Minh Kiệt
(GDVN) - “Dù chúng tôi không thể giữ được mảnh
đất thiêng liêng của Tổ quốc nhưng cũng luôn đau đáu nghĩ về nơi ấy.
Đó là nơi chủ quyền của ông cha ta đă chịu nhiều hi sinh mất mát để
bảo vệ.”
"
Chúng tôi t́m về Tiền Giang gặp lại nhân chứng sống trực tiếp tham
gia trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974 chống lại quân Trung Quốc
tấn công, thôn tính quần đảo thiêng liêng của người Việt. Qua những
câu chuyện cho chúng ta thấy được phần nào mức độ ác liệt của trận
chiến, t́nh cảm thiêng liêng đối với Tổ Quốc của những người con Đất
Việt đă cầm súng bảo vệ Hoàng Sa.
Ông Đoàn Văn Nghiệp là thủy thủ tàu HQ16, một trong 15 người đổ
bộ chốt giữ đảo Quang Ảnh trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974.
Cuộc chiến xảy ra ác liệt lắm…
Ông Đoàn Văn Nghiệp 62 tuổi, ở xă Thới Sơn, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang là thủy thủ tàu HQ16, một trong 15 người đổ bộ chốt giữ đảo Quang Ảnh trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 nhớ lại: “Sáng ngày 19/1/1974, chúng tôi nhận lệnh đổ bộ lên bờ để bảo vệ đảo, anh em rất tự hào tiến lên. Lúc đấy, Trung úy Lâm Chí Liêm làm trưởng toán mang theo 2 súng M79, 3 súng M16, một máy thông tin liên lạc và một số súng đạn khác cùng một ít lượng thực. Chúng tôi tiến lên đảo để chiếm đóng và tổ chức pḥng thủ tại đây”.
Ông Nghiệp nhớ lại: “Lúc đó, chúng tôi lên được đảo và thiết lập hệ thống pḥng thủ chờ lệnh tiếp theo từ phía chỉ huy. Không ai nghĩ rằng sẽ xảy ra một trận thủy chiến với tàu Trung Quốc. Bởi trước đó, hai bên chỉ “khẩu chiến” với nhau”.
Theo ông, tàu VNCH liên tục phát tín hiệu yêu cầu tàu Trung Quốc di chuyển ra khỏi khu vực chủ quyền của Việt Nam. Nhưng phía họ cũng phản ứng lại tương tự. Đôi bên giằng co “khẩu chiến”, đến trưa cùng ngày, phía VNCH nhận thấy Trung Quốc có dấu hiệu dùng vũ lực tấn công, nên đă chủ động đánh đ̣n phủ đầu.
“Đến khoảng trưa ngày 19/1/1974, hai bên bắt đầu nổ súng. Tàu VNCH bắn ch́m tàu chiến 274 của Trung Quốc trước. Sau đó, đối phương cũng đă kịp phản ứng và bắt đầu khai hỏa tấn công ngược lại. Khi ấy, tôi đứng trên đảo quan sát diễn biến trận đánh và bắt đầu lo lắng” – ông bồi hồi nói, Trung Quốc huy động lực lượng quá đông và mạnh.
Ông Nghiệp nhớ lại: “Năm đó, lực lượng của VNCH gồm 4 tàu chiến: 2 tuần dương hạm là HQ16 (Lư Thường Kiệt), HQ5 (Trần B́nh Trọng) và 2 tàu HQ4 (Trần Khánh Dư), HQ10 (Nhật Tảo). C̣n phía Trung Quốc, lúc đấy có 6 tàu và lực lượng tiếp ứng của đối phương cũng nhiều hơn”.
Trưa hôm đó, tàu HQ10 đă hạ tàu 396 của Trung Quốc khiến tàu này ủi vào bờ và mất khả năng chiến đấu. Tuy nhiên, HQ10 cũng bị tổn thất nặng nề, bị hỏa lực của 2 tàu chiến Trung Quốc bắn trúng đài chỉ huy và hầm máy khiến tàu bốc cháy dữ dội và bắt đầu ch́m, quân số trên tàu tổn thất nghiêm trọng, chỉ c̣n lại 22 người kịp thoát khỏi tàu.
Riêng HQ4 cũng bị trúng đạn tại đài chỉ huy và chạy về phía bắc của đảo để bảo vệ an toàn. C̣n chiếc HQ5 vẫn bám sát tàu chiến 271 của địch. Tuy nhiên, do chiếc 389 của Trung Quốc hỗ trợ, hỏa lực hai tàu địch dồn vào HQ5 buộc tàu phải rút lui để đảm bảo an toàn.
Chỉ c̣n lại chiến hạm HQ16 nhưng cũng bị đạn Trung Quốc bắn trúng, làm mất điện và nước tràn vào khoang làm tàu bị nghiêng, buộc phải di chuyển ra xa vùng chiến sự để bảo toàn lực lượng.
“Sau gần 2h nổ súng, lực lượng phía VNCH tổn thất nặng, HQ10 bị ch́m không thể rút về, c̣n HQ4 và HQ5 lần lượt rút về Đà Nẵng. Riêng HQ16 vẫn c̣n muốn quay lại đón chúng tôi về cùng, tuy nhiên sau đó được lệnh từ ban chỉ huy, tàu cũng phải cơ động về, không quay lại rước.”- ông nhớ lại.
Ngồi kể lại cho chúng tôi nghe trận hải chiến bảo
vệ Hoàng Sa cách đây gần 40 năm như cứ tưởng ông vừa mới trở về từ
đấy.
Ngoài những h́nh ảnh trận đánh năm xưa, ông vẫn c̣n nhớ như in, nhớ
từng chi tiết cụ thể th́ kư ức đứng trước ranh giới sự sống và cái
chết cũng khiến ông không thể nào quên được.
Giành giật sự sống với tử thần
Sau trận chiến đó, toàn bộ tàu của VNCH rút về
đất liền, phía Trung Quốc cũng đưa thêm tàu và máy bay ra tiếp viện,
chuẩn bị tấn công vào các đảo đang có người của VNCH đóng giữ.
Trước t́nh thế nguy cấp đó, ông và 14 người trên đảo Quang Ảnh có
một đêm mất ngủ v́ lo lắng. Ông kể: “Sau trận chiến, chúng tôi
nhận được điện đàm cho biết tàu không thể trở ra cứu hộ được, anh em
toàn quyền quyết định hành động. Lúc đó, anh em cũng đă hiểu rơ t́nh
thế. Buộc ḷng chúng tôi phải bàn tính kế tiếp theo”.
Tối 19/1, mọi người rất căng thẳng và lo lắng, nếu ngày mai phía Trung Quốc quay lại công kích, chắc chắn sẽ chết b́ không thể chống lại được những làn đạn pháo dồn dập của địch.
Đúng như dự đoán, sáng ngày 20/1/1974, ở đảo phía
đối diện, Trung Quốc đă công kích và bắt toàn bộ quân số của VNCH
trên đảo đó.
Ông Nghiệp nhớ lại thời khắc quyết định: “Trước t́nh thế nguy cấp
đó, anh em chúng tôi đă bàn tính kế hoạch và thống nhất ư kiến rút
quân t́m đường về đất liền để đảm bảo an toàn. Thế là chúng tôi sử
dụng bè để rời đảo vào lúc 11h trưa cùng ngày, dù c̣n một chút hi
vọng mong manh cũng phải đi”.
“Suốt 10 ngày trôi lênh đênh trên biển, chúng tôi chỉ uống nước
cầm cự mạng sống. Anh em thống nhất tuân thủ quy định, mỗi người chỉ
uống một muỗng nước, ngày uống 3 muỗng. Không ai được uống nhiều v́
sợ không đủ nước cầm cự đến khi gặp được thuyền cứu hộ”.
Dù đă tiết kiệm nhưng đến ngày thứ 6, đoàn đội cũng hết nước ngọt để
uống. Lúc này, mỗi người phải uống nước tiểu của ḿnh mà sống. Có
anh bị sảng đến nỗi nhảy xuống biển và nói: “Các anh ở đây, tôi
đi lấy nước ngọt về cho mọi người uống”.
Ông cũng kể lại rằng, trước khi xuống bè đi đă quy định rơ, nếu ai chết trước th́ không thể mang xác về được, mà sẽ bỏ lại biển khơi. Bởi nếu để xác lại th́ mùi hôi thối sẽ khiến những người c̣n lại không chịu được. Tất cả thống nhất và một ḷng hi vọng trở về đất liền để gặp lại gia đ́nh, vợ con. Đứng trước ranh giới giữa sự sống và cái chết, con người mới bộc lộ hết được những phẫm chất, ư chí đáng quư của ḿnh.
Đến ngày thứ 10, ông và các đồng đội may mắn được một tàu cá cứu và đưa về căn cứ Hải đội 2 ở Quy Nhơn. Toàn đội nhanh chóng được đưa đến bệnh viện quân y Quy Nhơn cấp cứu. Nhưng trước đó, một người đă chết khi vừa gặp tàu cá.
Măi đến ngày hôm nay, ông vẫn không thể quên được những kư ức đó. Mỗi lần nhớ lại, ông đều rơm rớm nước mắt. Có lẽ, đó là những kư ức mà ít ai trải qua. Một cuộc đời nếm trải cái ranh giới sự sống và cái chết, chứng kiến những hi sinh mất mát của đồng đội. Ông khóc v́ tiếc thương cho đồng đội đă ngă xuống v́ biển đảo, khóc v́ những chuỗi ngày đối diện với cái chết nhưng đồng đội không bỏ nhau, vẫn đoàn kết chia sẽ từng giọt nước.
Lâu lâu, ông lại lấy tời giấy thăng cấp ra xem và chỉ tên từng đồng đội. Ông cũng đánh dấu vào đấy tên những người đă cùng ḿnh vượt qua cái chết sau 10 ngày trên biển. “Sau ngày 30 tháng 4, 1975, chúng tôi mất liên lạc và không c̣n gặp nhau nữa. Nếu ngày đó, không có anh Nguyễn Ngọc Cẩn (quê Kiên Giang) th́ toàn đội không dám lên bè đi về. V́ anh ấy giỏi thiên văn và có kinh nghiệm đi biển” – ông thở dài nhớ lại.
Rồi ông khẳng định:
“Cuộc chiến đă lùi xa gần 40 năm nhưng kư ức vẫn c̣n đó như mới ngày hôm qua, dù chúng tôi không thể giữ được mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc nhưng cũng luôn đau đáu nghĩ về nơi ấy. Đó là nơi chủ quyền của ông cha ta, đă chịu nhiều hi sinh mất mát để bảo vệ. V́ vậy, mong thế hệ trẻ sau này cần phát huy tinh thần của thế hệ trước, đ̣i lại chủ quyền và bảo vệ mảnh đất của ḿnh…”.
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh