Darren Thăng
LTG: Ghi theo lời kể trung thật của người con trai cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương Hồng Nhơn. Ông được vinh thăng đại úy đặc cách tại mặt trận Thủ Thừa, tỉnh Long An vào tuần cuối cùng (ngày 23?) của tháng 4 năm 1975. Danh xưng “tôi” trong bài viết nầy được hiểu là đương sự. Những dữ kiện và diễn tiến xẩy ra đều dựa trên trí nhớ của tuổi thơ và từ thân nhân cho biết. Nếu như có điều ǵ sai lệnh, xin các cựu quân nhân Địa Phương Quân từng là đồng đội với cha tôi bổ túc dùm. Trân trọng đa tạ!
Đêm đă khuya, anh kể về đời binh nghiệp của thân
phụ ḿnh là cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương Hồng Nhơn với niềm tự
hào kiêu hănh. Nghe giọng nói của anh mạch lạc, rơ ràng từng chữ một
qua điện thoại viễn liên: “cha tôi là một sĩ quan tác chiến của
QLVNCH”, tôi rất hănh diện về ông.
Hăy viết dùm tôi câu chuyện có thật và ghi những công trận liên quan
tới người, để lưu lại cho con cháu của tôi mai sau hiểu biết. Hy
vọng các cháu lớn lên t́m hiểu lịch sử tại sao quốc gia Việt Nam lại
bị chia đôi đất nước từ năm 1954-1975. Hai miền Nam-Bắc theo đuổi
chính thể ǵ? Ai đă gây lên cảnh chiến tranh chết chóc tang thương?
Nhận định chế độ nào được coi là chính nghĩa và bạo quyền? Mầu cờ
nào các cháu sẽ công nhận là đại diện cho quốc gia Việt Nam tự do,
v.v.
Thật t́nh đă bao năm trôi qua, tôi không thể nào quên được trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 xẩy ra tại Dakto-Tân Cảnh, mạn bắc của cao nguyên Trung phần mà gia đ́nh tôi đă vướng vào ṿng lửa đạn cho đến cuối năm 1987. Tổng thẩy là 15 năm trường sống trong hệ lụy chiến tranh. Tôi lớn lên tại mảnh đất khó nghèo đó và đă chứng kiến nhiều cảnh đau ḷng. Trọn tuổi thơ của tôi, ch́m đắm trong khổ đau bất hạnh như bao thường dân vô tội khác tại quận lỵ nầy.
SVSQ Trương Hồng Nhơn
Thân phụ tôi, Trương Hồng Nhơn quê quán ở quận Cần Đước, tỉnh Long An. Ông lập gia đ́nh sớm vào năm 21 tuổi. Thời thanh niên, ông làm Điểm Hóa Viên ở cảng Sàig̣n. Theo lệnh tổng động viên do nhu cầu chiến trường, ông ghi danh nhập ngũ thụ huấn tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào cuối năm 1965 và măn khoá vào đầu năm 1966 (có lẽ khóa 22 hay 23) với cấp bậc chuẩn úy. Cha tôi nhận sự vụ lệnh đi tŕnh diện một đơn vị Địa Phương Quân ở tiểu khu Darlac và đóng ở ngoại ô của thị xă Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột) từ năm (1966-1970).
Sau tết Mậu Thân 1968, cha tôi được cử đi học khóa hành quân “Rừng Núi Śnh Lầy” ở Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ kéo dài 6 tuần lễ (42 ngày). Ông may mắn có tên trong danh sách khóa sinh do Tổng Cục Quân Huấn tuyển chọn, v́ sĩ quan Địa Phương Quân không thuộc đơn vị áp dụng chiến thuật phản du kích như các binh chủng Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt và Nhẩy Dù, v.v. nên ít khi có cơ hội.
Điều nầy cũng dễ hiểu v́ đơn vị Địa Phương Quân bị đánh giá là sắc lính yếu, ngay cả cộng quân cũng nghĩ như vậy. Nhưng hăy khoan kết luận vội, quư vị sẽ t́m được đáp số ở cuối bài viết để xem lực lượng nầy có dũng cảm trong trận chiến cuối cùng, phá tan binh lực của cộng quân mưu toan chiếm quận Thủ Thừa, cắt Quốc Lộ 4 và áp sát thủ đô Sàig̣n vào giữa tháng 4 năm 1975 (từ ngày 9-20?) hay không?
Năm 1970, cha tôi là Trung Úy Đại Đội Trưởng Đại
Đội 408 Địa Phương Quân (không biết thuộc tiểu đoàn ĐPQ nào?) của
tiểu khu Kontum. Đại Đội 408 Địa Phương Quân có nhiệm vụ trấn đóng ở
các đồn chốt, ǵn giữ an ninh Quốc Lộ 14 (QL) là độc đạo duy nhất từ
Kontum lên quận lỵ Dakto (46 cây số), từ năm (1971 - 4/1972). Những
tiền đồn heo hút trên Quốc Lộ 14, như đồn Ngô Trang (Đại Đội 408 ĐPQ
từng đóng ở đó), ấp Vơ Định và xă Diên B́nh gợi lại trong trí nhớ
tuổi thơ. Đến khi cộng quân khởi động chiến dịch Xuân-Hè 1972, th́
cuộc sống của gia đ́nh 3 người chúng tôi, bị đảo lộn toàn diện.
Ngày 15 tháng 4 năm 1972, Trung Đoàn 52 (Sư Đoàn 302 CSBV) được sự
yểm trợ của các trung đoàn pháo nặng (130 ly & hỏa tiển 122 ly),
đánh biển người chọc thủng pḥng tuyến Charlie do Tiểu Đoàn 11 Nhẩy
Dù VNCH trấn giữ một cao độ xấp xỉ trên 900m từ ngày 2 tháng 4 năm
1972. Cao điểm Charlie là nút chặn chiến lược quan trọng kiểm soát
ngă ba Đông Dương, đường tiếp vận của CSBV để xâm nhập vào tỉnh
Kontum.
Vị trí khu vực đồi Charlie giáp ranh với một nhánh sông Pôkô và Quốc
Lộ 14. Đây là huyết mạch cửa ngơ dẫn vào thị xă Tân Cảnh, cách đó
khoảng 10km. Cộng sản mưu toan chia cắt Quốc Lộ 14, để dứt điểm phi
trường Phượng Hoàng gần đó và bản doanh của Trung Đoàn 42 (Sư Đoàn
22 Bộ Binh QLVNCH), thuộc tuyến pḥng thủ ngoại vi của thị trấn Tân
Cảnh để làm chủ t́nh h́nh phía Bắc tỉnh Kontum.
Quận lỵ Dakto (Đắk Tô) và thị trấn Tân Cảnh bỗng dưng trở nên sôi
động trong chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Mặt Trận B3, như bao chiến
dịch Dakto-Tân Cảnh 1967 và Dakto-Ben Het 1969 của những năm về
trước. Thời điểm cuộc chiến leo thang cực độ khi quân đội Hoa Kỳ c̣n
tham chiến mạnh mẽ ở Việt Nam.
Khi tuyến thép Charlie bị vỡ, Trung Úy Trương Hồng Nhơn nhận lệnh
đưa Đại Đội 408 ĐPQ lên tăng phái cho chi khu Dakto. Đại đội đặt
dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá (có tác giả nói là Trung Tá) Quận
Trưởng Ḷ Văn Bảo, gốc người Thái ở Bắc-Việt. Thiếu Tá Bảo xuất thân
khóa 8 (Hoàng Thụy Đông) Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, vóc dáng người cao
lớn và đôi mắt quắc sắc, biểu lộ nghị lực quyết chiến. Trung Úy Nhơn
dẫn theo vợ con lên trên quận lỵ cùng với ông v́ đời sống của người
lính Địa Phương Quân, thường gắn liền với gia đ́nh của họ.
Thực ra, Dakto không xa lạ ǵ với gia đ́nh tôi cho lắm v́ chúng tôi
từng sống ở đó một thời gian. Ngày c̣n là nhi đồng, mấy anh lính
dưới quyền ba tôi hay bế ẵm tôi đi xin kẹo của lính Mỹ, khi họ có
dịp ghé qua địa danh nầy.
Tôi c̣n nhớ rơ mồn một biến cố xẩy ra tại quận Dakto vào chiều thứ
Bảy ngày 22 tháng 4, năm 1972, lúc đó tôi gần 7 tuổi. Ngày hôm ấy,
cơn mưa tháng tư tầm tă trút nước như xối và cộng quân lại nă pháo
dữ dội ở khắp nơi trong quận. Ngồi trong lô cốt nh́n ra ngoài trời
mưa quan sát, binh sĩ trú pḥng chỉ thấy dân Thượng mặc áo mưa chạy
lụp xụp lánh nạn tránh đạn pháo kích. Nhưng chưa thấy dấu hiệu chiến
xa cộng quân tiến vô Dakto, cùng bộ binh tùng thiết.
(*a) Sau khi ba tôi đi tù cải tạo về, kể rằng có nghe tiếng máy xe
tăng vang vọng ở hướng tây bắc của quận lỵ vào ban đêm, nhưng không
thấy chiến xa xuất hiện. Chi khu Dakto tung nhiều toán trinh sát Địa
Phương Quân vào vùng dọ thám, cũng không đạt được kết quả ǵ. Thượng
tướng Đặng Vũ Hiệp (CS) giải thích trong “Kư Ức Tây Nguyên”, có 9
chiếc chiến xa T-54 đă ẩn ḿnh ngụy trang trong khu vực ngầm của bờ
sông Pôkô và bộ đội công binh mở đường K50 băng cắt qua rừng. Chiến
xa xuất phát vào tối 23/4 (Chủ Nhật), lướt qua chi khu Dakto để tiến
về hướng bản doanh của Trung Đoàn 42/SĐ 22 BB, gần Tân Cảnh. Đúng 4
giờ 30 rạng ngày 24/4 (thứ Hai), xe tăng cùng bộ đội tùng thiết diệt
các chốt điểm, yểm trợ cho nhau và càn qua các hàng rào của căn cứ.
Dựa theo dữ kiện nầy th́ xe tăng địch không nhắm đánh chi khu Dakto.
Cha tôi đôn đốc binh sĩ chạy ngược chạy xuôi bảo vệ bộ chỉ huy của
Thiếu Tá Bảo, sợ đặc công ṃ vào dinh quận trưởng tấn công. Lính
tráng dưới quyền của cha tôi pḥng thủ nghiêm ngặt khắp nơi. Cha tôi
phái một binh sĩ gùi (cơng) tôi sau lưng và lấy tấm poncho cột chặt
tôi vào người anh ta, để khi chạy loạn khỏi bị rớt. Mẹ tôi cầm giỏ
quần áo đi đằng sau toán lính. Thấy cha tôi bận rộn làm nhiệm vụ lại
phải vừa chăm sóc cho vợ con, bà nhận xét chồng ḿnh khó có thể chu
toàn trách nhiệm của người chỉ huy nên xin tách ra riêng. Từ đó, mẹ
con chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với ông.
Mẹ con chúng tôi chạy theo đoàn người di tản vào một nhà thờ ở trong
quận lỵ ngay buổi tối 22/4 (thứ Bảy) hôm đó. Nghĩ rằng nơi nầy là
chốn tôn nghiêm, cộng quân không nỡ nào pháo kích vào nên trú ẩn ở
đây, chắc sẽ được an toàn. Sáng Chủ Nhật ngày 23 tháng 4, năm 1972,
một biến cố xẩy ra khi mẹ dẫn tôi ra ngoài khuôn viên nhà thờ hơi xa
xa để đi vệ sinh. Khi trở lại thấy nhà thờ đă bị pháo địch dập nát,
người dân vô tội chết nằm la liệt. Mẹ con chúng tôi đành phải theo
lớp người sống sót cuốn gói ra đi, t́m một nơi trú ẩn an toàn khác.
Ḥa nhập vào ḍng người di tản, bỏ nhà bỏ của chạy lấy người. Đi bộ
lần ra tới Quốc Lộ 14 được một ngày, nhóm thường dân cỡ 100 chừng
người (Kinh và Thượng) gồm có hai mẹ con chúng tôi bị đám du kích
địa phương chặn lại. Chúng lùa tất cả mọi người, nam phụ lăo ấu vào
rừng. Thế là từ nay thường dân vô tội của quận lỵ Dakto không nhanh
chân chạy thoát được, đều bị chúng bắt như cá chậu chim lồng. Đó là
vào xế trưa thứ Hai ngày 24 tháng 4, năm 1972.
Số lượng dân chúng của quận lỵ Dakto và các xă lân cận bị cầm giữ
trong vùng Việt Cộng vừa mới chiếm được cũng cỡ khoảng 5-6 ngàn
người (kiểm chứng qua tài liệu của cộng sản nói là 6,000 người).
Binh sĩ VNCH và thanh niên trai tráng trong hạn tuổi quân dịch bị
thanh lọc và bắt tách ra riêng. Chúng bắt dân kê khai lư lịch, xem
ai có thân nhân liên hệ đến “Ngụy Quân Ngụy Quyền” hay không. May
thay, trong đám người bị bắt chung không ai biết rơ thân thế của hai
mẹ con chúng tôi nên mẹ tôi dấu biệt lư lịch gia đ́nh, chỉ khai là
thường dân mà thôi.
Thường dân gồm ông già bà lăo, đàn bà và con nít bị Việt Cộng xé lẻ
ra từng nhóm nhỏ và sống sơ tán ở nhiều nơi. Có nhóm th́ 100, 200
hay 500 người một cho dễ bề kiểm soát. Họ đẩy tất cả mọi người vào
rừng rú hay mật khu của chúng, gần vùng tam biên giới Việt-Miên-Lào.
Khó có thể định hướng được các khu vực rừng núi nầy thuộc địa hạt
nào. Cư dân địa phương, th́ đoán chừng vị trí nầy có lẽ chỉ chung
quanh phạm vi của quận lỵ Dakto mà thôi. Tuyệt nhiên không ai được
phép sống trong thị trấn Dakto và Tân Cảnh, kể cả bọn chúng nữa. Sau
khi Dakto bị cộng quân cưỡng chiếm vào thứ Hai ngày 24 tháng 4, năm
1972, th́ quận lỵ hoàn toàn bị bỏ trống 100%.
Mấy ngày đầu bị bắt, Việt Cộng cho mỗi người một vắt cơm lạt để ăn.
Sau đó du kích địa phương đi lùng những ruộng lúa hay các rẫy khoai
ḿ (sắn) ở buôn thượng bị bỏ hoang. Rồi dẫn dân chúng đến đó vào ban
đêm để nhổ. Trời tối như mực, dân chúng cứ cầm cây ḿ bứng lên rồi
tuốt bằng tay. Mỗi người thu nhặt cho ḿnh một mớ khoai ḿ “chiếm
lợi phẩm” mang về xắt nhỏ ra, sấy cho khô để nấu ăn.
Nếu gặp được ruộng lúa th́ Việt Cộng cho tuốt lúa. Người nào tuốt
được hơn một kư thóc là hay lắm rồi. Thóc lúa rang khô rồi giă bằng
cùi để tách vỏ trấu và cám ra thành hột gạo. Sau đó người ta dùng
nắp vung nồi để rang gạo cho khô, cất dành để nấu ăn. Nhưng thường
thường th́ gặp rẫy khoai ḿ nhiều hơn là ruộng lúa. Ngày nào cũng ăn
củ ḿ nên dân chúng chế biến đủ thứ món như ḿ luộc, canh khoai ḿ
v.v. Nấu củ ḿ bằng các nồi nhôm nhặt được trong các buôn thượng
đấy. Đi đến các buôn thượng nào thấy thiếu cái ǵ th́ họ lượm cái đó
mang theo để xử dụng.
Thiếu lương thực nên dân chúng đi hái rau tàu bay, rau sam, nấm rừng
(tùy loại ăn được), măng tre rừng, rau dớn rừng mọc dọc theo các khe
suối ở môi trường hoang dă, và cây môn thục(c̣n gọi là cây môn ngứa)
ngâm vào nước gạo, để làm dưa chua tăng thêm phần ẩm thực. Đó là
chưa kể đến t́nh trạng bắt được con ǵ ở rừng già ăn được, là ăn con
nấy.
Gia vị thiếu nghiêm trọng nhất trong việc nấu nướng chính là muối
biển. Đôi khi Việt Cộng chuyển đâu đó từ Lào sang một số muối hột.
Phân phát 1/3 th́a cà phê cho hộ 1 người. Hai mẹ con của chúng tôi
th́ được một muỗng muối hột để ăn. Gia đ́nh nào đông th́ được nhiều
và gia đ́nh nào ít th́ được ít, nhưng không lúc nào cũng được phân
phát muối hột. Ăn phải cầm chừng kẻo hết muối để nấu ăn. Nói tóm
lại, không có muối ăn cũng chết mà ăn nhiều quá th́ bị phù thủng.
Chốn rừng thiêng nước độc, môi trường đầy muỗi ṃng, vắt đốt, sốt
rét lại không có thuốc men chữa trị gây lên các bệnh dịch cúm, sởi,
cộng thêm thiếu ăn, sinh ra đủ thứ bệnh tật. Tội nghiệp nhất là đám
con nít sơ sinh không có sữa để bú, thiếu vệ sinh dinh dưỡng và bị
sốt rét rừng nên chết rất nhiều. Có gia đ́nh 5-6 đứa con nhỏ đều
chết hết ráo. Nói chung là người nào chết th́ ráng chịu. Không ai
c̣n nước mắt hay ḷng nhân ái để mủi ḷng thương hại lẫn nhau nữa.
Thường dân lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Không có cḥi, lều và
nhà sàn để ở ǵ cả. Nước uống, nấu nướng và tắm giặt bằng nước suối.
Có thể nói là hôm nay th́ ở rừng nầy, mai th́ ở rừng kia. Di chuyển
lên đồi xuống núi nhiều lần trong một ngày là chuyện thường t́nh. Di
dời từ rừng nầy sang rừng khác. Có lúc th́ vào ban ngày nhưng đa số
th́ vào ban đêm để tránh phi pháo của KLVNCH và Hoa Kỳ oanh tạc. Mỗi
lần nghe tiếng động cơ máy bay trên trời, đám du kích la toán lên:
- Chạy lẹ lên, kẻo máy bay “Ngụy” đến bỏ bom đánh phá ta.
Bất cứ ai mà chậm chạp chẳng hạn như đang lúc nấu nướng làm bếp,
chúng bèn tạt nước vào đống lửa bắt bỏ hết để ra đi. Quần áo mỗi
người mang theo trong giỏ lúc đi di tản chỉ có vài bộ đồ, thay mặc
dần dần bắt đầu đă rách rưới tả tơi. Vá được mảnh nào, chụm mảnh nọ
hay xin được quần áo của ai đó th́ mặc đại để che thân. Tuy nhiên,
không thấy cảnh người sống thiếu áo quần bèn lấy quần lấy áo của
người chết giặt lại để mặc cả.
Tôi nhớ mỗi lần đi tắm ở dưới suối, phải vắt quần áo lên trên bụi
cây phơi khô. Tắm cởi chuồng xong lấy quần áo đó mặc lại. Quần áo
mặc đa phần nhất y nhất quẩn một bộ đồ duy nhất. Đàn ông con trai đi
tắm th́ dễ rồi, nhưng đàn bà con gái đi tắm mới khổ tấm thân. Họ rủ
nhau kiếm một chỗ kín đáo, canh chừng cho nhau tắm gội và giặt giũ.
Không có xà bông để tắm, dân chúng tùy cơ ứng biến kiếm đâu ra được
vài trái ḅn ḥn ṿ vào nước thay cho xà bông, để chà rửa thân thể.
Cuộc sống của thường dân quận lỵ Dakto bị cộng sản kèm kẹp trong
vùng “giải phóng” rất lầm than cơ cực cứ quần quật như thế tính từ
cuối tháng 4 năm 1972, cho đến khi Hiệp Định Đ́nh Chiến Ba Lê thực
thi sau ngày 27 tháng 1, năm 1973. Vùng nào Việt Cộng chiếm được
trước đó, coi như thuộc quyền sở hữu của chúng.
Sau ngày đ́nh chiến lịch sử đó, không ai được phép trở lại thị trấn
Dakto để sống nữa kể cả những người từng có nhà ở đó, v́ quận lỵ đă
bị tàn phá bởi chiến tranh. Ban quân quản địa phương chia cho mỗi
gia đ́nh một khoảnh đất nhỏ ở hai bên Quốc Lộ 14 để khai hoang lập
nghiệp. Dân chúng tự động kiếm cây rừng làm cḥi, lợp tranh trát
vách để ở. Người nầy giúp đỡ người kia, dựng nhà đùm bọc lẫn nhau để
sống. Dân chúng làm rẫy canh tác như trồng lúa, trồng khoai lang,
khoai ḿ và hoa mầu tự tạo ra thực phẩm để sinh nhai.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn rơi vào tay
cộng sản th́ đời sống của người dân ở Dakto tương đối dễ thở hơn lúc
c̣n sống ở trong rừng núi một chút (4/1972). Mẹ tôi dựng một sạp nhỏ
trước căn cḥi của ḿnh để bán các thứ lặt vặt như hành ớt, cá khô,
mắm muối và bánh kẹo mua từ thị trấn Kontum lên, mong được sống lây
lất qua ngày.
Những trẻ em thiếu nhi trong lứa tuổi học sinh được các anh chị lớn
có tŕnh độ, t́nh nguyện dậy các mẫu tự abc, học bản cửu chương và
chỉ cách thức làm toán cộng trừ nhân chia. Các cḥi gọi là lớp học
được dựng lên đơn sơ, tạm bợ trên các mảnh đất trống trong khu vực
kinh tế mới. Tôi buộc phải học lại lớp 1 từ đầu vào năm 1973, tuy
rằng đă học gần xong lớp 2 trước đó.
Ngành giáo dục tại Dakto tương đối có tổ chức hẳn ḥi sau ngày đất
nước thống nhất (sic). Tôi học hết cấp II, tức là lớp 9 (cấp lớp cao
nhất ở Dakto), măn trường vào hè năm 1982. Năm đó tôi tṛn 17 tuổi
(học trễ lắm rồi đó nghen). Muốn theo học trường trung học cấp III
(từ lớp 10-12) phải xuống thị trấn Kontum, cách huyện Dakto 46km,
sống trọ ở nhà người quen để đi học. Nhiều hôm nhớ mẹ (thèm bú tí
một chút đó mà) và mấy luống ruộng vườn không người trông coi, tôi
cuốn gói bỏ học ngang trở về Dakto, tính ở lại để phụ giúp mẹ lo
việc đồng áng. Về đến nhà mẹ tôi khuyên nhủ:
- Cha con là một sĩ quan của QLVNCH. Nay ông bị đi cải tạo, con phải
lấy tấm gương đó mà ráng học để nên người.
Mẹ tôi dọn cơm ra cho ăn uống no nê rồi đi nghỉ. Hôm sau tôi lủi
thủi lần ra Quốc Lộ 14 để đón xe đ̣ trở lại thị trấn Kontum quyết
tâm chăm chỉ học hành. Nhờ bền chí và cố gắng nên cuối cùng tôi xong
tốt nghiệp lớp 12 vào hè năm 1985.
Tôi thi đại học và được nhận vào Hệ Trung Cấp Trường Cao Đẳng Kinh
Tế - Kế Hoạch Đà Nẵng. Ngày đó, danh từ gọi là Trường Trung Cấp Kế
Hoạch II Kinh Tế (1985-1986). Chương tŕnh dự trù học 3 năm nhưng họ
rút lại thành 2 năm, dự định sẽ tốt nghiệp vào mùa hè năm 1988.
Trước khi tốt nghiệp để đi thực tập, trường đ̣i hỏi mỗi học sinh 2
b́a thư có dán tem ở nơi cư trú để kiểm tra hồ sơ lư lịch học sinh.
Cuối năm 1987, ban giám thị của trường thông báo cho tôi biết: “buộc
đương sự thôi học, trả về địa phương v́ lư đó man khai lư lịch.”
Không biết ai đă thông báo lên trên huyện Dakto về lư lịch gia cảnh
của tôi? Tôi đành thu xếp đồ đạc để trở về Dakto, sống với mẹ vào
cuối năm đó.
Mỗi độ tháng tư về, kư ức của tôi hay nhớ lại cảnh tượng chạy loạn ở
Dakto vào năm 1972. Giờ tôi hiểu ra tại sao thường dân tại Dakto đều
bị Việt Cộng lùa cả đám vào trong rừng. Họ bắt giữ dân ở lại để
tuyên truyền với thế giới là dân chúng bỏ bên quốc gia để về với phe
cách mạng. Đồng thời nếu như bị máy bay Hoa Kỳ và phi cơ KLVNCH oanh
tạc trong lúc hành quân, th́ lấy dân ra làm bia đỡ đạn cho chúng.
Cũng không hiểu sao, tôi lại đọc được mưu đồ xảo quyệt của chúng như
thế!
Có lẽ độc giả cho rằng tôi bịa chuyện để nói lên. Nhưng nếu ai từng
đọc qua bài viết, “Dakto - Đêm Cuối Cùng” của tác giả Trang Y Hạ,
chỉ biết được phần đầu tấn bi kịch khổ đau của thường dân vô tôi tại
quận lỵ Dakto mà thôi. Bài viết nầy là phần nối tiếp, nói về những
đă ǵ xẩy ra sau đó.
Nhưng c̣n nhiều mẫu chuyện thương tâm đầy máu và nước mắt mà tôi
không thể nhớ rơ chi tiết để kể lại. Tôi cũng không muốn dài ḍng vụ
Việt Cộng kèm kẹp dân chúng trong vùng Dakto bị chiếm, e rằng sẽ lạc
đề tài bài viết về thân phụ của ḿnh. Tuy nhiên, tôi cũng hy vọng
rằng những ai là nhân chứng, từng sống qua thời kỳ kinh hoàng tại
địa danh nầy sẽ viết lên sự thật.
Đầu năm 1988, mẹ tôi rời thị trấn Dakto để về Sàig̣n sinh sống. Tôi th́ theo chúng bạn đi các tỉnh khác như Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nha Trang để buôn bán và lập xí nghiệp sản xuất lạp xưởng. Chỉ khi nào về Sàig̣n mua vật liệu hay máy móc mới ghé thăm thân phụ đang sống tạm trú quản thúc ở quận 4, sau khi đi tù cải tạo gần 10 năm. Hai cha con ít khi có cơ hội hàn huyên tâm sự lâu dài, v́ thời gian tôi lưu lại ở Sàig̣n rất cấp bách, vả lại tôi không có hộ khẩu chính thức để sống ở thành phố nầy. Tuy nhiên, đôi lần tôi có dịp hỏi ông chi tiết về các diễn biến xẩy ra làm sao, sau lần gia đ́nh phân ly vào tối ngày thứ Bảy 22 tháng 4, năm 1972 tại Dakto.
Dựa theo tài liệu chiến tranh và qua lời ba tôi kể lại, chi khu Dakto thất thủ vào thứ Hai ngày 24 tháng 4, năm 1972(có tài liệu nói là Chủ Nhật). Thiếu Tá Ḷ Văn Bảo chọn Đại Đội 408 ĐPQ làm đơn vị đánh chặn (đoạn) hậu, rời chi khu sau cùng để cho bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Bảo rút lui an toàn vào rừng, nên bị tổn thất nặng nề. Đại Đội 408 ĐPQ cùng với bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Bảo đánh 7 ngày và 7 đêm với Việt Cộng trong rừng. Bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Bảo và Đại Đội 408 ĐPQ chia tay phân tán mỏng ở một cánh rừng để tránh thiệt hại. Binh sĩ của Đại Đội 408 ĐPQ lớp chết lớp bị thương, lại có người không thể mang theo được. Số khác th́ thất tán hay bỏ ngũ t́m đường về nhà nên cuối cùng đại đội ĐPQ chỉ c̣n lại độ mươi người.
Thiếu Tá Bảo dùng tần số riêng gọi vô tuyến về bộ chỉ huy của tiểu khu Kontum và xin phái trực thăng tới bốc. Đại Đội 408 ĐPQ hoàn toàn mất liên lạc với Thiếu Tá Bảo trong rừng núi v́ ông ta đă đổi qua một tần số khác. Có lẽ Thiếu Tá Bảo không hề hay biết những ǵ đă xẩy ra cho Đại Đội 408 ĐPQ? Người hiệu thính viên của đại đội ḍ tần số nội bộ nhiều ngày mới nối được liên lạc với Thiếu Tá Bảo và ông ra lệnh cho cha tôi đi chuyển đến một ngọn đồi vô danh làm vị trí băi đáp để được bốc. Khi thấy Đại Đội 408 ĐPQ c̣n lại một ít người, ông nghi ngờ cha tôi đă bị Việt Cộng bắt và buộc hợp tác với chúng giăng bẫy, để tóm gọn bộ chỉ huy nhẹ của ông ta. Thiếu Tá Bảo chất vấn cha tôi đủ điều và nhất định không cho lên trực thăng. Giành co đôi lát, cuối cùng ông mới đành ḷng cho di tản về Kontum.
Cha tôi dưỡng sức được ít ngày, rồi lại lao vào trận tuyến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ở Kontum (từ ngày 14/5 - 1/6/72). Sau chiến thắng mặt trận Kontum kiêu hùng, nhiều quân nhân tác chiến được thăng một cấp, nhưng phần cha tôi vẫn tiếp tục mang lon Trung Úy. Ông không hề than trách phận, chỉ nghĩ làm tṛn bổn phận của một quân nhân mà thôi. Sau trận nầy, thượng cấp đề nghị cha tôi nên chuyển qua làm lính văn pḥng, nhưng ông lại khước từ.
Đầu năm 1974, cha tôi thuyên chuyển về tiểu khu Long An, KBC 4008. Đêm mồng 8 rạng 9 tháng 4, năm 1975, cộng quân mở màn pháo kích và tấn công vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh th́ đồng thời Công Trường (Sư Đoàn) 5 Việt Cộng vượt rạch Cần Đốt tấn công vào tỉnh Long An để cắt đứt Quốc Lộ 4, nối liền Sàig̣n với miền tây. Địch quân chiếm được một góc sân bay, phía tây nam của phi trường Cần Đốt. Ngày giờ chúng toan tính thật trùng phùng ăn khớp với nhau.
Đây là hai tuyến pḥng thủ cơ bản cuối cùng của QLVNCH, để pḥng giữ cửa ngơ phía đông và phía tây của Sàig̣n. Nếu cộng quân chiếm được thị xă Xuân Lộc, th́ các thị xă (Biên Ḥa - Bà Rịa - Vũng Tàu) kế tiếp sẽ lần lượt xụp đổ và cuối cùng là thủ đô Sàig̣n. C̣n nếu Việt Cộng chiếm được tỉnh Long An và cầu Bến Lức th́ con đường tiếp vận thực phẩm từ miền tây vào Sàig̣n sẽ bị cắt đứt. Thủ đô Sàig̣n sẽ bị cô lập và loạn lạc nổi lên v́ khan hiếm nhu yếu phẩm.
Theo nguồn Wikipedia, Trận Xuân Lộc diễn biến ác liệt trong ṿng 12 ngày đêm. Sư Đoàn 18 Bộ Binh QLVNCH cùng tiểu đoàn 3/4 Địa Phương Quân Long Khánh là chủ lực chính. Tiểu khu c̣n được tăng phái thêm Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân(di tản từ Quảng Đức về), Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh và Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Ḥa không yểm (tổng số quân khoảng 12,000 người), để đối phó với 4 sư đoàn Bắc Việt gồm có (SĐ6, SĐ7, SĐ341, và SĐ325). Việt Cộng c̣n bổ xung thêm một trung đoàn thiết giáp, một trung đoàn pháo binh và Trung Đoàn 95BB (Sư Đoàn 325 CS) (tổng số quân khoảng 40,000 người), nên có nhiều dữ liệu bách khoa toàn thư viết về trận chiến.
Riêng mặt trận Thủ Thừa, tỉnh Long An cũng không kém phần quan trọng, nhưng bị lu mờ v́ diễn biến xẩy ra lại trùng phùng với thời gian của mặt trận Xuân Lộc, nên không có bách khoa toàn thư dữ liệu. Đồng thời cha tôi lại không hề kể chuyện là ông đă từng tham dự mặt trận nầy. Thật là đáng tiếc, v́ thiếu chi tiết dữ kiện có liên quan đến công trận của ông.
Từ năm (1987-89) khi trưởng thành, tôi có nghe gia đ́nh bên nội kể loáng thoáng về trận đánh Thủ Thừa. Sau đợt chiến thắng nhất thời của VNCH tại mặt trận Thủ Thừa vào giữa tháng 4 năm 1975 (từ ngày 9-20?), một ông chú thuộc vai vế em họ của cha tôi, chạy hớt hải qua nhà bà nội của tôi thông báo một tin sốt dẻo:
- Cô Năm ơi…đài BBC, VOA và Sàig̣n loan tin chiến thắng vang dội tại Thủ Thừa.
Bà nội tôi lên tiếng lo lắng:
- Hổng (không) biết anh Sáu (cha tôi là thứ năm trong nhà) bay, đi lính Địa Phương Quân đóng tại chi khu Tân Trụ (Tiểu Khu Long An) đang đánh nhau ở miệt Thủ Thừa (tăng cường cho mặt trận), có hề hấn ǵ hông (không) nữa, mà sao mấy bữa rầy (nay) một con mắt của tao cứ nháy lia lịa quá hà?
- Có lẽ anh Sáu không sao đâu!, ông chú tôi trấn an tinh thần để bà nội tôi yên tâm.
Vài ngày sau đó có lính đến nhà nhắn tin. Bên nội tôi bèn xách vài giỏ thức ăn gồm có xôi, thịt gà và trái cây đón xe đ̣ đi lên chi khu Thủ Thừa để ăn mừng chiến thắng cùng với cha tôi. Bên nội tôi mừng rỡ khi nghe Bộ Chỉ Huy của Tiểu Khu Long An tuyên bố:
- Trương Hồng Nhơn được thăng Đại Úy đặc cách tại mặt trận Thủ Thừa, tiểu khu Long An.
Bà nội của tôi c̣n kể rằng khi ra d́a (về) thấy xe đ̣ và đủ loại xe khác phải ngưng chạy trên Quốc Lộ 4 đến chiều tối v́ đường xá bị Việt Cộng đắp mô. Lực lượng Địa Phương Quân và một đơn vị thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh QLVNCH ra sức phản công dữ dội và giải tỏa mô của Việt Cộng, mới bảo đảm được sự lưu thông trên quốc lộ.
Sau ngày miền Nam mất, cha tôi đi tù cải tạo gần 10 năm qua các trại Hoàng Liên Sơn và cuối cùng là trại Cải Tạo Hàm Tân mang bí số Z30D thuộc tỉnh Thuận Hải. Ông được phóng thích vào cuối năm 1984 và sống tạm trú tại Sàig̣n. Một trong những lư đó khiến ông bị đi tù gần 10 năm (so với các sĩ quan cấp úy khác), chỉ v́ khí khái hiên ngang của ông. Cô tôi(người miền Nam gọi chị hay em đều bằng cô), kể lại một chuyến đi thăm nuôi cha tôi như sau:
- Sáu à, em ráng cải tạo tiến bộ theo chính sách cách mạng để mau về với gia đ́nh nha!
Sao…chị nói xong chưa?, ông bực dọc:
- Nếu như chị lập lại lời lẽ “phục ṭng” nầy với tui, th́ tui sẽ bỏ vô lán ngay, cha tôi khẳng khái trả lời như thế.
Trương Hồng Nhơn bạo bệnh qua đời vào ngày 2 tháng 3, năm 1988 sau Tết Nguyên Đán Mậu Th́n. Linh cữu an táng cử hành theo nghi thức hỏa thiêu và hài cốt được mang về quê nhà ở quận (huyện) Cần Đước, tỉnh Long An.
Trước khi hoàn thành bài viết nầy, chúng tôi (tác giả & tôi) có liên lạc với niên trưởng (danh hiệu 31) hiện đang định cư ở Hoa Kỳ, để kiểm chứng dữ kiện có liên quan đến cha tôi. Cựu Thiếu Tá Trưởng Pḥng Ba/Trung Tâm Hành Quân BCH Tiểu Khu Long An (danh hiệu 31), trả lời qua e-mail như sau:
- “Cá nhân tôi nghĩ ông Nhơn là Đại Đội Trưởng hay Đại Đội Phó một đại đội ĐPQ thuộc tiểu khu Long An, nhưng v́ không trực tiếp chỉ huy nên không nhớ được.”
Tôi xin số điện thoại để gọi cho niên trưởng(31) và tả h́nh dáng cố Đại Úy Trương Hồng Nhơn có tầm vóc chiều cao trên 1.8 m(cỡ 6 ft), với nước da ngăm đen và bản tính thích “nhậu” của người miền Nam, th́ danh hiệu 31 cho biết:
- À, tôi nhớ ra đă từng gặp qua thân phụ của cậu rồi!
Danh hiệu 31 nói rằng ông cố gắng liên lạc với cựu Đại Úy Vơ Văn Bạch (ĐĐT), thuộc Tiểu Đoàn 334 ĐPQ(TK Long An). May ra ông nầy biết rơ về cha tôi, nhưng tôi chờ tin măi mà chẳng thấy ai gọi lại ǵ cả.
Cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương Hồng Nhơn nay đă quy tiên, nhưng tôi tin rằng ông cùng với dân quân Địa Phương Quân (2 tiểu đoàn ĐPQ gồm 600 lính) và 200 lính Nghĩa Quân của tiểu khu Long An (cộng thêm một đơn vị của Sư Đoàn 7 BB tăng cường?) đă anh dũng đánh thắng một đơn vị xấp xỉ cấp trung đoàn(Quốc Thái ghi lại *8) của Công Trường 5(gồm 5 ngàn quân) (*b) và lực lượng du kích địa phương tại mặt trận Thủ Thừa vào giữa tháng 4 năm 1975 (từ ngày 9-20?) (không kể CS điều động thêm 2 Công Trường 6, 9 và Trung Đoàn Đồng Tháp công hăm Long An để tiến về Sàig̣n).
Trong hồi kư của danh hiệu 31 có viết, “quân
dân ta phải tự lực tự cường, kiểu đứng mũi chịu sào.” Ư ông ta
muốn nói rằng 2 tiểu đoàn Địa Phương Quân (TK Long An) và Nghĩa Quân
chỉ được trang bị M16, M79 và trung liên M60 mà phải đương đầu với
cộng quân đông đảo hơn 8 lần (600 quân VNCH chống 5000+ bộ đội
CSBV(*b)(cần dẫn nguồn). Bắc quân lại được trang bị hỏa lực mạnh như
B40/B41, súng cối (cối 61, cối 82), đại liên pḥng không 12.8 ly,
trọng pháo 130 ly và chiến xa lội nước PT-76, th́ làm sao lực lượng
Địa Phương Quân có thể chống đỡ lâu dài được?
Là con của một quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa, tôi muốn t́m hiểu về đời
binh nghiệp của thân phụ ḿnh là cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương
Hồng Nhơn. V́ không biết cha tôi thuộc đại đội hay tiểu đoàn Địa
Phương Quân nào của tiểu khu Long An, nên chúng tôi (tác giả & tôi)
cần kiểm chứng dữ kiện, nhưng vài cựu sĩ quan ĐPQ liên đới biết lai
lịch của cha tôi chẳng màng giúp đỡ. Tôi cảm thấy thất vọng về họ.
Nh́n viễn ảnh thời gian trôi măi và bánh xe lịch sử tiếp tục lăn về
phía trước sẽ xóa nḥa mất quá khứ. Nếu như không ai c̣n quan tâm
tới, rồi tuổi trẻ Việt Nam sẽ dựa vào đâu để t́m ra sự thật?
Tài liệu tham khảo:
1) Người ở Lại Charlie(Mùa Hè Đỏ Lửa 1972) - tác giả Phan Nhật Nam
2) Về Từ Tân Cảnh - tác giả Đại Tá Tôn Thất Hùng
3) Dakto - Đêm Cuối Cùng - tác giả Trang Y Hạ
4) Cao Nguyên: Sương Mù hay Khói Súng - tác giả Kiều Mỹ Duyên
5) Chiến Thắng Đakto - Tân Cảnh 40 năm một chặng đường - Trang thông
tin điện tử Huyện Đakto (CS)
6) Kư Ức Tây Nguyên - tác giả Đặng Vũ Hiệp (CS) (*a)
7) Trận Xuân Lộc - Wikipidia tiếng Việt
8) Trận Đánh Cuối Cùng Của Địa Phương Quân(Quận Thủ Thừa, Tỉnh Long
An) - tác giả Quốc Thái
9) 31 Khúc Chấp & Quốc Thái Đinh Hùng Cường(2 tác giả) Trận Đánh
Cuối Cùng Của Quân Đoàn IV
10) “Giải phóng” Thủ Thừa và thị xă Tân An - đ̣n chia cắt chiến lược
lộ 4 trong chiến dịch HCM 1975 (CS)
11) Tổng số quân của Công Trường 5 CSBV(*b), dựa vào bài viết: “Tiểu
Đoàn 83 Biệt Động Quân.”
Vài hàng về tác giả:
Là con của một quân nhân,
Darren Thăng c̣n có bút hiệu là DD-2nd hay DD-2nd G. Quốc nạn năm
1975, anh chỉ là một thiếu niên. Anh khởi sự sáng tác từ năm 2007.
V́ đam mê đời lính chiến từ khi c̣n nhỏ, nên anh sáng tác rất mạnh
về QLVNCH. Anh có hơn 30 tác phẩm nói về người lính Việt Nam Cộng
Ḥa, thương cảm số phận người Kháng Chiến Quân Việt Nam sau 1975 và
các bài t́nh cảm xă hội cũng như b́nh luận khác. Một bài thơ của
anh: “Hăy Đợi Anh Về”, được Nhạc Sĩ/Ca Sĩ Hoàng Hoa phổ nhạc
tŕnh bày trên You Tube nghe rất cảm động.
http://www.youtube.com/watch?v=V3CwRDojxYQ . Trân thành cảm tạ
độc giả xa gần thương mến tác giả và tác phẩm.
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh