( Viết để tưởng nhớ quư chiến hữu đă gục chết
trong lao tù , và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc
biệt là chị quả phụ của cố Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải. ....)
... T́nh h́nh sức khỏe anh em khi c̣n ở các trại do quân đội Việt
Cộng quản lư đă tồi tệ, th́ nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dă
man của bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn “Chó Vàng”, tiêu
chuẩn ăn uống th́ bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một th́a
cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén
sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô),
vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một
vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh.
Họa hoằn, một đôi ba tháng và các ngày Lễ Tết th́ được một chén cơm
trắng với hai ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài
miếng thịt trâu từ một con trâu già đă không c̣n kéo cày nổi hay bị
chết v́ không chịu nổi cái lạnh mùa đông. Với chế độ ăn uống như vậy
mà phải làm việc khổ sai, dẫn đến t́nh trạng kiệt lực, người nào
cũng chỉ c̣n da bọc xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em
tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói.
T́nh trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết
lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đă có một số anh em chết mà
anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” v́ hầu hết tù nhân chết đều
được chôn trên các sườn đồi. Và xin đơn cử một vài cái chết của vài
anh mà tôi có dịp ở chung:
Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng
đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực
pḥng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh
cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh th́ thầm
tâm sự:
- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một ḿnh, ông bà cụ luyến tiếc tài
sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy năo (tù cải tạo) trong đợt cải
cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đă ngoài 70 tuổi lại
phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai
mươi năm xa cách.
Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh
về món quà anh đă cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi
được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ
thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy
rồi thiếp dần vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau khi ra khỏi pḥng để điểm danh th́ thiếu một người, tên
thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và
kiểm soát anh em) đi vào th́ phát hiện anh Phong đă mê man. Chúng
tôi vội cơng anh lên trạm xá nhưng anh đă chết vài giờ sau đó.
Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc pḥng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn
II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở,
móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:
- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là
“giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó t́m lên
thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày
nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to
bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, v́ sợ
tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..
Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái t́nh dành
cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm
sau anh đă chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các
con.
Giữa năm 78 v́ đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đă
khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ c̣n trên 30kg. Tôi không c̣n bước
đi được nữa, mà chỉ có thể ḅ được vài ba thước, tôi được đưa xuống
trạm xá nằm trong “danh sách chờ”.
Tại đây đă có anh Tư, anh là người hạm trưởng đă sang Singapore rồi
lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận v́ đă quay
về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày th́ anh chết.
Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng
B́nh Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lư.
Dường như chẳng c̣n ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn c̣n nói
đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp c̣i”. Cũng thời gian này, có
một bài hát đă được anh sáng tác tôi vẫn c̣n nhớ được ít câu:
“Rồi một ngày mai không có anh,
em không c̣n phải nhớ phải mong
- Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi
- Cô đơn ngồi khóc một ḿnh
- Không một lần kịp vuốt mắt anh
- Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,
nh́n trông theo cánh chim từng đàn,
để ḿnh ta với bao ngày tháng xanh rêu,
bụi thời gian lấp kín hồn ḿnh,
đớn đau trong ḷng mà nhớ về nơi xa,
ôi ngày về c̣n dài bao lâu
- Rồi một ngày mai anh chết đi,
em không c̣n phải khóc phải thương
- Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào ḷng đất,
cô đơn phủ kín đời ḿnh.
- Không một lần kịp nói tiếng yêu.”-
Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da
không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên
biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị
ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đă nhớ
cái địa chỉ ở Biên Ḥa, nên chị đă đi t́m báo cho gia đ́nh tôi biết.
Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ
giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đă chỉ cho tôi gặp 5 phút v́
tôi đă gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đă cho tôi gặp gần
một giờ.
Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài
câu th́ đă hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, ḷng buồn ră rượi,
rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù h́nh sự được chỉ định
giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại.
Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều
có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau
hơn hai năm đă có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.
Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để
sử dụng cho bếp trại. Thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng
buộc phải cho gia đ́nh đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em
đă dần dần hồi phục.
Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng
thần chết đă bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các pḥng, anh em lại tụ tập
quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha
hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em
đội trà lén mang về.
Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm,
khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang v́
thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không c̣n hoang
mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.
... Anh em đă san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao
động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ.
Một buổi tối cuối năm, sau khi đă điểm danh vào pḥng, anh em đang
tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ th́
tên cán bộ trực tại trại đến cửa pḥng nói vọng vào yêu cầu Phan
Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”.
Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên
mang theo tấm nylon đề pḥng mưa, v́ mùa đông miền Bắc thật lạnh,
lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy
cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà
tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn băo leo lét. Ngang
khu nhà tiếp tân th́ đă thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng
đang đứng đợi.
Dường như đă được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán
bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng
tôi đi t́m mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải
chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu
trong cùng sát chân đồi.
Sau gần 15 phút chúng tôi đă t́m được ngôi mộ của anh với tấm bia
chỉ nhỏ bằng tờ giấy học tṛ ghi lờ mờ, c̣n nắm đất th́ chỉ cao hơn
mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị
mang về trong Nam .
Việc đầu tiên là t́m một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và
lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống
vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục
lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ c̣n rất trẻ chỉ khoảng
dưới 30, nét mặt xương xương.
Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên
cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, v́ trời đă
lâm râm mưa phùn. Chúng tôi d́u chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt
đầu đào.
Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đă đụng lớp ván đă mục, v́ khi tù
nhân chết th́ chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được
đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm
giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái
vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù h́nh sự khi đi
chôn th́ chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa.
Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đă rữa nát. Tôi đi
xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu
phụ cũng đă lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng
tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi
trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch
nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo
rồi vừa làm chị vừa tâm sự:
Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại th́ họ nói
là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau th́ em được tin anh
Hải đă chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.
Như vậy là họ đă dấu nhẹm không báo cho gia đ́nh, mới đây một người
mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau
mấy lần làm đơn cuối cùng họ đă phải cho. Nhưng khi đến đây th́ họ
chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà
tiếp qua đêm với lư do là ô uế.
Sau gần một giờ, thấy có thể đă không c̣n sót cái xương nào, chúng
tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng
tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái
bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nh́n
thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lư nhí vừa thổn thức
khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc c̣n lại.
Nh́n người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi
trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng
thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo.
Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong
kẽ răng:
– Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!
Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về
pḥng. Tên thường trực thi đua đă đứng đợi sẵn để mở cửa. Đă quá nửa
đêm, cái lạnh đă thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng,
tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt
chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như
người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả
một dân tộc đi trong đêm tối băo bùng.
Đoàn Trọng Hiếu
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh