Phạm Phong Dinh
Chị Thàng đă chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa
con vào ḷng, chị Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào
vào, chị rút chốt.
NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI LỬA BINH
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn
sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của
chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt cộng miền Nam, khuôn mặt
của những người vợ lính dường như đă rất mờ nhạt đằng sau chất muối
trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người lính Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ th́ h́nh ảnh những người
chị vô danh ấy đă dần hiện rơ trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng
ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca. Đó là
những người lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương,
không cả lương thực hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào
quang chói sáng nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngă thắt ngặt
nhất, mà đă góp phần đem chiến thắng quyết định trên chiến trường.
Đó là NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đă cùng chồng
dấn ḿnh trong cơn băo lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết,
có khi các chị hy sinh trước cả các anh. Những cái chết anh dũng
trong âm thầm đó nào ai biết được. Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc
Đỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ,
không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu,
không cả tiếng kèn truy điệu ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui rúc
trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những những cái hố nhỏ
ngập đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp
co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt của đêm.
Ăn uống th́ đạm bạc đến không có ǵ đạm bạc hơn được nữa. Một cái
nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất nước mắm hạng bét
mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà
có thể t́m thấy mọc đầy khắp những vũng nước đọng trên những cánh
dồng lầy.
Cả gia đ́nh người lính Địa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần
chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của ḿnh.
Không than thở, không ta thán và vui ḷng với niềm hạnh phúc mong
manh của ḿnh. Một năm 365 ngày, mười năm, hai mươi năm, cho đến
ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy ngàn đêm những người chị ấy
chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc là ǵ. Chị thao thức đến nửa
khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng ́ ầm về thành phố từ phía mặt
trận có anh ở đó, chị thổn thức nguyện cầu cho anh được b́nh yên, để
anh có một ngày được về với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc
về phép thật quá hiếm hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn,
anh chiến đấu cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, th́
chị cũng cơ cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ĐẤT G̉ CÔNG
Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà
công việc nào cũng biểu hiện h́nh ảnh và đức tính cao quí của người
phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ,
người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đ́nh, trông nom dạy dỗ
con cái và nấu nướng những bữa ăn.
Thứ hai, khi quân giặc đă thấy dẫy đầy ngoài những ṿng rào kẽm gai,
th́ những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở
quân trường ấy đă chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào.
Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng
thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và
chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn
tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc
poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người
chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Đ́nh này th́ ít nhất cũng có
những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm.
Đêm 2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những
đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục
tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt cộng đă tổ chức tấn công
11 vị trí của quân ta với quân số thật lớn. Đồn Giồng Đ́nh thuộc
tỉnh G̣ Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu
cuộc cường kích của 300 lính cộng.
Đây là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng
quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Đ́nh nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một
Trung Đội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung
tợn và thâm độc, lực lượng cộng quân đă bố trí ở hướng có nhiều nhà
dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên
truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông
bà lăo già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn
cho bọn giặc hèn nhát gọi là những "người giải phóng". Với quân số
ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa
Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt
của đồng bào để có cơ may thủ thắng, th́ c̣n từ ngữ nào, h́nh dung
từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt
của cộng sản nữa không.
Đúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy
Sáu Bích, đă mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Đ́nh, với sự
tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này
trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, v́ với
quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên th́
cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Đ́nh.
Trên lư thuyết, th́ giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận
địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa luôn luôn thể hiện những
chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường
nào, quả thật cộng quân đă chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công
hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đă chiếm được 2
trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn
công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san
bằng Giồng Đ́nh. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều
đó không. Câu trả lời là không, không chỉ đến từ ư chí hừng hực tử
thủ của các anh, mà c̣n là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ
lính đang sống cùng với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc
chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Đ́nh sẽ không thể
thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người
chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người
chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh.
Đồn Giồng Đ́nh nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh G̣ Công,
do một Trung Đội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có
anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Đồn Phó và anh Lê
Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không
chỉ có 24 tay súng mà đă đủ, nên tất cả những người vợ lính trong
đồn đều đă được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy
móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đă được nhân lên gấp
đôi.
Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất,
những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ ḅ dưới lưới đạn của
giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ
lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính,
con lính ấy làm sao có thể ẩn náu t́m cái sống trong khi chồng và
cha của họ sắp ngă gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn
công, th́ t́nh trạng bên trong đồn Giồng Đ́nh đă khá là bi đát. Đă
có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ c̣n 8 Nghĩa Quân c̣n
chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc
anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh
Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được
tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là
cứu tinh của đồn Giồng Đ́nh. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị
Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một
lực lượng quá đông của địch.
Nh́n ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đă đă tràn vào đen ng̣m như
những con quái vật hung hăn. Anh Hùng chỉ c̣n trong tay cây tiểu
liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine.
Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của
Việt cộng bắn vào quá gần, các em không c̣n khóc được nữa mà đă nằm
bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng th́ thào:
- Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh ḅ về giữ. Lô
cốt mất là đồn ḿnh mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng
tràn vào th́... th́... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng
được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nh́n vợ con, rồi nh́n về phía lô
cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đă yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa
Quân cố thủ ở đó đă kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Đồn Trưởng
thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đă xảy
ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, th́ coi
như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù
quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc
đă ḥ hét ngay sát bên rồi:
- Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh Hùng nh́n chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong ḷng anh
quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con ḿnh. Hai đứa nhỏ chẳng
biết c̣n sống hay đă chết. Anh phóng ḿnh xuống hào chạy băng băng
về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng
đạn rải vào những cái bóng đen đă quá gần. Anh Hùng đă ḅ vào được
lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng
đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn
có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị
Thàng.
Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đă đếm được đến con số 15,
mà tiếng súng của địch vẫn nỗ ḍn dă ngay sát tuyến pḥng thủ của
chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đă
điểm. Chị Thàng sẽ làm ǵ với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn
rên lên trong ḷng : “Chỉ c̣n một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em
cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ
tiếp cái ǵ sẽ xảy đến cho vợ con ḿnh, v́ dưới chân lô cốt anh tử
thủ đă đông nghẹt quân giặc. Đủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp
đồn, anh Hùng không biết chắc là ḿnh đă nghe được tiếng nổ của trái
lựu đạn thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đă kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đă phá
được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Đ́nh. Lúc đó
là 3 giờ sáng rạng ngày 2.10.1965. T́nh h́nh đă quá nguy ngập. Anh
Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, quyết định thà hy sinh c̣n hơn là để đồn
lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét
lớn:
- Hăy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ
nhứt và thứ hai đă thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hăy bắn lên
trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn...
Sau tiếng gọi thống thiết của người Đồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu
G̣ Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt
này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt
biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót.
Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe,
tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ
cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng
vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng
tên địch. Giữa tiếng súng nổ ḍn, dường như người ta nghe âm thanh
ŕ ŕ của máy bay. Không Quân Việt Nam đă tới. Những chiếc A1 khu
trục cơ đă xuất kích. Đến đây th́ "Thượng Úy" Việt cộng Sáu Bích,
tên chỉ huy trận đánh đă có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn
Giồng Đ́nh đă đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía
Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn
im tiếng súng. Quân địch đă kéo những xác chết và những tên bị
thương chạy trốn vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đă lên, hai Đại Đội Địa Phương
Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng G̣ Công chỉ huy đă đến và tổ
chức bung quân ra lục soát. Quân cộng đă để lại trận địa 23 xác
chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà
anh Đồn Trưởng Thi, Đồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đă
kháng cự mănh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này
mang trên ḿnh rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí
mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này.
Anh Thi và anh Hùng đă bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo
góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng
nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng
bắt đi tải thương lén trốn về được đă cho biết số bị thương của
chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương
tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại
sao may mắn ? V́ nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không
bị chết v́ nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng
những loại cưa và đục của thợ mộc, th́ cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh
mang anh đi thủ tiêu. Đó là lư do giải thích tại sao sau ngày
30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh cộng
sản trên đường phố.
Nhưng đối với anh Hùng, th́ tất cả những ǵ mà Viêt cộng đă trả giá
cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa
chấm dứt., quân cộng đă rút đi, th́ anh đă như một người điên lao
ḿnh ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đă một ḿnh một súng trấn giữ ở
đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn
thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng ḅ vào khúc hào mà anh đă nuốt nước
mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba
xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao
bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ th́ chị
Thàng cũng đi vào cơi chết, v́ chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép
giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đă chọn
một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào ḷng, chị
Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt!
Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ
đó đă được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào
ḷng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nh́n ra ngoài, những xác giặc
thù nằm ngỗn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của ḿnh,
anh Hùng thấy trong ḷng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự
hy sinh của chị Thàng đă cứu sống được tất cả những thương binh
Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh
mạng của người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15
trái lựu đạn của chị đă đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn
Giồng Đ́nh. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng
chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, th́
chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của
đồng Giồng Đ́nh đều sẽ chết hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người c̣n sống,
những người vợ lính khác đă gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng.
Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị
Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi,
những người vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị
Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẽo chiến trường,
chị Thạch Thị Định, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của
chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xă hội,
nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường
chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong
đời của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài
cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ Miền Tây ra
tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền Trung,
nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đ́nh. Nếu
anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, th́ anh mới
có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. C̣n nếu sự gọi là
may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, th́ anh được phép dài hạn
trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đă sinh ra anh. Đầu năm 1972,
trong một trận đánh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm
sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn
sau nhiều ngày cố gắng đă không thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu
Đoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh
mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng
sĩ Kinh Kha đă nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn ḅ lên, mỗi
người cầm một cây gậy ngắn ḍ đường. Đêm tối như mực. Hễ chọt trúng
cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái lổ đó, v́ ở đó chính là cái miệng
hầm chốt của địch. Đến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đă reo
ḥ trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép
đă trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên
của những người lính trận.
Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt tḥi
đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui ḷng với những ǵ ḿnh
có. Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem
nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của
lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những
người vợ lính. Chị Thàng đă chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu
bé đă thăng thiên lên cơi vĩnh hằng, nhưng những người c̣n sống cùng
thời với chị, cho măi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt
Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG.
V́ tên chị đă được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất
của lịch sử dân tộc Việt Nam chống Cộng sản quốc tế và Cộng sản Hà
Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế
kỷ thứ 20 và của lịch sử h́nh thành nhân con người.
AMRENG, NGƯỜI NỮ CHIẾN SĨ CAO NGUYÊN
Quân cộng sản hành quân trên vùng cao nguyên thường khinh rẻ và húng
hiếp các sắc dân Thượng rất thậm tệ. Chúng bắt trai tráng đi dân
công, thậm chí cho bổ sung vào những đơn vị Thượng cộng, người làng
th́ bị ép buộc đóng góp lương thực, lúa gạo. Chúng dùng muối, là thứ
tối cần của người dân miền cao, để đổi chác một cách rất bất lợi cho
người Thượng. Người Thượng sống vất vả quanh năm, chỉ trông cậy vào
những mảnh đất rừng khai phá để trồng trọt chút hoa màu hay trồng
lúa rẫy, không đói đă là may lắm rồi, có c̣n đâu dư dả để cung phụng
cho bọn Phỉ Cộng. Có nhiều trường hợp cả làng trong rừng sâu chịu
không nỗi cảnh áp bức, giết chóc, đă kéo nhau ra quận hay tỉnh để
xin nương náu với người Kinh.
Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă lập Bộ Phát Triễn Sắc Tộc để giải
quyết những vấn đề của người thiểu số. Hàng trăm trại tiếp cư tị nạn
cộng sản đă được thiết lập để đón tiếp đồng bào Thượng và giúp đỡ
đồng bào tạo dựng cuộc sống mới. Đất canh tác được cấp phát vô điều
kiện cho đồng bào Thượng tị nạn cộng sản. Thông thường th́ mỗi gia
đ́nh thiên tai hay tị nạn đều được cấp phát 10 bao xi măng và 20 tấm
tôn để cất lại một căn nhà nhỏ. Một nước nhỏ, nghèo là Việt Nam Cộng
Ḥa, quanh năm chiến tranh, ngân khoản thiếu thốn, mà đă cắn răng
gồng gánh giúp đỡ hàng triệu người đồng bào bất hạnh của ḿnh. Không
phải “Lá lành đùm lá rách nữa”, mà là “Lá rách đùm lá nát”. Đă vậy
mà thôi đâu, những làng định cư nhỏ bé và nghèo nàn ấy vừa được dựng
lên chưa được bao lâu, th́ Việt cộng đă tràn về đốt phá tan hoang.
Những chiếc lá rách nát lại cắn răng san sẻ cho nhau những ǵ ḿnh
có. Dưới mắt cộng sản, th́ những người dân chạy về phía chính quyền
và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa xin được che chở và giúp đỡ, đều mang
cái tội tày trời là “dân ngụy”, là “phản động”, dù có bắn bỏ hay đốt
cháy nhà cửa của họ cũng là chuyện trừng phạt đương nhiên của điều
mà chúng gọi là cuộc “cách mạng giải phóng”.
Với bản chất là một lũ cướp chuyên nghiệp và man rợ, cộng sản Hà Nội
hiện nay không bao giờ từ bỏ cơ hội chiếm đoạt đất khẩn hoang của
người Thượng. Chúng chờ cho các sắc tộc Thượng khai phá rừng tạo
dựng nên thành những vùng sinh sống màu mỡ trên những tỉnh cao
nguyên, là chúng kiếm chuyện cứớp đoạt một cách trắng trợn ngay, nại
lư do đất đai thuộc về quyền quản lư của nhà nước, người dân không
có quyền sỡ hữu. Mặt khác, chúng áp dụng h́nh thái thực dân, cho di
chuyển dân Kinh gốc Miền Bắc vào ở trên đất mà người Thượng đă sinh
sống từ ngàn năm, lấn dần, lấn dần, người Thượng kém thế phải lùi
măi vào tận rừng sâu,ở chỗ chỉ có nước độc, bệnh hoạn và đói kém. Đă
thế mà cộng sản nào chịu buông tha, chúng vẫn cứ cho phép những
người gọi là di dân tràn vào như vết dầu loang, để đồng bào Thượng
chịu không nỗi phải chạy qua đất Miên xin tị nạn. Đây là một tiến
tŕnh có chủ mưu, có sách lược để tiêu diệt dần ṃn dân Thượng.
Chúng ta có thể thấy ngay rằng, những người di dân Miền Bắc đă không
biết rằng ḿnh đang được rải ra làm phên dậu pḥng thủ dọc theo dăy
biên thùy Trường Sơn, án ngữ con đường đổ xuống đồng bằng duyên hải,
nếu có một đạo quân đánh sang từ đất Lào và Miên. Cũng tốt, cái phên
dậu đó giống như con dao hai lưỡi, rồi cũng có một ngày những đồng
bào di dân nghèo Miền Bắc đó sẽ trở thành một lực lượng mạnh có khả
năng thọc sâu mũi dao vào tận tim của bọn cộng sản để tiễn chúng
xuống tận đáy địa ngục.
Tức nước th́ có lúc cũng phải vỡ bờ. Ngày 12.4.2004, nhiều chục ngàn
dân Thượng của các sắc tộc sinh sống trong những tỉnh Kontum,
Pleiku, Darlac, Phước Long, B́nh Long đă kéo vào những thành phố
tỉnh lỵ để h́nh thành một cuộc phản kháng bất bạo động, phản đối
cộng sản Hà Nội đàn áp đức tin đạo Tin Lành, chiếm đoạt đất đai và
quyền sống căn bản của người Thượng. Dưới mắt cộng sản, dù chỉ là
một biểu hiện phản đối nhỏ cũng đă được gán cho cái tội phản động,
tội chết, chứ đừng nói ǵ đến những cuộc tập trung đông đảo như vậy.
Hàng sư đoàn bộ binh của cộng sản đă được điều động lên phối hợp với
công an đàn áp dă man cuộc tập trung. Hàng trăm đồng bào Thượng đă
bị bắn chết, những người bị thương bị đem vào cô lập trong bệnh viện
nhà nước, không ai có thể vào thăm viếng, kể cả những phóng viên và
những nhà ngoại giao nước ngoài.
Ngày đầu xuân Tân Hợi 1971, trên miền cao nguyên của Quân Khu II,
trong chiến dịch quân sự mà cộng sản gọi là Cao Điểm Tân Hợi nhằm
quấy phá những tỉnh biên thùy đă không thực hiện được. Có thể bởi
hậu quả của những cuộc hành quân Tây chinh vượt biên Cửu Long của
Quân Đoàn IV, Toàn Thắng của Quân Đoàn III và B́nh Tây của Quân Đoàn
II trong năm 1970 đă gây tổn thất nặng ở những kho tiếp tế hậu cần
của cộng sản, nên chúng khó thể đủ sức mở được những mặt trận lớn
như mong muốn. Đêm 31.1.1971, lúc 3 giờ sáng, một lực lượng cộng
quân tấn công vị trí của Đại Đội 838 Địa Phương Quân tại làng Plei
Kênh Săn thuộc tỉnh Pleiku..
Cuộc tấn công đă rất sớm bị thảm bại v́ quân địch đă không thể ngờ
rằng, có những người vợ lính cũng đă chiến đấu dũng mănh như thế
nào. Đại Đội 838 Địa Phương Quân đa số chiến sĩ là người dân tộc
Thượng, là những chiến sĩ sinh ra và lớn lên ở giữa núi rừng cao
nguyên, đă hun đúc các anh trở thành những con người cứng rắn như
những tảng đá khổng lồ trên triền dăy Trường Sơn. Người Thượng quen
sống kiếp du mục du canh, nên khi người lính Thượng Địa Phương Quân
đóng đồn ở đâu th́ vợ con của các anh cũng đi theo và nhanh chóng
thích ứng với môi trường cùng cuộc sống mới ở nơi đó. Tuy là phụ nữ,
nhưng những người đàn bà Tây nguyên dẻo dai không kém ǵ người đàn
ông Thượng. Vai mang gùi nặng trên lưng, chân trần chai sạn v́ đá
cứng và gai nhọn của núi rừng, cùng hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt,
bất cứ một người phụ nữ Thượng nào cũng đă được thiên nhiên rèn
luyện nên thành một mẫu người khỏe mạnh, rắn rỏi, nhưng vẫn giữ được
những dường nét mềm mại tràn đầy mạch sống. Cho nên khi cuộc chiến
đấu nổ ra, th́ những người đàn bà đó đă rất nhanh chóng trở thành
những người nữ binh hăng hái cầm súng đánh địch. Một trong những
người chị đó là chị Ksor Amreng, vợ của Binh Nhứt Kpa Dan.
Anh chị Dan và Amreng đều là người sắc tộc Djarai, sinh quán ở quận
Phú Túc, tỉnh Phú Bổn. Từ sau khi thành hôn, anh Dan nhập ngũ, th́
chị Amreng cũng đă theo chồng lên sinh sống trong những tiền đồn hẻo
lánh ở biên giới trong quận Phú Nhơn, tỉnh Pleiku, những địa danh
thật xa lạ với chị : Queng Mep, Plei Kênh Săn. Khi quân cộng sản Bắc
Việt nổ súng tấn công Plei Kênh Săn, chị Amreng đă vững vàng trong
tư thế phụ xạ thủ đại liên cho chồng. Khẩu đại liên M60 nằm phía sau
những lổ châu mai nhỏ đă bị giới hạn rất nhiều khu vực tác xạ, anh
Dan quyết định dời khẩu đại liên sang một vị trí khác có xạ trường
rộng lớn và bao quát hơn. Trong lúc chị Amreng chạy đi chạy lại để
khiêng những thùng đạn đại liên sang vị trí mới, th́ có ba tên Đặc
Công Việt cộng đă nhào vào đánh cận chiến với anh Dan. Anh Dan thật
dũng cảm, như một con beo ở rừng xanh, bằng tay không anh đă vật lộn
với chúng mà không nao núng. Chị Amreng vừa vác một thùng đạn đến,
quát bảo anh Dan tránh ra xa. Hiểu ư vợ, anh Dan lăn một ṿng, một
trái lựu đạn M26 từ trong tay chị Amreng được ném tới. Ba tên Đặc
Công chưa kịp phản ứng, th́ một tiếng nổ chát chúa đă đốn gục chúng
xuống ngay bên cạnh đường giao thông hào. Khẩu đại liên M60 trong
tay đôi vợ chồng Dan và Amreng đă bắt đầu nổ ḍn dă ngăn chận tất cả
những cuộc tấn công biển người của địch vào đồn. Anh Dan đang say
mùi thuốc súng, anh đă không để ư nhiều tên Đặc Công khác đă ḅ vào
gần khẩu đại liên để mở cuộc cận chiến lần nữa.
Nhưng chúng không biết rằng người nữ binh vóc dáng nhỏ bé với khuôn
mặt hiền lành như một em bé đă rất cảnh giác. Ba trái lựu đạn M26 đă
được chị quăng ra rất chính xác vào những cái bóng đen đang ḅ lổn
nhổn. Giữa tiếng súng nổ ầm ầm, chị Amreng đă có thể nghe thấy tiếng
kêu gào thảm thiết của những lính địch trúng phải lựu đạn của chị.
Đến lúc này th́ anh Kpa Dan chợt nhận ra rằng ḿnh đă bị thương, chị
Amreng lập tức trở thành xạ thủ chính, anh Dan lùi qua một bên làm
xạ thủ phụ cho chị. Hào hùng không kém ǵ những đấng nam nhi, người
nữ chiến sĩ ấy đă cùng với khẩu M60 đốn ngă hàng loạt cuộc tấn công
của giặc. Sinh mạng của cái đồn nhỏ Plei Kênh Săn phần lớn trông cậy
vào khẩu đại liên. Nói một cách chính xác, toàn tiền đồn cậy nhờ vào
đôi bàn tay nhỏ nhắn của một cô gái mà ngày thường rất hiền ḥa và
ít nói này.
Khi ánh b́nh minh lên, giặc chấp nhận thua cuộc và đă rút đi, chiến
trường đă hoàn toàn im tiếng súng, lũ chim rừng sau một đêm kinh
hoàng đă ríu rít hát ca trên cành lá đón chào một ngày mới. Tin
chiến thắng của Plei Kênh Săn đă bay về đến Pleiku và cái tên Ksor
Amreng thật dịu dàng và thật đẹp ấy đă được người dân thành phố gọi
là buồn muôn thuở này nhắc nhở nhiều. Kinh lẫn Thượng, đồng bào
Pleiku đă chung góp gửi đến chị Amreng và Đại Đội 838 Địa Phương
Quân nhiều tặng phẩm và tiền thưởng. Thiếu Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh
Quân Đoàn II & Quân Khu II đă đích thân bay trực thăng đến Plei Kênh
Săn trân trọng trao gắn cho người lính không số quân Amreng chiếc
huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh, một vinh dự hiếm có dành cho
một người dân sự .
Tấm gương chiến đấu của chị Ksor Amreng là một trong nhiều tấm gương
thầm lặng c̣n chưa được biết của những người chị trên cao nguyên
trong cuộc chiến tranh bảo quốc bi tráng của dân tộc Việt Nam. Ngày
nay, những thế hệ đi sau anh chị Dan và Amreng sẽ măi nhớ rằng, ḍng
máu kiên cường uy vũ bất năng khuất, mà anh chị cùng những chiến sĩ
Thượng, từng một thời thể hiện dưới lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Ḥa và
Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, là một niềm kiêu hănh sáng chói
mà họ, những đồng bào Thượng đang bị kềm kẹp oan khuất dưới bàn tay
sắt máu của cộng sản Bắc Việt, cũng sẽ có ngày vùng lên ném những
quả lựu đạn, và bắn những tràng đại liên vào giữa mặt bọn chúng, để
hủy diệt chúng, bọn vô dân tộc, vô thần đó, và cho chúng biết ḷng
quật khởi phi thường của người dân Nước Nam.
Phạm Phong Dinh
18/4/2013
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh