Ngày Quân lực 19/6: Viết về Người Lính Bất Hạnh Việt Nam Cộng Ḥa

Mường Giang

Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đă có 250.000 người gục ngă trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh v́ một phần cơ thể đă gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không c̣n nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, th́ lư tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hănh diện chung của quân-dân Miền Nam.

Lịch sử của một quốc gia là những ǵ trung thực, mà người dân của nước đó đă ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đă không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Đă vậy, Hoa Kỳ c̣n ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, v́ lư tưởng riêng của họ.

Thế Chiến 2 kết thúc, Ṭa Án Quốc Tế Nuremburg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Đức-Ư-Nhật… Năm 1920, lănh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ư bắt và tử h́nh, nhưng chính tổng tư lệnh Ư tại Bắc Phi là người đă ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ư lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lănh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đă oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng lănh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đă tham chiến tại VN, trong số này hơn 58.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đă được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lư và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc ngh́n thu bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đă chết cho lư tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.

Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đă phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị Cộng Sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có Cộng Sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, t́m đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen B́nh Định Nông Thôn, Cán Bộ Xă Hội... mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cọc” của kiếp lính Miền Nam.

Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tị nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố… kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống kư sinh vào xă hội... cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được tị nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào... để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đ̣n “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đă thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đă không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ c̣n bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng th́ cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lănh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về th́ bị giặc trả thù đày đoạ, rồi chết âm thầm trong đói nghèo tủi nhục.

Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một ḿnh một cơi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió th́ phải gặt băo, chính sự khóac lác dại khờ trên, đă đưa toàn bộ đảng cộng sản VN ch́m trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài G̣n,v́ không thể chịu nổi hành động dă man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. V́ quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đă rút súng Rouleau ngắn ṇng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngả ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Asams, nên đă chụp được tấm h́nh này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.

Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tị nạn tại Hoa Kỳ, đă bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có DB Elizabeth Holtzman (DC/New York) và DB Harold Sawyer (CH/Michigan), đă kiện cáo, đ̣i Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, v́ tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại.

Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm h́nh năm xưa Eddic Adams, đă viết một bài báo xin lỗi tướng Loan v́ sự ray rứt hối hận của ḿnh, trong đó có đoạn “Ông đă làm công việc của ông, c̣n tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddic lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một ṿng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I’am so,so,so... sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tị nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.

Đau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đă tham chiến như SD Dù, TQLC, Sư Đoàn 1 BB, Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Đoàn 1 BDQ có bị tổn thất nặng nề, nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đă đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Đại Úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi kư “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nh́n cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới tấp. Từ đó chụp h́nh, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đă thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).

Riêng làng báo Sài G̣n cũng vậy, v́ không có ai vào tận chiến trường để chứng kiến sự thật, nên chỉ đành “chôm chĩa tin từ báo Mỹ“ rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng” rằng: “VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm ǵ có kho tàng như t́nh báo đă báo cáo láo”. Tóm lại theo họ th́ QLVNCH v́ sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài G̣n lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đă đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đă nằm xuống trước ngày 30-4-1975.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, th́ đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đă biết được sự thật cùng ư nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra c̣n có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đ́nh người dân qua cuộc đổi đời, cũng đă trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thánh, nên đă công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào ḿnh.

Trong lúc đất nước đang lâm nguy v́ giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xă hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, Kinh Thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù; giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ v́ chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để giày xéo non sông tổ quốc, th́ tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận ḿnh là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân th́, mập mạnh nhưng lại t́m cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lư do để được hoăn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu v́ sợ chết mà trốn đi lính, th́ cũng c̣n có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước ḿnh đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lư tưởng đă thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xă hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xă thân bảo vệ mạng sống thừa thăi kư sinh của ḿnh.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lư tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ư nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, th́ đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lănh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đă lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng kư sinh của chúng.

Cuối cùng, VNCH đă sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đă tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đă làm cho họ điên đảo suốt quăng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải c̣ng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước Cộng Sản, trong đó có CSVN.

Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lănh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dă man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đă qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần ṃn v́ sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống th́ thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, c̣n những người bị biệt giam th́ đói khát v́ phần ăn phát rất ít. Nói chung là không c̣n bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Đói quá nên người tù phải ăn tất cả những ǵ có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào... kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:

“Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại th́ xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không c̣n
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ ḿn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đă cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nh́n lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đă sống qua những ngày đói lạnh
tôi đă nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm ngh́n câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn.”
(thơ Mường Giang)


Lính sống bị trả thù đă đành, cho tới những người lính đă chết , CSQT cũng không tha, th́ nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tử Sĩ của VNCH, lại càng bị đoạ đày thê thảm.Tất cả năm tháng dù nay đă đi vào quân sử nhưng sự thật vẫn c̣n nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích ngh́n đời không phai mờ: Đó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đă có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn vơ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á thời đó gồm các Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Bộ Binh Thủ Đức, Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát,Trường Đại Học Quân Sự... chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?!

Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối t́nh xưa:

“...xin v́ chàng, xếp bào cởi giáp
xin v́ chàng giũ lớp phong sương
v́ chàng tay chuốc chén vàng
v́ chàng điểm phấn đeo hương năo nùng...”
(Chinh Phụ Ngâm Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm)


Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, v́ suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận th́ chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc; khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.

Thử hỏi giữa cơi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đă có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đă VỊ QUỐC VONG THÂN?

Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già c̣n sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đă và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.

“..tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dun ruổi đă phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co dẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô”
(thơ Mường Giang)

Xin nghiêng ḿnh trước đồng đội đồng bào đă hy sinh v́ đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quư Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đă và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH đang kẹt ở quê nhà.

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2013
MƯỜNG GIANG

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng ḿnh
Hai h́nh ảnh - một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè không thể quên !
Họp mặt
Những cái tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh của 5 ngày t́m về một thời tuổi trẻ  
Kỷ niệm Quân trường: Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


 Bài vở cũ


Xuân và người lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt  
Xuân về trên đầu súng  
Đêm xa người  
Câu chuyện của người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng sản  
Tâm t́nh này cho anh  
Quân trường và chiến trường  
Một giao thừa trong đời  
Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!  
Tiếc thương  
Đã bốn mươi năm con thầm đợi ba!  
Ăn Tết trên thuyền  
Cô gái làng Thái-Mỹ  
Người về từ Đại Dương  
Văn tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa  
Hoàng Sa qua những nhân chứng 
Cảm nghĩ của người đằng sau cuộc chiến  
Đất người 
Chẳng qua  
Ly rượu mừng  
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa  
40 năm hải chiến Hoàng Sa  
Yểm trợ trận chiến Hoàng Sa  
Kư ức cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những ngày tháng tù đầy không thể quên  
Những giọt nước mắt ...  
Đồng Minh can trường

Chạy đâu cho thoát 
Bonjour Việt Nam – người đi, người ở, người về… Tuổi trẻ chúng tôi 
Vượt ngục 
Thần Năm Chén 
Hải Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương Những ngày hè không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên sông núi
Chuyện thật tôi biết về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng hy hữu...
Người lính vẫn c̣n đây  
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng 213
Hồi kư của một SQ Thủ Đức  
Người vợ lính Ở Thủ Đức   
Con tôi đi nhận xác chồng! 
Tôi viết cho anh "Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện" 
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài niệm  
Tuổi già nên phiên phiến mọi chuyện ..  
46 năm họp mặt  
Quăng đời trên dốc đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh (Kunming) trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh - Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6: Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH  
Không bỏ rơi đồng đội 
Cô em vợ  
Giải vây đồi 46: Căn cứ ALPHA  
Huyền thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam - Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt biển t́m tự do  
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3  
Cũng một đời người  
Thương tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs  
Ngày nầy, năm 1975…  
Người mang thánh giá  
Hành tŕnh di tản t́m tự do  
Tổ Quốc Ghi Ơn  
Vài nét anh hùng của TSQ  
Tại sao Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'  
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên bờ Bến Hải
Trên chiến trường xưa
Người thiếu phụ trong mưa phùn
Tháng Tư viết về ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá  
Phan Bôi Châu - Trường tôi ngày đó  
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện này
Ba tôi... người lính đổi màu

Những chuyến bay định mệnh