Vũ Ánh
Thời trung cổ, các chiến binh người Mông Cổ khi ngồi trên ḿnh ngựa
ra trận tiền mà không may tử trận, các đồng đội của họ lập tức giết
chết con ngựa mà anh ta cưỡi, lột lấy bộ da ngựa gói chặt tử thi
quân nhân này rồi cho chuyển về hậu phương hỏa táng theo tục lệ của
quân đội người Mông Cổ.
Đây là một nghi thức đầy vinh dự chỉ dành cho người lính chết trận,
không có biệt lệ dù đối với hàng tướng lănh. Nghi thức này được lưu
truyền tới ngày nay đối với nhiều quân đội tại các quốc gia trên thế
giới, nhưng thay v́ người ta dùng bộ da ngựa bọc thây người lính tử
trận th́ dùng lá quốc kỳ của quốc gia đó phủ trên quan tài người đă
v́ đất nước mà hy sinh.
Thời quân đội Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, quốc kỳ vàng
ba sọc đỏ chỉ được phủ lên quan tài quân nhân tử trận. Nhưng sang
đến thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa, tục lệ này được nới rộng cho cả
bên lực lượng bán quân sự, cán bộ và công chức nếu họ hy sinh đang
lúc thừa hành công vụ. Sở dĩ tục lệ này được nới rộng ra hàng ngũ
những người không phải quân nhân là để cho công bằng v́ trong chiến
tranh, nếu có người hy sinh v́ quân vụ th́ cũng có người hy sinh v́
công vụ, họ cũng phải được nhận vinh dự mà quốc gia dành cho họ. Năm
(5) cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Ḥa, các ngành công chức và cảnh sát
c̣n được quyền tạo những huy chương riêng để vinh danh những viên
chức hay nhân viên làm việc xuất sắc, chẳng hạn như ngành thông tin
và chiêu hồi có Tâm Lư Chiến Bội Tinh Đệ Nhất và Đệ Nhị Hạng. Huy
chương cao quí nhất của công chức, cán bộ là Chương Mỹ Bội Tinh Đệ
Nhị và Đệ Nhất Hạng, riêng Đệ Nhất Hạng Chương Mỹ Bội Tinh khi gắn
xong phải cử quốc thiều như Bảo Quốc Huân Chương bên quân đội.
Tôi nhắc lại một vài chi tiết để cho thấy rằng trong điều kiện nào
một quân nhân hay một dân chính phục vụ quốc gia được hưởng vinh dự
mà quốc gia ban cho qua người đại diện hàng đầu cho quốc gia ấy.
Tổng Thống VNCH và đồng thời là tổng tư lệnh quân đội hay viên chức
được ủy nhiệm là người đại diện cho quốc gia để trao gắn huy chương
hay quyết định phủ lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ lên linh cữu của một
quân nhân hy sinh ngoài chiến trường hay một công chức tử nạn đang
lúc thi hành công vụ.
Những tài liệu báo chí được lưu trữ trong Thư Viện Quốc Gia VNCH,
dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Tướng Hồ Văn Tố chỉ huy trưởng
Trường Bộ Binh Thủ Đức đă bị vị tổng tư lệnh quân đội từ chối phủ
quốc kỳ lên quan tài v́ lư do ông qua đời không phải là từ một
nguyên nhân vinh dự. Năm 1964, phóng viên mặt trận của Hệ Thống
Truyền Thanh Quốc Gia, anh Khuất Duy Hải, tử trận tại chiến trường
Đức Cơ, Pleiku, đă không được phủ quốc kỳ chỉ v́ lư do anh không
phải là quân nhân. Tang lễ được hệ thống truyền thanh quốc gia đứng
ra cử hành trọng thể, tổng ủy viên Thông Tin (chức vụ tương đương
với tổng trưởng Thông Tin trong Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), Tướng
Nguyễn Bảo Trị đă đại diện chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đến
gắn Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu trên quan tài và vào dịp
này bản tuyên dương công trạng cố phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải
được đọc lên, nhưng không có quyết định phủ cờ v́ trường hợp anh là
trường hợp đầu tiên một phóng viên mặt trận dân sự của ngành truyền
thanh quốc gia tử trận trên chiến trường khi đang thi hành công vụ.
Dù phóng viên mặt trận Khuất Duy Hải với những kư sự chiến trường
được viết rất nhân bản và xúc động phát thanh hàng tuần, hấp dẫn
được hàng triệu thính giả, nhưng chính phủ lúc đó là chính phủ quân
nhân, chưa có tiền lệ phủ cờ nào dành cho những công chức trung cấp
hy sinh ngoài tiền tuyến.
Tôi nhắc lại một vài chi tiết lên quan đến nghi thức “da ngựa bọc
thây” đầy xúc động và vinh dự cho người nằm xuống trong trận mạc hay
phục vụ quốc gia không ngoài mục đích ǵ khác hơn là để nhắc lại
rằng VNCH khi xưa dù chưa phải là một vùng đất dân chủ tự do hoàn
toàn, nhưng những nguyên tắc liên quan đến việc ban phát ân sủng của
quốc gia rất chặt chẽ. Cho nên sau này nhiều đồng hương ở đây đưa ra
những lời khuyên rất chí lư: “Dù VNCH đă mất, dù quân đội, cảnh sát
công chức, cán bộ đă tan hàng nhưng nên duy tŕ cái dấu ấn tinh thần
từ những ǵ đă mất.” Dấu ấn tinh thần đó là ǵ? Nhiều người trong
cộng đồng giải thích theo cách nh́n của họ “đó là tinh thần chí công
vô tư, giữ ǵn tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm một cách thành
thực.” Ngày 30 Tháng Tư gần kề, vấn đề trách nhiệm lại được đặt ra
chứ không phải chỉ là những than khóc và những lời đăi bôi nơi cửa
miệng.
Năm nay, vấn đề ai là những người phải chịu trách nhiệm đă để một
nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau rơi vào tay những người
cộng sản được đặt ra với một bài thơ, một di chúc rất xúc động của
một cố tướng lănh VNCH: “Mai tôi chết, xin cờ vàng đừng phủ.” Đó là
Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên tư lệnh sư đoàn Nhảy Dù mà thời
chiến tranh Việt Nam, báo chí gọi ông là “con sói của trận mạc,” xin
trích:
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Lê Quang Lưỡng
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương?
Súng gươm xưa đă bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đă tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đă thấm vào ḷng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đă cần ǵ?
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đă tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ c̣n thấy trong mơ...
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,
Tuổi càng cao ḷng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng c̣n ai??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
Bài thơ tự nó đă là những cảm xúc đầy bi hùng tráng của một bại
tướng VNCH. Bài thơ được làm ít lâu trước khi ông qua đời vào ngày
21 Tháng Chín, 2005 tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California.
Việc ông di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 29 Tháng Tư, 1975 đă trở thành
vết thương và niềm u sầu suốt những năm tháng sau này qua một câu
thơ mà nhiều người thích “Sầu hận tim ta ai biết được.” Nhưng chính
lời trối trăn của ông đối với đồng đội, đồng hương đă làm h́nh ảnh
của một bại tướng trở nên sáng ngời:
“Tôi làm tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đă không dám
chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu cầu đừng phủ quốc kỳ lên
quan tài tôi, v́ tôi tự biết ḿnh không xứng đáng được hưởng lễ nghi
nầy.”
Với ḷng can đảm tuyệt vời, vị tướng lănh đáng được trân trọng nói
trên đă để lại lời nói cuối cùng trước khi qua đời bao hàm nỗi ḷng
u uẩn của dũng tướng, nhưng trong một phút chùng ḷng đă không theo
được gương của người xưa “thân làm tướng khi thành mất th́ phải chết
theo thành.” Nỗi buồn đó theo ông suốt những năm tháng c̣n lại của
cuộc sống lưu vong trên xứ người, để rồi cuối cùng chuẩn bị cho cái
chết ông đă can đảm từ chối vinh dự “da ngựa bọc thây,” khác với các
tướng lănh thời đương thời và cùng hoàn cảnh di tản như ông.
Nó là một thông điệp dứt khoát kêu gọi những người có trách nhiệm về
việc mất miền Nam Việt Nam hăy can đảm nhận trách nhiệm của ḿnh,
chấm dứt những nỗ lực t́m người lănh đạo cuối cùng phải đầu hàng để
trút trách nhiệm cho họ, chấm dứt việc đ̣i lại danh dự cho nhà lănh
đạo này hay lănh đạo khác mà biến cố cách đây 38 năm đă biến họ
thành đào ngũ, đào nhiệm trước địch quân, chấm dứt việc đem lá quốc
kỳ đă thấm máu quân, dân, cán, chính VNCH để đem phủ cho những người
không đáng được hưởng vinh dự đó, hăy xét lại cho thật kỹ việc tự
thêu khăn quàng, tự mang cà-vạt, đội mũ, mặc áo, tự sơn xe riêng của
ḿnh mầu cờ vàng ba sọc đỏ và nên tự hỏi: liệu ḿnh có xứng đáng
mang lá cờ này không, có đủ nhân cách, tư cách, có đủ sự trung thành
với là cờ đó không hay việc ôm lấy lá quốc kỳ chỉ để che giấu những
hoạt động chính trị thiếu chính trực của ḿnh?
Tôi là phóng viên mặt trận của hệ thống truyền thanh quốc gia đă
từng theo tường thuật hành quân và các trận đánh lớn từ thời Tướng
Lê Quang Lưỡng c̣n là tiểu đoàn trưởng cho đến lúc ông trở thành lữ
đoàn trưởng Lữ Đoàn 2 Sư Đoàn Nhảy Dù, cho nên tôi hiểu nỗi đau của
ông khi phải viết lại di chúc này. Nhưng ngay từ những năm 1964,
1965 khi chiến tranh bắt đầu lan rộng, Tướng Lê Quang Lưỡng đă là
một ngôi sao sáng trong số những ngôi sao c̣n rất trẻ ở sư đoàn Nhảy
Dù, một đại đơn vị lúc nào cũng ở tuyến đầu, nhận chịu những áp lực
nặng nề nhất từ phía CSBV, nhưng họ đă vượt qua được muôn trùng khó
khăn là do giữ được kỷ luật và tín niệm Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.
Riêng Tướng Lê Quang Lưỡng khi c̣n là tiểu đoàn trưởng đă được báo
chí miền Nam gọi là “con sói của trận mạc” không có ǵ sai cả. Kiên
tŕ vượt lên trên những lần thất bại, luôn luôn là tấm gương tinh
thần cho những sĩ quan và binh lính thuộc cấp, gan dạ và mưu lược
trong những giây phút căng thẳng và nguy hiểm nhất cho đơn vị, đối
xử tốt và đúng luật đối tù binh địch, Tướng Lê Quang Lưỡng đă ngồi
vào chức vụ tư lệnh của một trong những đơn vị tổng trừ bị hàng đầu
của Quân Lực VNCH.
Là một người công trạng sáng chói như ông mà chỉ v́ một quyết định
không mấy vinh dự khi đất nước nghiêng ngửa mà tên tuổi của ông bị
một vết chàm tưởng như sẽ vĩnh viễn không gột rửa. Nhưng ḷng yêu
nước, trọng danh dự và trách nhiệm được thể hiện qua bài thơ: “Khi
tôi chết xin cờ vàng đừng phủ,” ông đă nhận lại được danh dự và sự
chính trực của một người mang thân làm tướng và đang là bại tướng.
Gặp lại ông trong đám cưới của một người bạn năm 2001, ông cho mời
tôi lại bàn. Dù tôi không biết uống rượu, tôi đă rót đầy ly của ông
để đánh dấu ngày gặp lại người lính trận mà tôi vẫn nể phục này, ông
chỉ thân mật cười, giọng trầm: “Chắc Ánh chưa biết anh không c̣n
uống rượu được nữa v́ bệnh. Vả lại nhiều năm qua, anh thấy rượu sao
đắng quá.” Tôi nh́n lại “con sói già,” người hùng thở nào trên các
mặt trận ở Quảng Trị, Cùa, Đông Hà, Hải Lăng, Mỹ Chánh, PK.17,
Kontum, Pleiku... tự nhiên thấy mắt ḿnh cay cay. Đó là lần cuối
cùng tôi gặp ông.
Giờ đây, chắc linh hồn Tướng Lê Quang Lưỡng đă yên ổn thênh thang ở
cơi không c̣n chiến tranh và hận thù. Ông chắc đă gặp lại các đồng
đội cũng từng hành động can đảm giống như ông. Đó là Đại Tá Huỳnh
Thanh Sơn, tư lệnh phó Sư Đoàn 7 Bộ Binh, và cựu Trung Úy Đoàn Bá
Phụ, một trong những đại đội trưởng xuất sắc của Tiểu Đoàn 7 Nhảy
Dù. Đại Tá Sơn xuất thân từ Biệt Động Quân, sau những năm tháng trận
mạc dài dài, ông được lệnh thuyên chuyển làm tư lệnh cảnh sát vùng
và những năm cuối cùng trước 30 Tháng Tư, 1975, ông được bổ nhiệm tư
lệnh phó hành quân Sư Đoàn 7 Bộ Binh do Tướng Trần Văn Hai làm tư
lệnh. Khi Tướng Hai chuẩn bị tuẫn tiết th́ vừa lúc ông mở đường máu
dẫn quân từ Cai Lậy về Bộ Tư Lệnh ở Đồng Tâm. Kết quả ông lănh hơn
12 năm tù cải tạo. Được thả và định cư ở Mỹ theo diện HO, ông vẫn
không muốn ở không để lănh trợ cấp chính phủ nên không bao lâu sau
khi định cư dù con cái ông đă khôn lớn và ổn định, cựu Đại Tá Huỳnh
Thanh Sơn vẫn nhận công việc của một nhân viên an ninh tư để thấy
ḿnh vẫn c̣n có ích cho xă hội.
Ông bị ung thư gan và qua đời cách đây 11 năm. Trước khi qua đời ông
dặn vợ con là không nhận phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không đáng
được hưởng vinh dự ấy. C̣n cựu Trung Úy Đoàn Bá Phụ là cựu tù cải
tạo ở trại A-20 và đồng thời là người tù nổi tiếng bất khuất, định
cư ở Mỹ bằng cách vượt biển sau khi được thả ra khỏi trại vài tháng.
Sang định cư ở Hoa Kỳ, Phụ lập gia đ́nh, làm việc và nuôi dạy ba cô
con gái sau này trở thành những sinh viên, học sinh xuất sắc và được
học bổng của tỷ phú Bill Gates cũng như các học bổng khác. Trước khi
qua đời anh trối trăn là đừng phủ cờ vàng v́ cảm thấy ḿnh không
xứng đáng được hưởng vinh dự ấy và tôi là một trong những người
chứng của lời trối trăn đầy can đảm này của người bạn tù. Những điều
tôi viết ra chắc chắn có những người không đồng ư. Họ có thể có cách
nh́n khác. Tôi tôn trọng và không tranh căi. V́ theo cố Thiếu Tướng
Lê Quang Lưỡng:
“Bao năm trời bao nhiêu chàng trai trẻ
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.”
Ḷng can đảm của Tướng Lê Quang Lưỡng là một tấm gương sáng ngời một
lần nữa củng cố niềm tin cho tôi, cho chúng tôi rằng, cuối cùng danh
dự và chính trực muôn đời vẫn là thước đo con người dù trong hoàn
cảnh chiến thắng hay trong hoàn cảnh bại trận.
(Người Việt)
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh