khánh làm rẫy trước khi cộng sản có chương tŕnh lùa dân đi
kinh tế mới. Nhưng Nam biết trước sau ǵ cũng không thể lẩn trốn
được cái mạng lưới công an tinh vi cộng sản một khi chúng cố t́nh
lùng kiếm và v́ Phan Nhật Nam quá nổi. Ngày 22-6-75, Nam ra tŕnh
diện học tập và bị giam tại trại Long Giao. Chính tại đây, Nam đă
viết trong bản tự khai, " Trong đời tôi, tôi chỉ có một điều ân hận
là có ông bố hành nghề cộng sản ! "
Bố Nam theo kháng chiến từ năm Nam 7 tuổi, hiện là một nhân vật cao
cấp trong Chính trị bộ Hà nội, tên Phan Văn Tŕnh. Mẹ Nam là bà Ngô
Thị Phương Dung, chết năm Nam 18, học trường Phan Chu Trinh, Đà
nẵng. Nam sinh ngày 10-9-43 tại Huế nhưng lớn lên tại Quảng nam.
Sinh viên Sĩ quan Vơ bị Quốc gia Đà Lạt khoá 18, ra trường năm 1963,
t́nh nguyện đi binh chủng Nhảy dù. Năm 1968 ra khỏi binh chủng và
thời gian sau Hiệp định Paris, Phan Nhật Nam là thành viên VNCH
trong Ủy ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên cho đến ngày miền Nam rơi vào
tay cộng sản.
Những năm tại ngũ, Phan Nhật Nam từng tham dự hầu hết các chiến
trường sôi bỏng ở quốc nội (1963-1973). Từ những địa danh nổi tiếng
như Khe Sanh, Cồn Tiên, đến những làng nhỏ ở Cửa Việt, Diễm Hà
Trung, Diễm Hà Nam, cho đến nững hóc hiểm hoang vu ở cuối thung lũng
sông Kim Sơn; từ tây vực quận Hoài Ân, B́nh Định, tới làng Mă Tây,
vv? nơi nào Nam cũng tới và đă tham chiến, chỉ trừ chiến dịch Hạ
Lào. Quăng đời binh nghiệp bôn ba đă cho Phan Nhật Nam quá nhiều
chất liệu phong phú để dựng thành tác phẩm. Khởi nghiệp viết văn từ
1969 và đă nổi tiếng với tác phẩm đầu tay " Dấu Binh Lửa " .Sau này
văn tài Phan Nhật Nam chói sáng hơn với tập bút kư chiến trường "
Mùa Hè Đỏ Lửa " nói đến cuộc chiến khốc liệt cùng tinh thần chiến
đấu hào hùng tuyệt vời của người lính Việt Nam Cộng Hoà trong những
trận đánh rúng động thế giới ở Quảng Trị, An Lộc ... vào mùa hè binh
biến 1972.
Ngoài những bài phóng sự, những truyện ngắn đăng rải rác trên các
nhật báo, tuần báo, đặc san Saigon, Phan Nhật Nam chỉ trong 5 năm từ
ngày khởi nghiệp, đă có một số lượng tác phẩm đáng kể xuất bản và
tạo được tên tuổi, chỗ đứng riêng biệt trong làng văn : Dấu Binh Lửa
( Đại Ngă, 1969, Hiện Đại tái bản 1974 ) - Dọc Đường Số Một ( Đại
Ngă, 1970 ) - Mùa Hè Đỏ Lửa ( Sáng Tạo, 1972, tái bản 2 lần, 1973,
1974 ) - Ải Trần Gian ( Đại Ngă, 1970 ) - Dựa Lưng Nỗi Chết ( Hiện
Đại, 1973 ) - Tù Binh và Hoà B́nh ( Hiện Đại, 1974 ).
Những tác phẩm Phan Nhật Nam dự định xuất bản nhưng không thực hiện
được v́ biến cố 30-4-75 gồm: " Những Ngày Hè Cuối Cùng - Đá Nát Vàng
Phai - và Mặt Trận Quảng Trị " ( c̣n có tên Trên Gịng Đá Đổ Mồ Hôi
).
Chưa hết, Phan Nhật Nam hiện đang ở trong trại tù cộng sản nhưng vẫn
c̣n cầm bút. Hơn cả Phùng Quán với " Giấy bút tôi ai cướp giật đi,
tôi vẫn dùng dao viết văn lên đá ... " Phùng Quán khi viết những câu
thơ phẫn hận ấy, trên vai vẫn c̣n mang quân hàm của chế độ, không ở
trong tù, vẫn c̣n phương tiện để mà viết và c̣n có được cơ hội phổ
biến là tờ Nhân Văn Giai Phẩm.
Phan Nhật Nam bị đưa ra Bắc từ 22-6-76, qua những trại tù kinh khiếp
nằm sâu trong rừng núi thượng du Bắc Việt nước độc giết người: Sơn
La, Lai Châu, Tuyên Quang, Hoàng Liên Sơn và cuối cùng hiện ở trại
tù số 5 Thanh Hoá thuộc hệ thống Trại Đầm Đùn, hay trại tù Lư Bá Sơ
khủng khiếp bậc nhất trong hệ thống tù cộng sản. Nhưng Phan Nhật Nam
vẫn viết. Viết trong những điều kiện trăm phần khốn cực hơn Phùng
Quán. Viết lén lút phập phồng dưới nắng lửa, mưa dầm, trong tối tăm
đói lạnh, vây quanh bởi những cặp mắt nham hiểm ŕnh ṃ cú vọ của
một bầy lang sói. Suốt năm năm tù tội đọa đầy, Nam đă dựng khung hai
tác phẩm trường thiên " Đá Nát Vàng Phai " và " Luyện Ngục Rực Lửa "
cùng những trang nhật kư gửi vợ con yêu dấu. Hai tập dàn bài Nam dấu
cất đă bị khám phá và tịch thu. Nam bị chúng đánh đập, cùm xiềng,
giam vào hầm đá biệt lập tối tăm lạnh buốt, chịu đựng đói khát cực
khổ suốt ba mươi nhăm ngày đêm thảm nhục và cuối cùng Nam đă sống
c̣n như một nhiệm mầu. Nam c̣n hơi thở nghĩa là c̣n nghị lực, c̣n
vững vàng ư chí để phấn đấu, để tin yêu và hy vọng, không quên ḿnh
là một Hướng đạo sinh " Vui Vẻ Trong Mọi Khó Khăn ", không quên ḿnh
là lính Nhảy Dù " Cố Gắng " , không quên ḿnh là một chiến sĩ có
thêm nặng trên vai thiên chức Nhà Văn! Nam thể hiện nỗi thảm thương
khổ nạn của kiếp tù đầy nhục nhă của chính ḿnh và chung của hàng
trăm ngàn bạn bè chiến hữu đồng cảnh ngộ vào những trang nhật kư đầm
đ́a máu lệ gửi cho vợ con, như một tiếng kêu thương bi thiết gửi cho
người thế giới bên ngoài.
Những trang nhật kư này, coi như tác phẩm mới nhất của nhà văn Phan
Nhật Nam viết trong lao tù cộng sản và tôi đang có trong tay.
Do một người bạn cùng khoá với tôi và là bạn chung của tôi và Nam
gửi cho, khoảng trung tuần tháng 10-80, với lời nhắn " Nam nhờ tôi
trao cho bạn, để làm cách nào vận động cứu Nam, nếu không nó chết."
Bạn tôi là Đại úy hoa tiêu Không lực, rất thân với Phan Nhật Nam, ra
tŕnh diện cùng ngày, chung chuyến tầu ra Bắc và đôi ba lần cách
khoảng bị giam chung với Nam cùng một trại tù. May mắn cho Nam là
Chử Quân Anh trước ngày được cộng sản phóng thích nhờ bao công lao
tốn phí vận động của người vợ có quốc tịch Pháp, đă v́ bạn, mưu mô
lén dấu giúp Nam đem ra được tập nhật kư và mang qua Pháp an toàn.
Quân Anh cho tôi biết Nam bị liệt vào thành phần tù chính trị ngoan
cố và chúng đă dành sẵn cho Nam bản án tử h́nh. Nếu không, nhẹ nhất
cũng khổ sai chung thân v́ Phan Nhật Nam cương ngạnh vô phương cải
tạo. Quân Anh c̣n cho tôi biết thêm rằng t́nh trạng sức khoẻ của Nam
hiện tại rất là thê thảm. Cái thân h́nh vốn gầy g̣ mảnh khảnh của
Nam " bây giờ tiều tụy suy nhược, ông không thể nhận ra đâu ..." Lao
động quá sức và ăn đói, bệnh tật không thuốc men đă khiến Nam chân
run không đứng vững. Đầu váng, mắt hoa, lúc nào cũng nghe tiếng ve u
u trong óc. Phổi hư, răng mục nguyên hàm, tóc rụng từng mảng v́
nhiều thứ bệnh tù: bệnh thiếu dinh dưỡng, bệnh ghẻ ngứa, bệnh tê
thấp, bệnh đau dạ dày, bệnh trĩ nội xuất huyết hậu môn ngày hàng lít
máu ... Thế mà vẫn phải khổ dịch lao tác mỗi ngày. Phá rừng, xẻ núi,
c̣ng lưng đập đá, oằn người bấu những ngón chân bật máu đẩy từng xe
đá hay kéo vần khối gỗ nặng trên cả sức người khoẻ mạnh vượt hai cây
số đường đèo trơn trượt ... Thế mà vẫn phải chỉ một buổi sáng cúi
xuống, nhấc lên, khuân 670 tảng bùn nước nặng trung b́nh 10 kilô hay
6 tấn 7 cho một thân tù ốm yếu? Thế mà trời đông hàn vẫn phải trần
truồng ngâm ḿnh dưới ḍng sông giá buốt đẩy từng bè củi, lội ngược
con nước về trại cách xa 4 giờ đường bộ trong trong cái lạnh cắt da
của 7 độ centigrade !
Tôi mềm nhũn cả ḷng. Những ḍng chữ nhỏ kín đầy hai mặt những trang
giấy xé ra từ quyển vở học tṛ tồi tàn phẩm chất sản xuất từ cái gọi
là xă hội chủ nghĩa miền Bắc đúng là nét chữ cứng cỏi thân quen của
Phan Nhật Nam. Cái văn chương ngôn ngữ kết đọng thành khối đau
thương thống hận vô cùng đó đúng là thứ văn chương ngôn ngữ chỉ một
Phan Nhật Nam có được.
Định mệnh nào đă đưa Nam vào con đường khổ nạn đắng cay nhường ấy ?
Định mệnh nào cay nghiệt đă khiến cha con Nam đối đầu chủ nghĩa, để
rồi ngày trùng phùng trong nghịch cảnh, Nam chỉ biết u oán nh́n cha
thinh lặng qua chấn song tù, nước mắt khổ đau tủi hận chan chứa tuôn
rơi ?... Ba mươi năm đi làm cách mạng để đổi lấy một ngày " chiến
thắng " trở về thấy cảnh gia đ́nh ly tán. Để thấy đứa con trai tù
tội. Để chứng kiến cái chết u uất của đứa con gái. Em gái Nam có
chồng học tập, tuyệt vọng hủy đời xuân sắc trước cặp mắt ngỡ ngàng
đau đớn của người cha cộng sản .
C̣n Nam, Phan Nhật Nam đă như một anh hùng ngă ngựa, hiên ngang bước
vào ḷ luyện ngục với nụ cười khinh mạn. Hiên ngang nhận chịu những
ngón đ̣n thù đê tiện và cực cùng độc ác. Để chứng tỏ đởm lược của
một chiến sĩ Nhảy dù, chứng tỏ hào khí của người lính quốc gia,
chứng tỏ phong thái bất khuất của một nhà văn hữu hạng miền Nam, Nam
đă chối bỏ những lời dụ hoặc để làm tờ khai tự thú theo ư muốn cộng
sản, chối bỏ đặc ân từ ảnh hưởng chức vụ người cha và bởi thế, vợ
Nam mới bị ngăn cấm liên lạc với chồng. Những lá thư gửi vào trại
tù, vợ Nam phải dùng tên khác, gửi cho người khác nhờ chuyển đến Nam
lén lút. Và bởi thế, bố Nam không thể làm ǵ cưỡng chống mệnh lệnh
đảng can thiệp cho Nam. Trong suốt 5 năm tù tội, Nam chỉ được vợ con
thăm nuôi một lần duy nhất, nhưng không phải là một cuộc thăm tù
chính thức. Vợ Nam phải chạy vàng hối lộ cho bọn công an bộ đội để
có giấy tờ mạo danh, dắt hai con thơ lặn lội đường trường ra Bắc
thăm chồng.
Đó là lần gặp gỡ ngắn ngủi, cực cùng chua xót và cảm động vào tháng
5-79 mà Nam đă viết trong trang đầu nhật kư. Những ḍng máu lệ đầm
đ́a thương tủi ấy, tôi đọc mà rúng động. Tôi nh́n thấy cảnh tủi mừng
đau đớn của cuộc trùng phùng thực hư ảo mộng giữa cha con chồng vợ
trên bờ đê lộng gió. Tôi thấy những giọt nước mắt thảm sầu thánh
thót rơi trên những gương mặt khổ đau thống hận. Và nghe, và cảm
nhận được tất cả nỗi u oán uất nghẹn không thốt thành lời trên những
đôi môi khô héo, trong những tia nh́n chĩu nặng tủi hờn. Thật tội
thương Nam. Thật hết sức đáng yêu và vô vàn cảm phục. Quân Anh nói
với tôi nhiều chuyện về Nam và khẳng định một điều rằng trong tù Nam
sống không hèn. Tôi biết Phan Nhật Nam vững vàng bản ngă, đầy ắp
t́nh người, t́nh yêu thương đồng loại. Cao cả biết bao nhiêu khi
nghe Nam nói đến cái chết của đứa bé gái con " em Lợi " . Nói đến
những người tù nữ, đến những đứa trẻ tuổi măng thơ sinh ra và lớn
lên trong đói khổ trại tù, lây lất, bơ vơ ... " Những đứa bé da nhăn
như người già v́ thiếu dinh dưỡng " !
Đọc những ḍng diễn tả trong nhật kư, tôi nhận ra Nam vẫn nguyên
tṛn bản chất. Một Phan Nhật Nam vui tếu tàng tàng. Một Phan Nhật
Nam người hùng Mũ đỏ. Một Phan Nhật Nam trọng danh dự và nhất ngôn.
Cái tinh thần Hướng đạo Nam hằng ôm giữ, cái châm ngôn " Vui Vẻ "
chỉ nam cho đời sống, Nam đă tận tụy thi hành ngay cả trong những
giây phút Nam đang " Dựa Lưng Nỗi Chết " ! Tôi đă mỉm cười trong
nước mắt ngậm ngùi ... Thân xác Nam rũ liệt nhưng tinh thần Nam c̣n
vững thẳng với bao gắng gượng, dưỡng nuôi nghị lực để sống c̣n cho
hy vọng mănh liệt có một ngày về mà Nam gọi đó là sự " Phục Sinh Mầu
Nhiệm ", bằng vào niềm tin nơi Thiên chúa, bằng vào t́nh yêu vợ
thương con quá mạnh. Tôi bồi hồi cảm động khi thấy Nam viết say sưa
về cái mộng ra tù cầm bút viết văn trở lại, kiêu hănh, nồng nàn khoe
với vợ con về tập bản thảo của hai cuốn trường thiên viết trong tù
ngục? Lại c̣n cái ước ao có được chiếc khẩu cầm để thổi te te trước
giờ lên vơng mỗi đêm. Lại c̣n đỏm đáng chuốt trau nhân dáng, dù cho
tàn tạ cũng là nét tàn tạ rất " hùng " của một Sĩ quan Cộng Hoà xuất
thân Vơ Bị, hỏi xin cái nón rộng vành che nắng lửa trời hè lao động
nhưng nhất định không phải là thứ nón tai bèo của mấy chú Vi-Xi !
... Thật tội thương Nam, dù trong khổ nạn vẫn cố đem vui sống cho
đời, dù trong đầy đọa cũng không đánh rơi nhân phẩm và chịu đồng hoá
với bầy ác thú.
Tháng 3-80, vợ con Nam đă vượt biên bằng đường bộ tới Thái Lan và
đến nay khi tôi viết những ḍng chữ này (tháng 2-81), ba mẹ con vẫn
long đong cơ cực sống trong trại tị nạn Sikew. Phải hiểu một khi
quyết định rời bỏ miền đất quê hương chẳng biết dung người ấy, chị
Nam đau đớn thế nào và Nam ngẩn ngơ rúng động thế nào khi biết vợ
con ḿnh từ nay đă xa cách ngh́n trùng, để lại bên trời khổ nhục
ḿnh Nam với nỗi cô đơn trầm thống. Phải mất một thời gian ḍ t́m
liên lạc, tôi mới có địa chỉ viết thư xin ư kiến chị Phan Nhật Nam
về việc phổ biến tập nhật kư. Bởi v́ dầu sao những trang nhật kư này
Nam viết riêng cho vợ con và là báu vật thiêng liêng chỉ riêng vợ
con Nam có quyền tư hữu. Hơn thế nữa, việc công bố nhật kư làm sao
tôi dám tự chuyên v́ ảnh hưởng rất lớn tới nỗi an nguy của Nam. Tôi
nghĩ tới trường hợp nhà văn Doăn Quốc Sĩ cùng những lời hy vọng của
Nam đă viết và ủy thác Chử Quân Anh trao tập nhật kư cho tôi, việc
trước tiên tôi có thể làm được là liên lạc với anh Trần Tam Tiệp,
tổng thư kư Văn Bút Việt nam Hải ngoại nhờ vận động với Văn Bút Quốc
Tế cùng các cơ quan quyền lực quốc tế can thiệp cho Nam được tự do.
Anh Trần Tam Tiệp đă sốt sắng lo liệu. Phan Nhật Nam có tên trong
danh sách tù nhân văn nghệ sĩ được hội Văn Bút Quốc tế trực tiếp can
thiệp. Hơn thế nữa, Phan Nhật Nam c̣n được ghi tên dự một giải văn
chương quốc tế với tác phẩm là tập nhật kư này. Ủy ban Ân Xá Quốc Tế
cũng lấy tên và địa chỉ trại tù để gửi quà tặng cho Nam. Tôi báo tin
và chị Nam viết trả lời, " Nếu anh thấy việc công bố nhật kư của Nam
nhất thiết phải làm th́ anh cứ tùy tiện. Cũng như anh, tôi hơi lo
không biết việc ấy có lợi hay hại cho Nam song đành vậy. Tôi rất
mừng khi biết Pen Club gửi quà tặng cho Nam. Những món quà của Pen
Club có một giá trị tinh thần đáng kể. Nam sẽ phấn khởi và hy vọng
hơn khi biết có sự chú ư của bên ngoài đối với ḿnh. Nghị lực cũng
giống như vốn liếng, để không ăn dần cũng suy ṃn hao hụt đi, rất
cần sự tiếp sức ... "
Tôi chỉ chụp một trang nhật kư của Nam gửi cho chị đọc. Chị đau đớn
viết cho tôi, " Những ngày trong trại tị nạn này cũng là những ngày
tôi cảm thấy gần gũi Nam nhất trong suốt mấy năm nay. Có cái hạn chế
của thực phẩm để cảm thông một phần nào cái đói. Có se da v́ chăn
Hồng Thập Tự phát quá ngắn không chùm kín đầu để cảm được cái lạnh
của người đốn cây xẻ đá giữa buốt giá của mùa đông miền Bắc ... Tôi
biết Nam là người yêu đời sống rất mănh liệt, thế mà Nam đă ai oán
kêu lên Thà rằng ta chết cho xong! th́ đủ biết Nam bi phẫn tuyệt
vọng đến nhường nào. Ḷng tôi tan nát ..."
Tôi không thể chờ đợi lâu hơn để hoàn tất việc chuyển dịch tập nhật
kư sang Anh ngữ phổ biến đồng loạt cùng bản văn Việt ngữ. Công việc
này quả thực quá khả năng tôi v́ văn chương ngôn ngữ Phan Nhật Nam
vô cùng khó dịch, dù tôi có bỏ ra hàng ngàn giờ và dốc toàn vốn
liếng cũng không thể chuyển ra ngoại ngữ trung thực và trọn vẹn mức
độ bi thương thảm thiết chứa trong từng lời, từng chữ mà Nam đă viết
bằng máu lệ đời ḿnh. Tôi không thể để lâu hơn. V́ Nam đang quằn
quại mỏi ṃn ngóng đợi từng ngày, từng giờ. V́ những điều Quân Anh
kể về t́nh trạng sức khoẻ của Nam và lời nhắn " làm thế nào vận động
cứu Nam, không nó chết " ám ảnh tôi lo lắng bồn chồn.
Tôi xin gửi đến các báo chí Việt ngữ trên toàn thế giới, kính nhờ
quư vị phổ biến rộng răi trong mọi giới đồng bào tị nạn. Xin gửi đến
các hội đoàn quốc gia tranh đấu chống cộng sản và tranh đấu cho nhân
quyền. Gửi chung những bằng hữu thân biết Phan Nhật Nam, các nhà
văn, nhà báo, các chiến hữu của Nam? với lời khẩn thiết kính xin quư
vị tiếp tay phổ biến tài liệu này và vận dụng mọi phương tiện tranh
đấu buộc cộng sản trả tự do cho nhà văn Phan Nhật Nam. Tiếng kêu
thương của Phan Nhật Nam cũng là tiếng kêu thương đứt ruột của hàng
trăm ngàn người Việt Nam của chế độ Tự do đang bị cộng sản giết dần
ṃn trong các trại tù cải tạo.
Tập nhật kư này nếu được các vị dịch giả thừa khả năng ngoại ngữ
dịch ra Anh văn và Pháp văn, phổ biến cho nhân loại toàn cầu biết
đến cái thảm trạng kinh hoàng của hệ thống lao tù cộng sản, phải là
một công tŕnh văn hoá lớn lao, không riêng ǵ Phan Nhật Nam cùng vợ
con mang ơn quư vị, mà tất cả những người chống cộng trên thế giới
đều biết ơn.
Đào Vũ Anh Hùng
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh