Lê Nguyên Hằng & Nguyễn Thạch-Hăn
Tuy Hòa, nơi tôi ở cách nay gần sáu chục năm, là một thành
phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân
Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng
dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển
Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc
trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp.
Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang
trên đỉnh núi, soi mình bên dòng Đà Giang lững lờ trôi, đều
ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước
Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ
còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt!
Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao
ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của
vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng
là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.
Tôi là một trong nhóm người Bắc di cư nhỏ nhoi, được may mắn
định cư và lớn lên trên vùng đất tự do, ấm cúng Tuy Hòa nơi
mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt
tình.
Thời 54, chính quyền cho cất một xóm độ vài chục căn nhà
tranh vách đất vây quanh cái giếng nước trên một mảnh đất
khá rộng, để đón dân Bắc Kỳ di cư. Tất cả sinh hoạt của
trại đều xảy ra ở đó. Từ tắm rửa, giặt quần áo, xách
nước về nhà để nấu ăn, chuyện gẫu, trai gái gặp gỡ làm
quen. Đó đúng là một tụ điểm hội họp, giống như sân đập
lúa ở một làng quê, bởi vì chẳng có một thứ giải trí
nào khác.
Trại di cư được tổ chức theo kiểu làng xã thời xưa: có một
trưởng trại, vài vị trong ban hội đồng, họp nhau thường
xuyên để cải thiện đời sống cư dân. Ngoài ra hội đồng trại
còn lo việc phân phối thực phẩm và làm cái gạch nối giữa
dân di cư và chính quyền thành phố. Hồi xưa chưa có điện
thoại, nên tôi được chỉ định làm “thằng mõ” để thông báo
tới từng gia đình những tin tức từ ban hội đồng trại đưa
ra. Mỗi nhà đều có “Sổ Gia Đình”. Chính quyền tùy theo nhân
khẩu mà cấp phát nhu yếu phẩm như dầu hôi để nấu ăn và
thắp đèn, gạo, đường, đồ hộp, sữa bột, bột mì, bột bắp.
Sữa thì pha với nước sôi để uống, ai không quen, Tào Tháo
đuổi là chuyện thường. Bột mì và bột bắp chẳng biết làm
gì, nấu chè mãi ăn cũng ngán bèn nhồi thành những con thú
như bò, gà, heo, rồi chiên lên ăn, cũng ngon ra phết!
Có cả quần áo nữa, những bộ quần áo rộng thùng thình tuy
cũ nhưng còn rất tốt. Bà con tháo ra và sửa lại cho đúng
khổ người mình. Sau này còn cấp heo con để nuôi làm giống.
Những con heo Mỹ trắng bóc mắt xanh lè trông rất lạ mắt,
mau lớn như thổi, to như một con bê, khác hẳn với mấy con heo
đen thui, nhỏ xíu của xứ mình.
Hầu như xóm Bắc Kỳ di cư nhà nào cũng nuôi một vài con heo,
heo nái cơ. Thỉnh thoảng có anh chàng nhà quê, dắt theo chú
heo nọc nhỏ xíu, đi lang thang ngoài đường, tay cầm chiếc roi
thật dài, để điều khiển heo như người ta chăn vịt vậy. Khi
heo nái bắt đầu kêu la om xòm và phá phách trong chuồng, cứ
gọi anh ta vào là vài tháng sau, chủ trại sẽ có một bầy
heo con đẹp đẽ. Anh ta chẳng làm gì đâu, con heo của anh làm
thôi. Thấy chú heo nọc nhỏ xíu đứng gần nàng heo nái to
kềnh mà tội nghiệp. Tôi cũng tò mò đứng xem chú làm gì,
mỗi lần như vậy, Nội lại đuổi đi chỗ khác chơi. Khi chàng
heo nọc làm xong phận sự, được chủ nhân cho ăn một nồi cám
to nấu với đậu xanh bảo là “để lấy lại sức”. À, thì ra
chú làm việc cũng vất vả lắm đấy.
Vài năm sau, khi những người di cư đã có thể tự lập, chế
độ cấp phát thực phẩm cũng chấm dứt theo.
Đời sống trong trại di cư khác thật xa với các trại của
vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ,
êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất
nước. Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ
một khoản học phí nào. Tôi có những bạn cùng lớp đạp xe
đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. Bệnh viện đều miễn
phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự
và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. T́nh nghĩa thày tṛ thắm
thiết như cha mẹ và con cái. Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp.
Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên
bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: Ám
sát, chặn đường, đặt ḿn xe đ̣, xe lửa, pháo kích, súng nổ
khắp nơi.
Ba tôi dạy học mãi ngoài Hội An, nên tôi ở lại Tuy Hoà với
Ông Nội và bà cô để tiện bề học hành và hầu hạ Ông. Tôi
coi Ông giống như Cha, nhưng đôi khi cũng rất buồn, cô đơn và
tủi thân. Bởi vì Ông già hơn Cha nhiều và khó gần gũi.
Những lúc như vậy, hầu như tôi chỉ có bé Uyên là người thân
thích nhất.
Uyên là “cô bé lọ lem” nhà hàng xóm, nhỏ hơn tôi sáu, bảy
tuổi gì đó. Ba Uyên là quân nhân, luôn vắng nhà. Mẹ Uyên
thương tôi như con bà vậy. Tôi không biết tên bà chỉ biết ai
cũng gọi bà là “Cô Ba Nam kỳ”. Lúc rảnh rỗi tôi hay lại
nhà em chơi.
Bé Uyên thường theo tôi đi nhà thờ. Đó là ngôi thánh đường
nhỏ xíu, gần một dòng sông, có những hàng cây keo cao ngất
mọc bên bờ, đầy gai và hoa trắng nõn, dày cơm, ngọt lịm.
Chúng tôi hái hoa keo ăn chán chê, rồi ngồi trên bờ cát nhìn
xuống dòng sông nhỏ bé lững lờ trôi, ngắm bày chim chiền
chiện đuổi nhau trên đám cỏ lau kêu ríu rít, quên cả vô nhà
thờ cầu nguyện.
Hai đứa chúng tôi sống bên nhau như hai trẻ mồ côi lạc loài.
Tất cả tình thương tôi đều dành cho Uyên, chiều chuộng em như
chính em ruột của mình. Uyên cũng cảm nhận được điều đó
nên luôn mè nheo tôi.
- Anh Hai, mấy con chim đó tên là gì dzậy?
- Người ta gọi là chim chiền chiện.
- Ai đặt tên cho nó dzậy?
- Anh hổng biết.
- Chắc má nó đặt tên cho nó phải hông?
- Chắc Ba nó đặt đó, giống như Ba đặt tên cho em dzậy.
- Ừ há.
- Bắt nó cho em đi, anh Hai.
- Nó chạy nhanh lắm, làm sao anh bắt được.
- Cẳng anh dài hơn cẳng nó mà.
- Nhưng nó có cánh.
- Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, anh lớn như dzầy mà
hổng bắt được con chim nhỏ xíu đó.
- Để nó sống với ba má, bắt nó làm chi tội nghiệp, lỡ nó
nhớ ba, buồn rồi bịnh chết mất sao.
- Anh Hai ơi, em nhớ Ba quá hà, bữa nào Ba dzìa, em nói Ba
dẫn anh em mình đi ăn cơm gà xiu xiu nghe.
- Ừ phải đấy.
Tôi thấy mắt em đỏ hoe và quên mất chuyện đòi bắt chim
chiền chiện. Tôi ôm em thật chặt, và hôn lên tóc em. Tôi
thương em và thương tôi quá đỗi.
- Ngoan đi, anh còn một đồng đây, anh mua bánh tiêu cho em ăn
nghe?
- Hổng chịu đâu.
- Chè đậu dzán dzậy?
- Hổng chịu.
- Kẹo kéo nhá, quay số trúng, chịu hông?
Nghe quay số mắt em sáng lên nhưng phụng phịu:
- Em chỉ muốn ăn kẹo bột thôi.
- Kẹo bột là kẹo gì dzậy trời?
- Kẹo đường đen rắc bột trắng đó.
- Trời đất, kẹo đường cứt trâu đó hả?
Em mở to mắt tròn xoe như hai viên bi thủy tinh và gật đầu
lia lịa.
- Mở miệng ra coi, còn mấy cái răng mà đòi ăn kẹo bột. Em
có biết là ăn nhiều đường sẽ bị sún răng không? Con gái mà
sún răng trông xấu lắm mà còn bị bạn “lêu lêu” nữa đó.
- Thiệt hông? Anh xạo, em mét má cho coi.
- Sao hổng thiệt, em sờ dzô thì biết, coi chừng răng sún cắt
đứt tay đó nghen.
Con bé có vẻ sợ thiệt, rơm rớm nước mắt. Tôi phải ôm Uyên
dỗ dành. Có lẽ tôi thương em nhất trên đời. Em ở ngay bên
tôi, an ủi tôi, cần tôi che chở, dẫn dắt, tất cả mọi thứ
khác đều quá xa vời.
- Em thấy anh Hai khóc nè!
- Đâu có, cát bay dzô mắt anh đó.
- Anh Hai xạo quá, rõ ràng em thấy tóc em ướt mà.
- Chắc con chim chiền chiện bay ngang, nó tè trên đầu em, vì
em đòi bắt nó đó.
Em cười rũ rợi, và đấm trên ngực tôi liên hồi. Chúng tôi
quên hết muộn phiền.
Muốn đến nhà thờ phải lội bộ ngang ga xe lửa rồi băng qua
nhiều đồi cát, tôi vừa đi vừa kể chuyện cho Uyên nghe, đó
là những chuyện tôi đọc được trong các trang báo thiếu nhi,
hay những truyện nhi đồng như Bạch Tuyết Và Bẩy Chú Lùn, Cô
Bé Lọ Lem, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, Thằng Người Gỗ... Nhiều khi
vừa cõng em vừa kể chuyện, tới lúc cô bé đã ngủ gục trên
vai tôi lúc nào không biết. Mỗi lần đi ngang ga xe lửa, mùi
cơm gà xiu xiu từ gánh hàng rong của chú Ba lại làm bụng
hai đứa tôi cồn cào, nước miếng thi nhau chảy ra như mưa rào.
Ôi những miếng thịt gà vàng ngậy, bóng lưỡng nằm trên đĩa
cơm nấu bằng nước gà luộc rồi chiên với mỡ gà. Lần nào đi
ngang qua hàng cơm gà, Uyên cũng dán mắt vào đó, chân bước
đi không nổi. Tôi chỉ có mỗi ước mơ nhỏ bé, một ngày nào
đó sẽ mua cho Uyên một dĩa cơm gà xiu xiu!
Có lần cô Ba mắc đi sanh em bé, Cô xin phép Nội cho tôi qua
ngủ trông nhà và Uyên cho Cô. Cô phải vào nhà hộ sanh sớm
kẻo tối có chuyện gì đi không kịp. Tỉnh nhỏ làm gì có
phương tiện chuyên chở như bây giờ, đêm hôm chỉ có nước lội
bộ thôi.
Tôi dắt Uyên về Nội ăn cơm rồi hai đứa về nhà em ngủ. Dạo
đó, tôi đang học đệ lục (ngang lớp 7 bây giờ), kể cũng đã
lớn rồi. Uyên còn nhỏ lắm. Buổi tối em nhất định đòi tôi
ngủ chung giường, Uyên nói:
- Em ngủ một mình sợ lắm, em vẫn ngủ chung với Má.
- Nhưng anh là con trai, em là con gái không ngủ chung được.
- Thế Ba với Má vẫn ngủ chung đó sao.
- Ba với Má thì khác, lớn lên em sẽ hiểu.
- Em thấy khác gì đâu, em hổng chịu đâu.
Giọng Nam Kỳ nhõng nhẽo, mếu máo, khiến tôi không thể làm
phật ý em được. Đợi khi em ngủ say, tôi gỡ tay ra, trải
chiếu, ngủ trên thềm nhà. Buổi sáng khi vừa mở mắt ra, đã
thấy em nằm ngủ say sưa bên cạnh. Uyên ngây thơ và vô tư như
thiên thần.
Từ ngày có em bé, Uyên không còn được Mẹ chăm sóc như xưa,
em quanh quẩn bên tôi nhiều hơn, buổi tối thường ăn cơm chung
với tôi và đòi chỉ em làm bài tập.
Cô tôi buôn bán cam. Một bà cô khác ở Saigon, cứ cách một
ngày lại gởi hàng ra bằng xe lửa. Tôi chỉ việc ra lãnh mang
về, Cô lo phân phối cho bạn hàng ngoài chợ.
Đường xe lửa xuyên Việt chạy ngang thành phố. Mỗi khi về
tới, tiếng còi tàu “ò e…, ò e…” đánh thức cả thành phố
đang ngái ngủ. Tôi vội mướn xe xích lô chạy ra nhà ga để
lãnh nhận những cần xé cam nặng trĩu… Bao giờ tôi cũng dấu
một hai trái để cho Uyên, em thích lắm. Đó là thứ quà rất
xa xỉ thời đó.
Năm cuối cùng trung học đệ nhất cấp, tôi chuẩn bị đi Saigon
học tiếp. Sẵn có tiền Nội cho, tôi dẫn Uyên đi ăn cơm gà xiu
xiu, đó là bữa ăn ngon nhất trên đời tôi và em được ăn. Dù
sau này đi khắp năm châu bốn bể, tôi cũng không thấy bữa ăn
nào ngon như thế.
Lúc tôi lên đại học thì Uyên vừa vào trung học. Mỗi năm cứ
vào dịp hè tôi lại đáp xe lửa về Tuy Hòa thăm Nội và Uyên.
Tôi hay dẫn em leo núi Nhạn hái trái sim màu tím thẫm ngọt
lịm hay trái dú dẻ màu vàng tươi, thơm ngát. Đó là những
ngày hè vui nhất trong đời. Uyên càng lớn càng xinh đẹp hơn,
không còn là cô bé lọ lem ngày nào. Chúng tôi vẫn leo lên
mấy đồi cát đi về phía nhà thờ bên dòng sông thời thơ ấu,
nhưng em không còn bắt tôi cõng và cũng không còn đòi ăn kẹo
bột nữa.
Đôi khi chúng tôi ra ngồi ngoài bãi biển yên lặng nhìn mông
lung về phía chân trời, mắt dõi theo những chiếc thuyền
lững lờ trôi về nơi xa xăm. Sự tin yêu và thông cảm đã khiến
chúng tôi hiểu lòng nhau mà không cần phải nói thành lời.
Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, đời tôi rồi cũng sẽ
như những chiếc thuyền vô định trên biển cả mênh mông kia.
Những năm “học đại” thật vất vả, tôi vừa phải lo kiếm sống
vừa phải vùi đầu vào đống sách vở cao ngất ngưởng, chẳng
nên cơm cháo gì, được vài cái chứng chỉ vớ vẩn, vứt ra
đường không ai thèm lượm.
Rồi vụ thảm sát Tết Mậu Thân xảy ra, thời hạn hoãn dịch
vì học vấn không còn hiệu lực nữa. Tôi cầm Lệnh Gọi Nhập
Ngũ mà lòng bâng khuâng khôn tả. Những ngày tháng mơ mộng
của tuổi cắp sách đến trường đã chấm dứt. Cuộc đời tôi đi
vào một ngõ rẽ, đầy chông gai, và tương lai thì rất mập
mờ.
Tôi đã 23 tuổi và có đúng một tháng để gói ghém tuổi học
trò cất vào ngăn tủ khóa lại kỹ càng trước khi bước vào
quân ngũ.
Tôi trở lại Tuy Hòa thăm Nội và từ giã Uyên. Em vừa xong
trung học đệ nhất cấp, chuẩn bị lên đệ tam (lớp 10). Uyên
đã biết e lệ khi đi bên tôi, con mắt to đen láy có dáng tôi
trong đó. Con đường đi lên đồi cát dẫn đến dòng sông tuổi
nhỏ, chúng tôi đã đi qua biết bao nhiêu lần, nhưng lần này
thật mới, xa lạ, ngập ngừng, e thẹn. Nắng sớm mai trải dài
trên những đồi cát, chỗ sáng chỗ mờ, tạo thành những đợt
sóng cát vô tận, như những đợt sóng ngầm trong lòng hai
đứa.
Chúng tôi ngồi bên nhau, bên bờ sông dưới hàng keo rậm rạp,
nhìn cặp kỳ nhông đầy màu sắc rượt đuổi nhau trên bãi cát.
- Anh Hai kỳ ghê hà, sao nhìn em hoài dzậy?
- Anh muốn mang bé đi mãi mãi trong tim anh, dù có phiêu bạt
tận chân trời góc bể nào đi nữa.
- Thôi hổng chịu đâu, anh Hai ở lại đây dzới em.
- Hổng được đâu, người ta nhốt anh trong tù thì sao?
- Em sẽ biến thành con muỗi, chui vô thăm anh mỗi ngày, chịu
hông?
- Hổng chịu, muỗi chích đau lắm.
- Em thương anh hổng chích anh đâu mờ.
- Ý trời! Mấy con muỗi cái chích đau dữ lắm đó.
- Thôi làm con kiến dzậy, hổng được, con bươm bướm chịu hông?
- Chịu, người ta đưa anh lên rừng thì sao bướm bay cho nổi?
- Em sẽ hóa thành con chim bay theo anh.
- Người ta thảy anh xuống biển thì sao?
- Em sẽ hóa thành con cá lội theo anh. Thôi em hổng chơi dzới
anh nữa đâu, tối ngày đòi đi này nọ, hổng chịu ở đây dzới
em.
Em thật ngây thơ, chuyện đời đâu phải cứ muốn là được. Tôi
cũng như chiếc lá lênh đênh trên dòng sông dưới kia, trôi hoài
trôi mãi, cố vẫy vùng cũng không thoát khỏi số phận, cho
đến ngày chịu nằm yên ngoài biển khơi.
Rồi cũng đến lúc tôi phải ra đi. Bước lên con tàu, nhìn Uyên
ở lại sân ga, trong bộ quần jean áo trắng tôi mới cho em, hai
vạt áo chemise cột chéo vào nhau, trẻ trung nhí nhảnh hết
sức, đang sụt sùi lau mắt. Tiếng còi tàu thét lên, tim tôi
như vỡ ra từng mảnh, con tàu từ từ lăn bánh.
Em ở lại ôm ấp mối tình ngây thơ, còn tôi ra đi mang theo
hình bóng em trên con đường vô định.
Những năm tháng miệt mài với chiến trận, tôi theo đoàn quân
mũ nâu, lội khắp các tỉnh miền Trung, tham chiến nhũng trận
đánh lớn Bồng Sơn, Tam Quan, Thường Đức, rồi lên cao nguyên Kontum,
Pleiku, Ban Mê Thuột, Phú Bổn, Phú Túc, Đức lập, Dakto, Ben
Het, Quốc lộ 14, nhiều lắm kể sao cho hết. Tôi đi đến đâu
cũng mang theo bé Uyên trong tim. Em như thiên thần hộ mệnh,
giúp tôi vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, cho đến ngày Ban Mê
Thuột thất thủ, tôi trở thành tù binh.
Những năm tháng tù đầy hình ảnh em luôn ở bên cạnh tôi, có
lúc là con muỗi, đậu ngoan ngoãn trên cánh tay tôi, có lúc
là con chim hót líu lo trên cành cây giúp tôi quên đi những
bó cây rừng nặng nề trên vai. Có lúc tôi thẫn thờ thấy em
là con bướm đang chập chờn trước mặt, cười cợt, khiến lòng
tôi quên đi bao nhiêu phiền não. Vâng, em đã giữ đúng lời hứa
theo tôi từng bước chân lưu lạc tù đầy. Tôi gọi tên em khe
khẽ trong cơn sốt rét rừng lạnh run người, rồi nóng bỏng.
Tôi thấy em mặc áo trắng toát, đuôi áo xòe ra tận chân
trời. Tôi cầm tay em đi bên dòng sông tuổi nhỏ, những con kỳ
nhông sặc sỡ bu đến bên em, rồi tất cả bay lên khỏi từng mây
trong bầu trời nắng chan hòa, có những đàn chim chiền chiện
nâng áo em như thể đang trong ngày cưới, ở một vùng trời
thênh thang, xa hẳn cõi trần thế khổ đau.
Rồi tôi cũng được thả ra khỏi trại tù cộng sản, nhưng khi
trở lại Tuy Hòa, thành phố đã xa lạ, tan tác.
Chú Ba với gánh cơm gà xiu xiu đã phiêu bạt nơi nào. Nội tôi
đã qua đời, cô tôi đã có chồng vẫn còn trong trại tù nào
đó tận đâu ngoài Bắc. Căn nhà Uyên ở nay đã thuộc về người
khác, có lẽ là cán bộ từ miền Bắc vào. Em ở đâu, gia
đình tôi lưu lạc phương nào tôi chẳng biết. Đúng là cảnh
nước mất nhà tan. Thành phố nay đã thay đổi, chẳng nhìn
thấy một nụ cười, phố xá xơ xác điêu tàn, cơm không đủ ăn.
Tìm về dòng sông tuổi nhỏ, nơi tôi và em đã từng đến để
sưởi ấm tâm hồn. Những con chim chiền chiện vẫn còn đó,
những hàng cây keo cao ngất vẫn còn đây, những con kỳ nhông
vẫn vô tư đuổi nhau trên bãi cát. Tôi tự hỏi đã có bao nhiêu
thế hệ chiền chiện bay ở đây? Bao nhiêu lần lá keo thay đổi,
nhưng dòng sông thời thơ ấu vẫn còn y nguyên, như tấm lòng
của tôi đối với Uyên. Nước vẫn lững lờ trôi êm đềm, mang
theo cả tuổi thơ của hai đứa tôi đi mất. Tôi muốn khóc, cho
em, cho tôi, cho tất cả những người Việt Nam điêu linh, khốn
khổ vì chiến tranh, vì hận thù. Nước mắt tôi đã cạn khô
từ những ngày trong lao tù tủi nhục. Linh hồn tôi đã bay
khỏi địa ngục trần gian, để lại một thân xác bơ vơ, rã
rời.
Tôi thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết, hơn cả những ngày còn
rất bé bỏng, trong một làng quê hẻo lánh bên bờ sông quê
nội, thuộc “Vùng Tề.”
&&&
Thời chiến tranh Việt - Pháp trước 1954, “vùng tề” là cách
gọi vùng đất bị người Pháp kiểm soát để phân biệt với
“Vùng Tự Do” mà Việt Minh đã đặt được cơ sở. Thật ra đây
là những vùng “xôi đậu” giống như ở một số nơi mất an ninh
tại Miền Nam sau này. Ban đêm lính trong đồn có thể pháo
bừa vào đó, ban ngày Việt Minh cũng làm như thế. Ngoài Bắc
có câu “Ấm ớ hội tề”, chỉ mấy ông hội đồng làng tề ba
hồi ngả bên này ba hồi ngả bên kia, tùy theo hoàn cảnh.
Tôi đã chứng kiến những ngày điêu linh tan tác ở đó.
Đó là một làng nhỏ, thuộc tỉnh Thái Bình, chỉ cần đi bộ
vài cây số đến bến đò Tân Đệ, theo chuyến đò ngang, bên kia
sông đã là thành phố Nam Định. Có lần tôi theo Nội qua Nam
Định thăm người bà con, cả thành phố đóng cửa kín mít, vì
đám Tây Lê Dương vừa đi hành quân về, nhiều đứa say rượu đập
phá ngoài đường.
Nội có 5 người con, 3 trai hai gái. Bác Cả hoạt động cho
Quốc Dân Đảng tận ngoài miền Trung đã đổi tên đổi họ biệt
tích giang hồ. Chú tôi theo Việt Minh, thỉnh thoảng về thăm
nhà ban đêm, chốc lát rồi đi. Có lần Chú về và xin với Mẹ
cho tôi theo Chú qua bên “Vùng Tự Do”.
Chú cõng tôi trên lưng, đi hằng chục cây số trong đêm tối,
giữa những bờ ruộng, tiếng ễnh ương kêu vang bên tai. Tôi ngủ
trên lưng Chú lúc nào không biết.
Sáng thức dậy, thấy mình nằm trên chiếc chõng tre trong căn
nhà lá xa lạ. Tôi học những lớp vỡ lòng ở đó, trong một
đình làng, trẻ con chơi nhiều học ít. Học nửa buổi, còn
nửa buổi ra cánh đồng bắt sâu trên những ruộng lúa mới trổ
bông hay hái rau muống mang ra chợ bán gây quỹ cho đội (thiếu
nhi). Đêm đêm, xách “đèn chai” đi họp đội hay tập nhảy “son
đố mì”.
Tôi còn nhớ được vài bài hát đại khái như “Bác Hồ Chí
Minh là mặt trời” hoặc “Đảng lao động Việt Nam, đảng của
chúng ta, vì cơm áo tự do, ăn no nằm chết giữa đường…”. Tại
sao lại ăn no nằm chết giữa đường? Dĩ nhiên do dân chúng đổi lời,
nhưng bạn nghĩ xem có lư do chứ. Vâng, dân miền Bắc đói lắm! Có cả
những bài ca tụng Liên Sô như “Dân Liên Sô, vui hát trên đồng
xanh, đây bao la ánh nắng xuân chan hòa…”, đó là một cái bánh vẽ
rơ to, bây giờ nhớ lại thấy vô duyên và kỳ cục. Mấy nhạc sĩ
tác giả của những đứa con tật nguyền đó, chắc có lúc đă hối hận muốn
vứt bỏ chúng nó đi, nhưng không có cách nào làm được. Như ông Tố Hữu
có muốn vứt bỏ đứa con cùi lở què quặt cũng không làm được, nó theo
ông đến muôn đời:
“Ông Sịt Ta Lin ơi, ông Sịt Ta Lin,
Hỡi ơi ông mất! đất trời có không?
Thương cha thương một, thương ông thương mười”
Ở với Chú một thời gian, một hôm Mẹ sang đón tôi về. Chỉ
vài ngày sau, Pháp đi càn (hành quân) qua bên đó, chúng đốt
nhà, Chú bị chết ngạt dưới hầm bí mật. Nếu Mẹ qua trễ
chắc tôi đã đi theo chú mất rồi.
Ba tôi ở Hà Nội nhưng hay về thăm quê nội, đôi khi đi thăm Chú
hoặc lang thang qua những làng lân cận thăm bạn bè. Một hôm,
tay đồn trưởng đám dân quân tự vệ sai lính bắt Ba đánh cho
một trận rất nặng, lớn lên tôi vẫn còn thấy những vết sẹo
trên người ông, lúc thả ra ông về ở hẳn Hà Nội, không dám
bén mảng về quê nữa, vì cả hai bên đều nghi ngờ. Một thời
gian sau, Việt Minh phục kích giết chết tay đồn trưởng trên
đường ra bến đò Tân Đệ.
Trước hiệp định đình chiến năm 54, gia đình Nội lần lượt
từng người bỏ trốn qua Nam Định. Tờ mờ sáng, Mẹ đội thúng
như mang trầu ra chợ bán, dắt tay tôi đi nhanh trên con đường
làng dẫn ra bến đò. Có vài người chào hỏi nhưng Mẹ chỉ
ậm ừ vài câu và vẫn rảo bước không ngừng.
Khoảng gần trưa, chúng tôi đến Nam Định, chiều hôm ấy, tất
cả gia đình gặp nhau đầy đủ ở nhà một người bà con. Ban
đêm, cả thành phố hoạt động rầm rộ trong bóng tối để
chuẩn bị ra đi. Vài ngày sau chúng tôi theo họ lên mấy chiếc
xe vận tải chờ sẵn trên con đường phía Bắc hướng đi Hà
Nội.
Hà Nội những ngày chuẩn bị di cư, thật nhộn nhịp hối hả
nhưng vẫn không mất đi vẻ đẹp đài các quyến rũ. Đồ đạc,
bàn ghế, quần áo cũ bày bán đầy đường. Ban đêm trai gái
Hà Thành thanh lịch vẫn dẫn nhau đi dạo bờ hồ, ăn kem, tình
tứ trò chuyện, có lẽ như những tử tù cố gắng thưởng thức
bữa ăn sang trọng cuối cùng.
Thủ Đô trong mắt chú bé nhà quê, thật là đẹp, không thể
tưởng tượng nổi, cái gì cũng mới lạ hơn hẳn Nam Định như
chú từng thấy. Tôi còn nhớ lần đầu tiên Ba mua cho cây kem,
tôi vừa cắn một miếng đã phun ra và quăng ngay xuống đất.
Chú bé nhà quê, chưa từng được ăn cái gì lạnh như thế,
giống như có con dao nhỏ dấu trong cây kem vừa đâm vào miệng,
cũng có thể vì mấy cái răng sún nó nhát chú.
Tôi vẫn thích nhìn về phía bên kia bờ hồ, có những đèn xe
ô tô ẩn hiện trong các lùm cây. Một món quà Ba cho tôi, quý
lắm, tôi còn giữ rất lâu khi đã vào miền Nam, đó là cây
viết cán bằng nhựa, trên cán có chỗ nhô hẳn ra, lộng vào
đó là hình chiếc cầu rất nổi tiếng, cầu Long Biên. Nếu để
đúng tầm nhìn, cây cầu sẽ hiện ra rõ ràng, như thật. Đó là
tất cả những ǵ tôi c̣n nhớ được về Hà Nội.
Ở Hà nội một thời gian ngắn, Ba tôi đưa cả đại gia đình đi
Hải Phòng rồi lên “tàu há mồm” cập bến Nha Trang. Ba mẹ tôi
đi Hội An còn tôi theo Nội và Bà Cô vào định cư ở Tuy Hòa
từ đấy.
Tôi còn quá nhỏ để hiểu được những mất mát khi phải bỏ
quê hương ra đi, hay những sợ hãi trốn tránh cả hai bên Việt
Minh và Tây, nhưng quá quen thuộc với những chuyến đi bất
chợt, vỗi vã trong đêm tối. Tôi đã có thể đi một mình trong
đêm hằng vài cây số trên những con đường quê hẻo lánh không
hề sợ hãi.
&&&
Trong biến cố di tản miền Trung thời 75, Ba Mẹ tôi may mắn
thoát được về Saigon yên ổn, ở chung nhà Bà Cô. Sau khi ra
tù, tôi trở về Tuy Ḥa một thời gian ngắn, rồi đoàn tụ với gia đ́nh
ở Saigon.
Đời sống lúc đó thật ngột ngạt, phập phồng, vất vả. Từng bước
chân, từng cánh tay cử động cũng có những con mắt theo dõi.
Trong nhà phải nói chuyện thì thầm với nhau tưởng như trong
vách kia có cả trăm lỗ tai đang nghe ngóng. Những bữa ăn vội
vã, một mắt nhìn vào bàn ăn còn mắt kia phải canh chừng
ngoài cửa, công an khu vực có thể vào nhà bất cứ lúc nào
để ḍm ngó kiểm soát, hạch sách. Họ đi từ trước ra sau nhà không
cần hỏi han một tiếng. Tôi chưa từng tưởng tượng ra được có
một ngày mình phải ở trong một hoàn cảnh như thế và cũng
chưa từng đọc được trong sách vở có một thiên đường hạnh
phúc như thế trên thế gian này. Người miền Nam đă được “giải
phóng” và sống một cuộc đời hết sức “tự do, hạnh phúc”, cho nên cũng
dễ hiểu, nếu cái cột đèn có chân cũng muốn bỏ nước ra đi bất chấp
hiểm nguy.
Tôi không thể sống trên quê hương giữa những người cùng máu
mủ đồng bào mà lòng đầy hận thù chia rẽ. Cuộc sống thật
sự không có ngày mai cho những người bị gọi là “Ngụy”.
Sau hai lần vượt biên thất bại, cuối cùng tôi cũng đến được
Pulau Bidong Mã Lai trên con thuyền bé tí teo, cùng với mấy
chục con ma đói, rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu, không còn đủ
sức lết ra khỏi thuyền.
Thuyền nhân trên đảo tương đối được tự do sắp sếp đời sống của ḿnh
với những phương tiện tự túc, có nghĩa là vào rừng đốn cây để dựng
cḥi, nhặt nhạnh cái ǵ c̣n sài được của những người vừa rời trại.
Ḿnh “được” làm chủ chính bản thân không c̣n sợ ai ḍm ngó kềm kẹp
nữa. Cuộc sống thường nhật là những khắc khoải chờ đợi để được phỏng
vấn và đi định cư ở nước thứ ba và mong ngóng tin tức gia đ́nh,
người quen. Có những đêm cả trại chạy ồ ra cầu Jetty đón
nhận thuyền nhân mới đến, xem có thân nhân bạn bè của mình
không. Chẳng ai muốn hỏi hành trình của họ ra sao, có bị
cướp biển hay không, dù có khốn khổ, nguy hiểm, tủi nhục ra
sao thì đó cũng chỉ là sự lập lại của chính mình. Hàng
ngàn con mắt nhìn đám tân thuyền nhân như nhìn chính mình
cách đây chẳng bao lâu, đẫm lệ, thầm thì an ủi “Cám ơn Trời
Phật, tất cả những khổ đau chẳng là chi nữa, hãy làm lại
từ đầu, miễn sống sót và xa chốn địa ngục trần gian là
tốt rồi!”
Có những đêm không ngủ được, Nhớ Uyên, nhớ Nội, nhớ gia
đình Ba Mẹ, bạn bè, chiến hữu đã từng cùng vào sanh ra
tử, tôi lần lên đồi tôn giáo, cầu nguyện. Nhìn xuống đám
nhà thuyền nhân dưới kia, những cái được gọi là nhà đó
chỉ là mấy nhánh cây rừng làm cột, lợp tôn mỏng, thùng
giấy hoặc lá dừa. Hàng chục ngàn con tim đang thổn thức
trong đó, có những người cố dỗ giấc ngủ như tôi, có những
người đang khóc thầm vì mất vợ, mất chồng, mất con, mất
cha mẹ, anh em. Có những người đang tự trách mình vì đã bỏ
rơi bạn bè, chiến hữu trong lúc thập tử nhất sinh. Họ đang
cố gắng quên đi những tủi nhục một đời, tù đày, ức hiếp,
hăm dọa, đánh đập, chiếm đoạt tài sản, rồi bị săn đuổi như
một loài thú hoang, còn chịu nạn hải tặc, cưỡng hiếp...
Ngoài biển mênh mông kia, biết bao nhiêu oan hồn còn vất
vưởng vì nỗi oan khiên chưa được giải, chưa biết tỏ cùng ai,
không nỡ mang xuống tuyền đài. Biết đâu có Uyên trong đó.
Tim tôi quặn đau, nghẹt thở. Tôi cầu xin Trời Phật dù thế
nào cũng dẫn em qua cầu khổ đau, tôi khấn nguyện ơn trên hãy
mở tay cứu giúp các linh hồn còn vất vưởng ngoài biển khơi
được về cõi vĩnh hằng. Tôi miên man nghĩ từng giả thiết về
em, đã chết trên đường vượt biên ư? Không, không thể được, em
là thiên thần có Chư Thiên phò hộ, không thể chết được.
Cũng có thể em còn ở Việt Nam hay đã đến một trong những
trại tỵ nạn nào đó, hoặc biết đâu, đã đến được bến bờ
tự do. Tôi an ủi mình, có thể lắm chứ, em là Thiên Thần
mà! Tôi điên rồi.
Cơn điên cứ miên man như thế trong nhiều giấc mơ, theo tôi vượt
biển Đông, về tận Tuy Hòa, leo qua những đồi cát bên dòng
sông tuổi nhỏ. Tôi thấy Uyên và tôi đang đùa giỡn bên nhau,
rượt đuổi mấy con kỳ nhông, hay công kênh em trên vai để hái
hoa keo hoặc vờ làm bẫy để bắt mấy con chim chiền chiện cho
em. Tôi nghe tiếng em cười, tiếng em nhõng nhẽo đòi ăn kẹo
bột. Tôi còn nước mắt để khóc không? Nhưng nghe nghèn nghẹn
trong tim rồi rơi vào giấc ngủ mê. Tôi thấy em đang chơi vơi
giữa đại dương, hai tay dơ lên giữa những cơn sóng phủ đầu.
Tiếng kêu cứu của em bị át bởi tiếng gầm gừ của đại
dương; “Anh Hai, cứu em, cứu em, cứu em…” Tôi giật mình tỉnh
dậy, mồ hôi vã ra như tắm, đầu hâm hấp nóng. Trời đã khuya,
tôi đọc kinh và thầm cầu nguyện cho em. Bầu trời trong vắt
đầy sao, có lẽ em đã là một vì sao lấp lánh trên kia. Tôi
lặng lẽ trở về căn chòi lá mà lòng đầy nghi hoặc. Em đang
ở đâu?
“Pulau Bidong có list thì dông” Tôi học được trên đảo như vậy
và dông lẹ, bỏ lại bao nhiêu hệ lụy buồn vui, khắc khoải
đời thuyền nhân. Từ giã những cặp tình nhân bất đắc dĩ
với những mối tình vá víu tạm bợ.
Đầu thập niên 80, tôi đặt chân lên đất Mỹ, làm lại cuộc đời
từ con số không. Kể như vẫn còn may mắn. Đời tôi luôn luôn
gặp may mắn, tôi tin như vậy, cho nên tôi vẫn để ý tìm Uyên
khắp nơi. Đi dự họp mặt của các hội đoàn đồng hương, cựu
quân nhân, các hội cựu học sinh, sinh viên …
Tôi định cư tại thành phố Austin, thủ phủ của Texas. Ban đầu
được một nhà thờ Công Giáo đỡ đầu do hội thiện nguyện USCC
giới thiệu. Một người trong nhà thờ giúp tôi kiếm được
việc làm trong kho hàng của siêu thị, việc làm bán thời
gian ban đêm. Công việc tuy cực nhọc nhưng cũng chẳng thấm
thía gì so với những tháng ngày còn lêu bêu bên Việt Nam.
Austin có một trường đại học rất nổi tiếng, đó là trường
UT to lớn vĩ đại.
Sau khi thi lấy bằng tương đương trung học, mấy người nhà thờ
giúp tôi điền đơn xin học bổng và ghi danh học ở đó, có cả
một ông counselor của trường cũng trong hội nhà thờ giúp tôi
từng bước. Thật là mủi lòng, những người không cùng máu
mủ với mình thì hết lòng giúp đỡ, còn đồng bào ruột
thịt của mình thì xua đuổi mình như con chó dại. Vui mừng
hết sức, thế là bao nhiêu năm bỏ quên sách vở lại được sờ
mó, ôm ấp, hít thở mùi giấy mực. Thong dong một mình, không
còn lo chiến tranh, trốn tránh, bắt bớ, tù đày nữa. Tôi
lại sách, đèn như xưa, lòng đầy hân hoan của một cậu bé
mới lớn.
Nhiều năm qua đi. Ra trường rồi đi làm. Một hôm, theo người
bạn cùng sở bay về Cali tham dự buổi họp mặt của một Hội
Đồng Hương, tôi đã gặp lại Uyên!
Chúng tôi ôm nhau giữa đám đông khóc mùi mẫn, khóc thoải
mái, khóc tự nhiên, khóc thật to cho mọi người cùng khóc.
Trong đám đông đồng hương này có biết bao nhiêu người cũng
đã từng khóc như chúng tôi. Khóc để trôi đi bao điều còn
giữ kỹ trong lòng, không nói ra được. Khóc để nói với mọi
người rằng chúng tôi đã tìm thấy báu vật đánh mất bao
nhiêu năm trời.
Khóc đã đời, chúng tôi buông nhau ra. Nhìn mặt Uyên son phấn
tèm lem như thời bé bỏng nghịch đất cát, tôi bật cười. Em
hỏi sao tôi cười. Tôi nói tôi đã tìm lại được tuổi thơ của
chúng ta, tôi vui lắm. Em muốn kể cho tôi nghe những gian
truân, gia đình tan nát, đổ vỡ, chết chóc, nhưng tôi không
muốn nghe. Tôi tìm thấy em là đủ rồi, những cái khác hãy
quên đi, quên đi, quên đi…
Cám ơn các hội đoàn người Việt tại hải ngoại bao năm qua vẫn
không ngừng sinh hoạt, tạo ra biết bao họp mặt đầy ý nghĩa,
cho những đồng hương lưu lạc có cơ hội gặp gỡ tìm lại được
nhau.
Lê Nguyên Hằng & Nguyễn Thạch-Hãn
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh