Thẹn ḿnh đá nát vàng phai (Kiều)
kim thanh
Giữa năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa ra Bắc, cùng với các
thành phần "ác ôn, có nợ máu" gồm An Ninh, T́nh Báo, Chiến Tranh
Chính Trị, Bộ Binh, Cảnh Sát, Tuyên Úy –toàn thứ dữ dằn dưới mắt
Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm
tàu chở than, nguyên là của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông
Hương. Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những
thân người nằm rũ liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một
ông khó tính, mới đến được cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang. Nước
uống và lương khô được tḥng dây xuống, y như cảnh trong một phim
buôn bán nô lệ đă xem đâu rồi. Hai ngày sau cập bến Hải Pḥng. Xe
lửa và molotova bít bùng dàn chào sẵn để rước về các vùng biên giới,
như Yên Bái, Lao Kay... Bạn bè lạc nhau từ đây. Nguyễn đi Hoàng Liên
Sơn. Cửa toa đóng kín, khiến hai ông trung tá chết ngộp, xác vứt bên
đường. Ngồi xe hơi th́ bị trẻ con ném đá, và những bà già Bắc kỳ tốc
váy chửi rủa tục tằn, với sự đồng lơa của bọn cán bộ.
Hoàng Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng,
lên núi đốn tre, chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục,
nếm thử thấy tê buốt –như môi hôn phút chia ĺa vội vă. Những đêm
lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục.
Trên đường lao động, Nguyễn gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến
trường xưa, không hẹn mà bị "gom bi" đầy đủ. Nh́n nhau cười như mếu,
thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ: "Các anh có mà chạy
đằng giời!" Thỉnh thoảng lên núi Nguyễn và đồng tổ đội gặp một nhóm
Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, đang lao động tự
giác, không có vệ binh canh giữ. Họ nh́n đám tân tù binh, vẻ thương
hại, lắc đầu thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức,
lớn giọng: “ĐM, mấy cha làm ăn, đánh đấm thế nào mà bây giờ kéo nhau
ra đây cả lũ?” "Cả lũ" im lặng, xấu hổ, nghe xót xa bởi lời trách
móc không sai. Nói thế, nhưng khi thấy bọn Nguyễn lóng cóng không
buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận t́nh,
hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung quốc.
Sức khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lăo –c̣n gọi là đội "sứt cán găy gọng." V́ c̣n trẻ và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân, ngày ngày phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, "có chất lượng" giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước tưới rau. Lúc đầu thấy hăi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền để mất đi cảm giác, ư niệm, nh́n nhưng chẳng biết đó là ǵ nữa. Hết phân bắc đến phân chuồng (trâu ḅ), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).
Mới đầu, đa số c̣n phát biểu linh tinh lắm. Hệ
thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông
Đại úy Cảnh sát già gân Hoàng Bá Linh. Ông Linh là người Quảng B́nh,
hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ,
nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một
buổi học tập của đội, ông đă phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy” như
sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô
vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng
già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng
Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng... Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng
của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt
Cộng đu một cọng đu đủ mà không găy... Thật là mất dạy hết sức!”,
v.v... Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri,
như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan
cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn
hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt
ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy v́ quá
bất ngờ chưa biết kết ông vào tội ǵ. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm
việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi pḥng biệt giam,
ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.
Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, ở chung với tù h́nh
sự, loại "đầu gấu" chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng
đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết
dăy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và
đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo
quần sặc sỡ, đàn ông thổi kèn mở đường, đàn bà gồng gánh theo sau.
Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà
văn quân đội như, Nguyễn chỉ c̣n nhớ, Thảo Trường, Văn Quang và Phan
Lạc Phúc. Có nhị vị cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê
Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung tá Đặng B́nh
Minh, phi đoàn trưởng trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu,
mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn
hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người
hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở
một đội khác có một cựu tùy viên của cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm,
đeo kính trắng, tôi quên tên. Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, bắt đầu thấm
đ̣n độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói
triền miên, để chế ngự ư chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang
là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi
đá.
Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội
vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ
Hùng Vương. Hùng Vương đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u
và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những thằng Ăng Ten,
Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm khổ đồng đội c̣n hơn chính kẻ thù.
Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K, cách nhau trung
b́nh năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài
G̣n ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà "vợ ngụy" xem như chặng đường
thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe
trâu và xe đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa,
một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp –có đứa
chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.
Tại Vĩnh Phú, có anh bạn trường Đại Học CTCT Đà
Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy pḥng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được
chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một tên
công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên
vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:
- Xin cán bộ cho biết quư danh.
Tên nọ không hiểu "quư danh", há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi,
rồi đột nhiên sừng sộ:
- Anh vi phạm lội qui. Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch
giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận t́nh.
- Giờ lày mà c̣n ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng...
C̣n Nguyễn về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa ruộng bỏ hoang
từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu ḅ. Nước bùn đen đặc
quánh, đỉa bơi lổn ngổn, tḥ chân xuống thấy ghê rợn –làm chàng nhớ
những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới địa ngục mà thi hào Dante phải
vượt qua với Virgile, trong La divina Commedia. Ba hôm sau, một số
đội viên –có Đại úy Cảnh sát Phạm Bá Điềm, bạn thân từ Sơn La– lên
cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót
rụng dần lông chân. Phải mất thêm vài mạng nữa, đội mới có lệnh
"giải thể."
Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội Rau Xanh, như hồi ở
Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón kiêm
chuyên viên tưới là phi công Air Vietnam Nguyễn Hữu Trí, trung tá
biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có
chuyến với Bội Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng h́nh dáng, nên
chàng tin lắm. Chim bằng găy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải
lao ngước nh́n lên cao, uất ức, thở dài.
Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do
đi lại các khu vực. Nguyễn t́m đến dăy nhà giam riêng "ḅ lục"
(tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy
trưởng kính thương của trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt
–nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân
Văn Xă Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy
ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều tṛ vui do tù sáng chế
để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung
quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông,
chàng mừng quá, nói lớn:
- Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?
Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm răi nói, giọng xúc động:
- Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. C̣n anh thế nào, có bệnh hoạn ǵ không?
Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.
Nguyễn cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận
vàng phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính ḿnh. Hồn
bỗng rưng rưng, thầm gọi tên một thời yêu thương và thù hận tưởng đă
chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời
v́ ông chợt hiện về nguyên vẹn. Như mới hôm qua...
Sài G̣n, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng
nh́n từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tṛng,
những chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng
Trịnh Công Sơn hớn hở ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối ṿng tay lớn,
và chạy tới chạy lui ḍ la tin tức người thân, bạn bè ai c̣n ai
thoát, tôi t́m được địa chỉ của Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và đạp xe
đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia Hưng và Nguyễn Dự,
bất ngờ gặp lại trên đường. Phu nhân và cô con gái, v́ quen mặt hồi
ở Đà Lạt, tiếp tôi không e dè. Đại tá Quỳnh ra pḥng khách, áo sơ mi
bỏ trong quần tây, chân đi săng đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán
nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhă, lịch sự cố hữu. Chúng
tôi không nói ǵ nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung ai cũng có nỗi ưu
tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận
dày ṿ, tự trách đă vụng suy, khí khái hăo, không nghe lời cô em
tiếp viên đưa gia đ́nh lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, khiến tất
cả đành phải ở lại, một số dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa
nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước
kia đă chịu ơn ba mẹ tôi, nay trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ
tội. C̣n Đại tá Quỳnh, tôi không biết ông đang tiếc ǵ, nghĩ ǵ, v́
suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:
- Không thể ngờ nhanh như thế!
Đâu phải một ḿnh ông. Không ai ngờ, kể cả Dương
Văn Minh, tên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản
bội, và bọn "hàng thần lơ láo" tại dinh Độc Lập trưa ngày 30/4. Kể
cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh
Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là hiệp định Paris quái gở
bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao
vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một tên trí thức cơ hội chủ nghĩa và
đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở
trường Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đă thề thốt ở
lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào, vậy mà vào phút chót nhờ có
trực thăng riêng mới vọt ra được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như
thế! Tôi chỉ biết gật đầu, đồng ư với ông. Cuối cùng, tôi cất tiếng
hỏi:
- Đại tá có ư định sẽ làm ǵ ?
Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:
- Tôi chưa biết sẽ phải làm ǵ. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp
nhận những ǵ tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.
Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua
những lời chậm răi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe quen từ đâu
rồi bỗng mang một ư nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy
giờ. Những lời đă theo tôi suốt tám năm đày ải, và cùng với h́nh ảnh
của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa
mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong “Terre des hommes” của
Saint-Exupéry học lúc trẻ, đă khích lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục
sống c̣n. Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:
- Có một điều Đại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao tôi sẽ
không bao giờ quên Đại tá và những ǵ Đại tá đă làm cho tất cả chúng
tôi.
Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài,
hơn ai hết, đă làm tôi thấy yêu thích và kiêu hănh với đời quân ngũ
bất đắc dĩ. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần
trách nhiệm cao độ –quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc
dù ông có một người con rể là đại tá không quân Mỹ và đủ phương tiện
để tẩu thoát một ḿnh như đám tướng tá tham sinh úy tử kia đă tranh
nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả vậy, chín giờ sáng
30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan Đ́nh Phùng, bấy giờ là bộ
chỉ huy tiền phương của trường Đại học CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ
quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu và
pḥng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh
nước. Tôi không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi,
thật buồn bă của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên
bố đầu hàng:
- Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!
... Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi tŕnh diện "cải
tạo" ở một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn
bộ sĩ quan Đại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy
Hoàng, chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh
rỗi, tôi ṃ sang đội của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn
cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức. Có cái ǵ uẩn ức, hằn học nằm
trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm giận c̣n hơn bị t́nh
phụ. Nhưng không biết tức ai. Lănh đạo hèn nhát đă cao bay xa chạy.
Thù hận Cộng Sản th́ chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ
có Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu
chuyện, chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường
vào tù, cả hai cùng thở dài, ngán ngẩm. Tôi c̣n gượng chọc Hoàng:
- Ức Trai hay Ức Gái ǵ rồi cũng chui vô rọ hết!
Tại Long Giao, lúc ấy, tôi ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu,
bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân y. Cả
tổ, v́ tự ái, tự trọng, không ai than văn về chuyện ăn uống, đói
khát trong tù, kể cả sau này khi viết hồi kư. Hậu vui tính, kể đủ
chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối,
Hậu th́ thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc, và lần nào anh cũng
lẩm bẩm kết thúc bằng câu:
- Địt cụ, đau như hoạn, tức như ḅ đá!
Bên dăy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá văn hóa vụ trưởng của trường.
Những lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ, rồi lắc
đầu nói, giọng Quảng lai Huế rất ”trademark” của ông:
- Cháng gướm (chán gớm)!
Trong câu chuyện, anh em thường hỏi về Đại tá Chỉ huy trưởng. Không
ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đă chết. Hoặc đang ở ngoại
quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ tâm
v́ dĩ văng, cứ ám ảnh măi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm
chạp, lê thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy,
từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà
thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng con phố
ch́m trong sương mờ che khuất đường về...
Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo
hon. Người gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nh́n lại h́nh
hài ḿnh, chàng thấy đâu hơn ǵ. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về
trong đáy hồn rời ră cả khung trời yêu thương Đà Lạt và kỷ niệm rực
rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc c̣n thơm hương mimosa, có t́nh yêu
chưa biết nói lời phản trắc, có một Đại tá Quỳnh uy nghi trong quân
phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay c̣n đâu! Mới có
bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đă trở thành thảm hại đến thế ư?
Ông mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ
Quỳnh thật to bằng mực tím. Thấy không ai để ư Nguyễn bèn hỏi rất
khẽ:
- Đại tá nghĩ sẽ có ngày về không?
Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ư lắm mới nghe lọt hết. Và
trả lời nhanh, chắc ngại bọn ăng-ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:
- Tôi nghĩ là rất khó ḷng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Điều quan trọng
là anh gắng giữ ǵn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em
khác cho tôi gửi lời thăm!
Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:
- Bác được thư gia đ́nh thường chứ?
Đại tá Quỳnh chưa kịp đáp th́ hắn đă gay gắt bảo Nguyễn, giọng trọ
trẹ:
- Tôi lưu ư anh, không được quan hệ với các anh đại tá.
Chàng phản pháo liền:
- Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được miễn!
Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:
- Tôi ở trong ban Trật Tự. Đề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa "yêu
cầu") anh chấm dứt quan hệ linh tinh.
Chàng quay sang Đại tá Quỳnh :
-Thôi xin từ giă bác, chúc bác mạnh khỏe, b́nh an trong năm mới.
Rồi nh́n thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Nguyễn gặp Đại tá
Quỳnh được một tháng th́ hai đội ḅ lục –đội trưởng là Lê Đ́nh Luân
và Dương Hiếu Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng
với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù.
Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu
được phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe
lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng
bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông
người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi,
trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít,
xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi, như lúc nhỏ tôi từ Sài G̣n về quê
Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá, tội con quá! Mẹ bạc gần nửa mái
đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi
thăm nuôi "mệt nghỉ" rồi lo t́m đường cho con vượt biên, làm sao mà
không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng rể tương
lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái út bị bắt ngay trên ghe
nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp lời, trừ Thể
Trân ra riêng, v́ cả nhà bị chúng nó theo dơi sát nút.
Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa pḥng
tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi,
mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng
đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi
dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong những vở
kịch cổ Hy Lạp. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu,
phụ họa:
- Nhà ḿnh tịch thu được chúng nó trả một nửa, nửa kia làm trụ sở
thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống
thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến
được Mă Lai với chồng con. Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng
hai quả trứng vịt lộn trong kỳ thi ở trường Chiến Tranh Chính Trị và
ông Đại tá chỉ huy trưởng hiền từ của anh. Chị nói anh ngang tàng,
đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi
anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, cầu khẩn,
lúc nào cũng hào hùng, kiêu hănh, giống như con chó sói bị thương
trong bài "La mort du loup" của Vigny ḿnh học năm nào đó... Anh nhớ
không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên
chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh
vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại c̣n bị ba mắng cho nữa...
Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em? Và
đổi đề tài:
- Kha bây giờ ra sao? Có khoẻ không em?
Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới tôi hai lớp tại
Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới th́ mất nước. V́ Bội Trân ở lại, Kha
cũng không đi.
Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nh́n ra sân. Bầu trời
thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa
ngập gian nhà trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em th́ thầm:
- Mẹ và em đă ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây.
Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều... Em
sẽ chờ anh ấy, bao lâu cũng được.
Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:
- Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em
đưa gia đ́nh...
Mẹ ngắt lời:
- Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến
nữa.
Bội Trân tiếp:
- Nhưng có thế này em mới được về "phục viên" ở hẳn với ba mẹ chứ!
Em vẫn thương anh và hănh diện v́ anh.
Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin tôi chờ
mà ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ư, lúc mẹ quay qua tiếp một bà
đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và khẽ
nói:
- Lệ Ngà đă lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ!
Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:
- Hai năm là c̣n khá thủy chung đấy chứ em!
Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt
nhói một chút như kim châm. Có lẽ v́ đă chuẩn bị đón nhận sự thật
quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết
giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đă nhận được thư vợ xin anh cho
phép "bước thêm một bước nữa" và kư vào tờ đơn ly dị và giấy nhường
tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên được giọng cười khinh bạc
của anh sau khi viết trả lời: "Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô
không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh." Tôi không được như anh
ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ
như bong bóng. Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên
thanh và ḍng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương,
những lần em bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất
phất qua những đồi thông, em hát nho nhỏ bài “Le jour où la pluie
viendra... Ngày mà mưa đến, sẽ có bao nhiêu là giọt kim cương cho
t́nh ta...” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em trong
quán L’eau Vive và bản "Appassionata" trên phím dương cầm thánh thót
như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người t́nh
về. Những ṿng tay cuống quưt t́m nhau trong hoàng hôn tím trên đồi
Cù. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ
Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu,
nghe vị đắng và cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ,
nh́n Bội Trân không nói. Đâu phải t́nh cờ em nhắc đến con chó sói bị
thương, cùng đường, của Vigny.
Em tiếp, giọng buồn rưng rưng:
- Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Đến gặp em, lần đầu
tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng
không nói một lời ǵ về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh
những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích,
và cho em một số tiền làm lộ phí, nhưng dĩ nhiên em không nhận ǵ
hết... Em biết tính anh quá mà!
Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo ư nghĩ riêng...
Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả
chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt, lợi dụng
tiếng ồn ào, Bội Trân nói một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng
tiếng Pháp:
- Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại
y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy
của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ,
và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Đừng tuyệt
vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện nhiều xin Chúa và Đức Mẹ che
chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Em thương anh.
Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có
nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho
dân. Lúc đầu chàng phụ tá cho Lưu Ninh, Thiếu tá Bộ Binh, trong tổ
vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức
tổ trưởng, và tổ phó là Đào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu.
Bảnh tính t́nh điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn
tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên h́ hục trộn
hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông
nhà báo Việt Tấn Xă Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các
thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có Đại đức Nguyễn Long, quê
Quảng Ngăi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa
giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang oang kể chuyện
đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào
cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:
- Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!
Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết.
Một anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau
muống, và củ riềng –mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai
miếng bằng ngón chân cái. Ai cũng "hồ hởi" ăn, trừ Đại đức Long. Ông
đi t́m Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù quanh năm ai cũng thiếu chất
thịt và ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:
- Tôi c̣n tu. Anh ăn giùm cho!
Một hôm, đội được điều động làm công tác "đột xuất" (bất ngờ) là ra
"nghĩa địa", tức một băi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ
bia cho các anh em đă nằm xuống. Nguyễn đếm gần hai trăm mộ –kỳ thực
chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết.
Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng. Có Trung tá
Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Đại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi
tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ trại Sơn
La, Trung tá Đặng B́nh Minh –cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài
hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu,
hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một
dược sĩ trẻ đẹp, mới thăm anh vài ngày trước, từ Hà Nội trở lại thăm
tiếp khi anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như mưa, rồi cắt
tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa giẫy cỏ vừa thầm
khấn các anh phù hộ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp
với gia đ́nh. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử
tế như vậy. Th́ ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến
thăm trại.
Cuối năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội
trường và khu gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn rất mừng được
thấy lại Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này,
trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ chàng và Bội Trân ra Vĩnh Phú
lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp vừa tṛn mười tám.
Chàng soạn một ít bánh ḿ khô, đường và ḿ gói, mấy viên thuốc cảm,
bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn
đến phía các "ḅ lục", gặp Đại tá Quỳnh trao cho ông, nói:
- Tôi mới được thăm, xin biếu Đại tá.
Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng Nguyễn đang
đánh vữa th́ đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho chàng đến
sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương khô đủ loại. Thằng
vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả
lại, mồm càu nhàu:
- Quà với cáp linh tinh!
Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một
trung sĩ công an c̣n trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi
nhỏ:
- Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi mới sinh bị phù (thủng)
nặng.
Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt nh́n nhau, không đáp,
sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:
- Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào đây xem.
Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo anh ta, c̣n Bảnh ở lại
canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét
xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con
chuột. Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ
dưỡng.
Hai anh chàng phân vân măi. Đối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ,
của đâu mà lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đă được thăm
nuôi, hoặc nếu chưa, đă được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào
rồi. Cuối cùng, động ḷng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng bốn
mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đă quá hạn, nhưng không c̣n
ǵ hơn, và một hộp sữa đậc cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây,
làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần sau, một buổi trưa, chị vợ
đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội tiến ra, nh́n
trước nh́n sau, bảo:
- Cảm ơn hai anh, hôm nay em đă đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng
thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng
cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm...
Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc,
đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới
thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc
dù chàng dốt đặc về ca nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái
từ các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo ṿng, lắc
lư múa theo bài Tiếng chày trên sóc Bom Bo, trông xa, và v́ vắng đàn
bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương
với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Đội được lệnh tŕnh diễn
giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho Nguyễn vào
ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:
- Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!
Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ
Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá ǵ đó, do cha Cao đặt ḥa
âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi
bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:
- Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà... mà
anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế th́... th́ nà anh nếu náo
thật!
Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:
- Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!
Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao,
chỉ tay về phía ông trung tá nhà văn trọng tuổi, bút danh Kư giả Lô
Răng, đóng vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn
bảo:
- Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi
chân thọt! Anh có ư đồ phải không?
Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, Nguyễn mới nh́n kỹ ông
kịch sĩ xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng.
Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất
đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về đội xây, đánh
vữa trở lại với Đào văn Bảnh.
Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một
sáng sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rơ. Nguyễn
ngồi trong hàng nh́n theo bóng Đại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Đại đức
Long và cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi tư trang
gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng, buồn tênh của đám tù nhân.
Lần đó, chàng nghĩ khó c̣n gặp lại nhau, và tự dưng ḷng nao nao như
mất người thân thuộc.
Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam
đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống
nước trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường
phóng đại, do các bà thăm nuôi cung cấp. Thời gian này, Nguyễn được
nhóm thân hữu đặt biệt danh "b́nh luận gia tin tức quốc tế". Một
cách thành thật, tự tin, chàng phân tích theo chiều hướng có lợi,
hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ khác xa. Bọn
cán bộ h́nh như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách,
trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai "phản động". Những giàn
ăng-ten bị bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái,
trong nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi c̣n ǵ! Đau khổ đă thành thói
quen. Nhớ vợ thương con cũng đă ch́m sâu vào tận cuối hồn. Không c̣n
những anh đêm khuya khóc rưng rức trong chăn của thời gian đầu xa
gia đ́nh êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản kháng,
dưới h́nh thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép qua
nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả khùng
chửi xéo chế độ. Hoặc c̣n đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên,
bị biệt giam và hành hạ dă man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản
giáo Vinh –nói ngọng, chữ tr thành t, chữ lthành n– rất ngứa mắt,
bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa chàng lánh mặt.
Trong buồng giam có một anh chuyên "chiếu phim",
tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh,
thay nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ
thứ chuyện, từ Cô gái Đồ Long đến La valse dans l’ombre quaThần điêu
đại hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lư, xuất thân trường Đại
học CTCT, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lư ca một
hơi hơn một chục bản t́nh lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về
đâu hoặc Xuân này nếu con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt
cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên mới lớn,
nghệt cổ ra nghe, thậm chí c̣n bảo "anh lào đó hát nại" vài câu...
Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong "truyện" này
kẻ trước người sau đă đến bến bờ tự do. Từ Rose City, thỉnh thoảng
tôi gọi ông hay viết thư thăm hỏi. Đại úy Hoàng Bá Linh, Thiếu tá Lê
Ân, Trung tá Đào Văn Bảnh đă mất sau khi ra khỏi tù, trong những
hoàn cảnh khác nhau. Phi công Nguyễn Hữu Trí không rơ trôi dạt
phương nào, cũng như cha Trần Thanh Cao và thầy Nguyễn Long.
Mẹ tôi, đă ngoài tám mươi, vẫn c̣n nơi quê nhà, ở
với Huyền Trân và chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những
người em "cải tạo" về, lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết
trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa,
trước khi trở thành một nữ tu ḍng kín, giữa tuổi thanh xuân, làm
nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo
bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và t́nh yêu mật đắng. C̣n
tôi, sau bao năm vật vă để vá lại mảnh đời rách mướp, đă bắt tay
được với hạnh phúc –nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua.
Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực ̣a vỡ mỗi lần ở đầu dây
tiếng mẹ và em từ bên trời cũ, hoặc Đại tá Quỳnh từ Florida, vang
lên.
Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân nhắc Nguyễn nên tha thứ, tha thứ, tha
thứ, và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa đă gửi đến. Nhưng đối với
bạo quyền Việt Cộng, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Đó là một
bọn người gian manh, độc tài, chuyên chế, đă d́m cả đất nước vào
cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi năm, và bây giờ lại c̣n đốn mạt
dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Cộng, mối họa muôn đời của
dân tộc. Hận thù, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt,
kêu gào ḥa giải ḥa hợp. V́ chàng vẫn tin –theo như lời viên đại
tướng tổng tài La Mă nói với Ben-Hur lúc c̣n là một tù nhân chèo
thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben-Hur– rằng hận thù cho sức
mạnh, làm ta sống c̣n ■
Portland, cho Mùa Quốc Hận 2013
viết lần đầu năm 2005, một năm trước ngày mẹ mất (tại Nha Trang,
7/2006)
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh