TÂY NINH 1972
Viên Thiếu tá Tiểu đoàn phó nài nỉ:
- Thưa Trung tá, một lần nữa xin Trung tá xem xét lại tư cách
Trưởng ban 2 của Trung úy Nguyễn Xuân Nam.
Viên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/9 thuộc Sư đoàn 5 nhỏ
nhẹ:
- Từ ngày tôi về Tiểu đoàn này đến giờ, tôi thấy đây là
một sĩ quan rất có khả năng. Lẽ ra, viên sĩ quan ban 2 này
phải được bổ nhậm ở những đơn vị có trách nhiệm lãnh thổ
như địa phương quân hay nghĩa quân thì hay biết mấy, vì phải
nhìn nhận rằng, tuy chúng ta là đơn vị hành quân cơ động
nhưng ông ta sắp xếp các lưới tình báo rất chuyên nghiệp và
hữu hiệu.
Viên Thiếu tá Tiểu đoàn phó: Điều chính tôi muốn trình
Trung tá, không phải những điều ấy, mà tôi xin phép nói
thẳng, đây là một sĩ quan vô kỷ luật, vô nhân đạo, đầy ắp
máu lạnh…
Viên Tiểu đoàn trưởng nhíu mày: Có thiên kiến lắm không? Tôi
đang đọc một bản phúc trình và một lá thư của Nam…
Bỗng viên Tiểu đoàn trưởng đặt tay lên vai người cộng sự ăn
chay trường có khuôn mặt đen như củ tam thất, cặp mắt lúc
nào cũng như buồn ngủ dưới cặp lông mày đen, rậm rạp trông
giống ông Ác trong chùa, nhưng lại có cái tâm nhân hậu như ông
Bụt trong những chuyện cổ tích…
- Cậu cứ đọc đi, chúng mình sẽ bàn lại vấn đề này…
…
Bản Phúc trình:
Kính thưa Trung Tá.
Thi hành khẩu lệnh của Trung tá, tôi làm bản phúc trình
này để tường trình về hành động đối xử của tôi với tù
binh Bắc Việt, do gợi ý của Thiếu tá Tiểu đoàn phó và để
Trung tá hiểu rõ hơn cách làm việc của tôi, tôi xin lần
lượt phúc trình các vụ việc cụ thể trong thời gian trước
đây một năm (Trong đó có thời gian Trung tá chưa về làm Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn này).
- Ngày 23 tháng 1 năm 1971 Tiểu đoàn hành quân trong khu vực
XT, bên kia sông Vàm Cỏ thuộc quận Đức Huệ, tỉnh Hậu Nghĩa.
Đơn vị đụng địch tại ấp Bà Ràng, tôi đã đánh trọng thương
một tù binh thuộc Tiểu đoàn cơ động tỉnh Long An. Khi giải
giao tù binh này cho chi khu Đức Huệ, chi khu này không nhận,
lấy lý do tù binh này bị đánh quá nhiều, tôi đã bị Trung
tá Nguyễn Văn Nhung, Tiểu đoàn trưởng tiền nhiệm khiển
trách nặng nề.
- Ngày 2 tháng 6 năm 1971 Tiểu đoàn đụng địch tại vùng Lưỡi
Câu, biên giới Việt Miên, đơn vị ta bắt được hai cán bộ kinh
tài thuộc hậu cần cục R, trong đó có một là nữ. Trong lúc
khai thác chiến trường, tôi có ra lệnh lột quần áo của
người nữ này để y thị sợ mà phải khai. Tôi đã bị Trung tá
Nhung đề nghị phạt 10 ngày trọng cấm xin gia tăng tối đa.
- Ngày 1 tháng 2 năm 1972. Trong thời gian Tiểu đoàn bị vây
hãm tại An Lộc. Toán thám báo giao nộp một phụ nữ cảm
tình viên Cộng Sản. Tôi đã sắp thành công trong việc tra cung
người phụ nữ này, thì tôi bị Thiếu tá Dương Kim Mãng -
Tiểu đoàn phó khiển trách và buộc ngưng cuộc điều tra,
Thiếu tá cho rằng đây là một người đàn bà điên. Riêng tôi
đoan chắc với cấp trên y thị không có triệu chúng gì về
bệnh tâm thần cả. Y thị là tiền sát viên Cộng sản? Y thị
là mật báo viên? Với sắc đẹp và sự khôn khéo ấy, y thị
là cả trăm câu hỏi đối với một sĩ quan ban 2 chuyên nghiệp
như tôi.
Kính trình Trung tá thẩm tường.
Trung úy Nguyễn Xuân Nam.
Sau đây là một thư riêng tôi xin gửi đến Trung tá như một lời
tâm sự riêng với mục đích duy nhất để Trung tá hiểu rõ hơn
một thuộc cấp của Trung tá.
…
NINH BÌNH 1951
Quê tôi ở miền trung du Bắc Việt, nơi thể nghiệm đầu tiên
của cuộc cải cách ruộng đất…
Thật khủng khiếp, ngỡ ngàng và bi thảm, nó làm đảo lộn bao
tập quán và trật tự xã hội mang tính truyền thống đã có
từ bao lâu đời. Những dồn nén, mặc cảm tự ti, xu thế muốn
thay đổi và lối sống quá quắt của giai cấp địa chủ phong
kiến đã bùng dậy. Lúc đầu lôi kéo được tuyệt đại dân
chúng nghèo đói nhưng rồi như bao nhiêu cuộc cách mạng khác
trên thế giới, nó lao vào cái quá đà, và sau đó rơi vào
tay một thiểu số, mà cái rực rỡ của buổi bình minh cách
mạng tạo cho họ cái ảo tưởng là họ đang độc quyền chân
lý, biến cách mạng đang trên đà thành công thành một trào
lưu tự cô lập mình và xa rời các sự kiện thực tế, đưa
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mang đầy tính tình
tự dân tộc thành xu thế vọng ngoại, đầy ắp tính giáo
điều. Thay vì đáp ứng đúng vào khát vọng và lòng yêu nước
cùng những hy sinh vô bờ bến thì nó lại quay lưng, hòa nhập
vào cái bóng đen khổng lồ của một thứ chủ nghĩa xã hội
kiểu Mao với tất cả bản chất sắt máu, quá khích và tả
khuynh triệt để…
Nó xa lạ hoàn toàn với bản chất khoan hòa nhân ái của
người Việt nam, và cứ cái đà ấy nó biến và đưa chủ nghĩa
Mác không còn là một khoa học tích cực, một học thuyết về
thực tại, và thật đáng tiếc, nó không còn được nhìn như
một loại triết học về thế giới quan khoa học của giai cấp
vô sản nữa.
Trong bối cảnh ấy, gia đình tôi tan nát, ông bà nội tôi bị
đấu tố chết, cha mẹ tôi không kịp chôn cất người thân của
mình, vội vã ôm chúng tôi xuống tị nạn tại một tỉnh ven
biển, một khu Công giáo tự trị, giáo phận Bùi Chu - Phát
Diệm…
Hai giáo khu này có lực lượng vũ trang riêng do quân đội Pháp
huấn luyện và trang bị võ khí.
Ở đây thế lực của các tăng lữ vượt ra khỏi phạm vi của
nhà thờ, các cha xứ đã biến cả một vùng trù phú ấy
thành những giáo khu kiểu trại lính với kỷ luật sắt, nửa
quân đội, nửa thần quyền. Mỗi giáo dân là một chiến sĩ,
mỗi giáo phận là một pháo đài chống lại Cộng sản. Đây là
gíao khu toàn tòng.
Lúc đầu mới đặt chân lên vùng đất thánh này, tôi lơ mơ không
hiểu lý do gì đã dẫn đến thái độ quá khích của cả hai
bên ( Công giáo và Cộng Sản) đối với nhau. Họ quên mất cả
chính sách, quên mất cả bản chất tôn giáo và chủ nghĩa để
tàn sát và giết hại lẫn nhau không một chút nương tay.
Máu loang đỏ nghị quyết, Chúa ngỡ ngàng trên các Thánh
chương.
Tôi quen dần với không khí chống Cộng ngùn ngụt ấy.Tôi quen
dần với hình ảnh ông cố đạo người Bỉ, cứ sáng sáng đi
chậm chạp dưới dốc cầu Trì Chính, ông như một nhà sư khất
thực, đôi mắt dịu dàng, có hàm râu trông như râu của Chúa
Jesus, trông ông thoát tục và thân thiết.
Tôi cũng say mê dáng cao cao, lối nói quảng bác, cái chóp
đỏ và những bài giảng khúc triết, mang tính thời sự nhiều
hơn giáo huấn của Đức Giám mục Lê Hữu Từ…
Tôi quen dần với những tiếng hô “ sát sát” trong những buổi
tập diễn của các chiến sĩ tự vệ áo đen. Tôi cũng tò mò
và ngạc nhiên khi chứng kiến những buổi lễ làm “Chết phép
lành” của cha Hoàng Quỳnh dành cho đội Vệ sĩ cảm tử tại
Tiểu chủng viện Phúc Nhạc.
Cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi từ hôm cha Hoàng Quỳnh đến
thăm bố tôi…
Cha ngạc nhiên nhìn thấy quyển Thánh kinh đang mở trên bàn.
Cha hỏi:
- Nhà cháu ai đọc sách này thế?
- Thưa, cháu.
- Cháu đọc kỹ chưa?
- Thưa, cháu đọc mới được có vài lần.
- Cháu bên Phật, cháu cũng tin có Đức Chúa Trời?
- Thân trình cha, xin cho cháu nói với tất cả tâm ý của
cháu.
- Con cứ nói ta nghe.
- Cháu đọc Thánh kinh để tìm nội dung, tìm bước chân tương
lai của con người, chứ không tìm niềm tin cha ạ.
Cha Quỳnh có vẻ bối rối;
- Thế con có tin cuốn sách này được viết ra bằng sự dẫn
dắt kỳ diệu của Thượng đế hay không?
Tôi không trả lời câu hỏi của cha, tôi nói:
- Con không nghĩ là cuốn sách này là truyện tích kéo dài
lâu đời về loài người trong quá trình vươn lên tìm kiếm Đức
Chúa Trời không, con không dám tin như vậy. Có điều con cứ
thắc mắc mãi, về việc sách ghi chép những bước từng trải
của loài người vươn lên tìm Đức Chúa Trời và lần lần cải
tiến ý niệm về Đức Chúa theo kinh nghiệm của những thế hệ
trước. Trong rất nhiều đoạn của Thánh kinh có chép rằng
Đức Chúa Trời phán. Con nghĩ Đức Chúa Trời thực ra không
nói như thế đâu, người ta phát biểu tư tưởng của mình bằng
ngôn ngữ tự nhận là của Đức Chúa Trời, chớ thật ra chỉ
là những điều người ta tưởng về Đức Chúa Trời mà thôi.
Cha Hoàng Quỳnh quả vừa bản lĩnh vừa nhân hậu, cha thoáng
tím mặt rồi vừa xua tay vừa nói:
- Đừng, đừng con, lậy Chúa Jesus, Đức Maria xin cứu chuộc
một trí khôn lầm lạc. Đấy đọc Kinh thánh mà không có niềm
tin nó tác hại như thế đấy, càng nguy hiểm hơn nếu con không
đọc tới nơi tới chốn. Không, không phải như con trẻ và bọn
duy lý nói vậy đâu. Đấy là những hoang tưởng, những ngụy
tín, kéo Kinh thánh xuống ngang hàng với những sách khác…
Con hãy nghe ta nói đây: Kinh thánh là sách chép Đức Chúa
trời tự khải thị cho loài người để dậy dỗ và dẫn dắt họ
trên Đường Sự Sống. Đấy, chỉ có một chân lý nhất quán như
thế thôi.
Cha để tay lên vai tôi, tự nhiên tôi rùng mình:
- Thế con đã tìm được gì trong Thánh kinh nào?
- Thân trình cha, con đã đọc khá nhiều sách trong thư viện
giáo xứ, thì quả Kinh thánh là tài sản quý giá hơn hết
của loài người. Nó đạt được đủ hai yếu tố mà chưa có một
quyển sách nào có được là phổ quát và vĩnh cửu. Nó không
còn là của nhà thờ, của Công giáo nữa. Nó là vốn sống
của thế gian, túi khôn của loài người. Nó có xuất có xử.
Có tồn có dụng. Nó không dừng lại ở việc chỉ khuyên người
ta tránh dữ làm lành mà bao quát cả những điều thánh
thiện và dung tục. Chỉ tiếc có một điều: Thân trình cha,
con nghĩ cuốn sách được viết ra không phải cho người cùng
khổ đang khao khát hướng về Chúa vì nó khó đọc quá cha ạ!
Nhiều ẩn ngữ quá, nhiều câu người đọc như đứng trước ngã
ba đường. Nó gần giống như những câu chân chân giả giả trong
bí kíp võ đạo vậy, mà người đọc, hiểu hoặc được mặc
khải thì rất hiếm. Còn như coi đó là công việc duy nhất ở
trên tòa giảng để giải bầy và truyền dạy thì con xin cha
tha tội, con thấy như vẽ rắn thêm chân, đẩy Thượng đế đi xa
hơn vào vùng sương mù huyền bí… Từ Kinh thánh tới niềm tin,
đến được mặc khải rồi hành động, một quá trình tuy đơn
giản bằng phẳng nhưng có một cái gì lấp ló bàn tay con
người…
Cha lắng nghe, đôi mắt loáng vẻ kỳ dị. Cũng may vừa lúc ấy
bố tôi về đến.
Cha kéo bố tôi ra ngoài vườn sau. Hai người ngồi ngoài đó
nói chuyện rất lâu. Lúc tôi mang nồi nước sôi ra châm thêm
vào bình trà. Tiếng nói chuyện ngừng bặt, thấy tôi chần
chờ muốn nghe lóm, cha chỉ tôi:
- Năm nay nó bao nhiêu tuổi?
Bố tôi nói:
- Mười chín rồi đấy.
Tôi ngạc nhiên, sao bố tôi lại tăng tuổi tôi lên nhiều như
vậy.
Cha nói:
- Thanh niên bây giờ khôn trước tuổi, biết đọc và suy nghĩ
Phúc âm, tuy non nớt, không căn bản nhưng xem ra còn hơn chúng
ta ngày xưa rất nhiều, ngày xưa ông nhớ không, bọn mình ngu
ngơ tồng ngồng…
Tôi liếc bố tôi, chiều nay lại uống ở đâu rồi…
Như không có tôi, bố tôi cười khà khà:
- Có lần tôi dẫn ông chui qua bờ ao nhà bà Đông, ông còn nhớ
không? Gai tre cào xước cả lưng, ông hỏi: “Đi đâu vậy?” Tôi đưa
tay lên miệng: “Suỵt! Đi xem chim!” Ông ngây thơ: “Chim gì mà ở
dưới đất vậy?”. Tôi kéo tay ông rồi cứ thế mà bò, qua lùm
nhót, tôi chỉ xuống cầu ao, ông nhìn trân trân đỏ mặt rồi
lùi dần, tôi còn tham, nấn ná… “Đồ đạo đức giả, trên đời
không có thú gì bằng nhìn trộm đàn bà con gái tắm
truồng”. Mà tôi cũng không ngờ sao ông lại ác thế, tôi đang
say xưa, bỗng nghe thấy ông la bên lùm tre: “Coi chừng thằng
Mạnh nó đang nhìn trộm đấy!” Hai hòn giái tôi nó chạy tót
lên đầu. Mặt tôi lãnh đủ những nắm bùn của cái Thắm, cái
Tỵ. Tôi xấu hổ chui ra “Ông thụi bỏ mẹ mày! Đồ…” Bỗng tôi
sáng con mắt lên: “ Mả bố mày đây rồi”. Cái thánh giá to
tướng, ông vẫn đeo ở cổ, lúc nãy khi ông chui ra, còn toòng
teeng trên đốt tre. Tôi run lên với cảm giác thú vật rồi hiên
ngang trở lại cái cầu ao, lần này thì đếch phải bò nữa.
Cái Thắm, cái Tỵ đã mặc xong quần áo. Tôi huơ huơ cây Thánh
giá rồi ném về phía chúng nó. Tôi quát to để cho ông ở bên
kia hàng rào tre nghe thấy:
- Cả cái thằng này cũng nhòm hĩm của chúng mày đây này!
Kể đến đây bố tôi cười sằng sặc. Cha Quỳnh cũng cười hồn
nhiên. Tiếng cười của cha trong veo.
Cha về rồi mà bố tôi vẫn ngồi một mình như một pho tượng.
Từ ngày mẹ tôi mất, bố con tôi dồn tình thương cho nhau
- Bố nghĩ gì vậy bố?
- Con ngồi xuống đây, bố có một việc nói với con.
- Việc gì vậy bố?
- Cha Tổng Chỉ huy Tổng bộ tự vệ vừa xin bố để cho con đi
theo cha Tổng.
- Sao lạ vậy bố, nhà mình đạo Phật lại không có đức tin,
vả lại để lại bố sống quạnh quẽ một mình, làm sao con đi
cho đành.
- Bố chỉ lo sự xa cách của cha con mình, còn những điều con
nêu trên không cần, tình thế đến mức này, đâu còn phân biệt
lương giáo nữa, mà cùng một mặt trận con ạ! Mặt trận bên
này và bên kia. bên ta và bên địch. Nhà tràng Phúc Nhạc
không cung cấp đủ cán bộ. Việt Minh đang thắng thế, Giáo
hội đang ở chân tường. Lớp cán bộ mới không cần trang bị
bằng thần học nữa mà chỉ cần lòng căm thù, ý chí chiến
đấu một mất một còn.
- Đành rằng Việt minh thì vô thần, quả là họ không có tín
ngưỡng thật đấy, nhưng con thấy họ không làm hại đến người
lành.
Bố tôi quắc mắt:
- Thế ông bà nội con là những người ác hay sao?
- Con xin lỗi bố. nhưng con chỉ thắc mắc mình và họ không
thỏa hiệp được hay sao?… Đạo với Đời, việc ai nấy làm!
- Không chung sống với nhau được đâu con ạ, cây muốn lặng,
gió chẳng muốn đừng. Chống lại thì hoặc thua hoặc có cơ
may thắng, còn thỏa hiệp thì không bị diệt ngay những tan
vỡ từ từ ( bố tôi bắt đầu tái mặt) Con nên nhớ, sách lược
muôn thuở của Cộng sản là: Liên kết với kẻ thù phụ để
đánh kẻ thù chính, cứ thế như tầm ăn lá, từ từ diệt tất…
Bố tôi ôm đầu:
- Cháy nhà mới ra mặt chuột, bọn Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ
là thứ thùng rỗng kêu to.
- Con thấy thày Thích Tâm Châu vẫn đi lại
với giáo xứ ?
- Thì cũng chỉ được có mỗi ông sư này, còn tất cả chỉ
toàn là bọn già giái non hột ( bố tôi dằn từng tiếng) Bố
thấy chỉ có người Công giáo mới có khả năng chống Cộng,
còn thì vất đi tất.
- Thế tại sao mình phải nhẩy vào cái vòng tranh chấp của
họ?
- Không đứng ngoài được đâu con ạ, Giáo hội đã đùm bọc
mình trong những khi thất cơ lỡ vận, gia tộc ta mang nặng
một mối thù, ông bà nội con bị đấu tố chết. lẽ nào bây
giờ mình không đóng góp. Phải sòng phẳng con ạ…
Bố tôi khóc, đây là lần thứ hai tôi thấy bố tôi khóc, lần
đầu là lúc hạ huyệt mẹ tôi…
- Thôi con hiểu rồi, con xin nghe bố, cái sợ của con là bố
phải sống một mình, từ nay không có con bên cạnh, bố đừng
uống rượu nữa nghe bố.
Rồi tôi cũng khóc, bố tôi lau nước mắt rồi cười vang lên như
một người điên. Âm thanh vùa ma quái, vừa thỏa thuê, những
uất nghẹn như bật ra từ lâu lắm rồi. Đôi mắt của bố tôi
lóe lên những tia hừng hực như đốm lửa âm ỉ lâu ngày, gặp
gió cháy bùng.
Tôi đi theo cha Hoàng Quỳnh và làm thư ký riêng cho cha từ
ngày ấy…
Hôm đến văn phòng Tổng Bộ tự vệ nhận việc, cha dặn tôi:
- Cha chỉ yêu cầu một điều, nếu các cha bề trên có hỏi thì
con trả lời: con có đạo nhé!
Tôi tự ái :
- Sao cha không lấy người trong đạo giúp việc cho cha, con
ngoại đạo ngộ lỡ có chuyện gì mang tiếng cho cha
Cha Quỳnh xua tay:
- Đừng khí khái hảo! Cha chúa ghét cái bọn con chiên nịnh
hót, làm hư các cha không ai khác là con chiên của mình
“Cha Quỳnh không phải là loại cha răng đen, thuốc lào, thịt
chó”. Càng ở gần cha, tôi càng nghĩ như vậy, cha không hiểu
rộng nhưng biết nhiều , biết đủ thứ chuyện, cả việc đạo
lẫn chuyện đời, tính tình cha có đôi lúc bất thường. Cha
không hợp với các cha già bảo thủ, cha căm ghét việc các
cha đánh con chiên, cha gay gắt phê phán việc đem chuyện gia
đình ra bêu rếu tại nhà thờ. Cha thích bỡn cợt với các cha
trẻ cấp tiến “họ ăn nói báng bổ thật nhưng niềm tin của
họ thì có cơ sở rất cao, tương lai của giáo hội ở trong tay
của các vị ấy đấy!”
Có lần cha nghe ai phàn nàn về việc cha già Thiên dùng roi
xua con chiên đi lễ ,cha tím mặt:
- Tại các ông, các bà đấy, cứ nịnh cha lắm vào, cái gì
cha cũng nhất, cứ bơm riết rồi cha nào cũng thành Đức Chúa
Trời cả thôi.
Đấy là đối với việc đạo, tôi cũng được kề cận bên cha
những lần ra Hà Nội, ra Huế gặp Cao ủy Pháp, gặp Thủ hiến
Bắc Việt, gặp cả Quốc truởng Bảo Đại, những lần gặp gỡ
như vậy cha dung dị, tự tin, tôn trọng đối tượng. Duy có lần
gặp Bảo Đại – cha bước ra, mặt buồn buồn, cha bảo:
- Người Nhật thật may mắn có Minh Trị Thiên Hoàng! còn mình
...Ôi! bất hạnh quá! Một quái thai chính trị !
Cha nhổ toẹt trên thềm dinh rồi nắm tay tôi chạy như ma đuổi.
Mấy ngày sau, tôi gặp cha ỏ nhà chung Phát Diệm, cha vẫn
còn buồn, cha kéo tôi vào phòng, cha ngồi trầm ngâm, dư âm
cái lần gặp Đức vua vẫn còn cấu xé cha...
- Cậu nhìn xem cái phòng này có gì đặc biệt ?
Tôi nhìn quanh quất, chẳng thấy gì, lắc đầu.
Cha đẩy một cái ghế dài… Một khung cửa vừa đủ cho một
người, bên kia là cái phòng tối om.
- Đấy! năm 1946 có hai anh em nhà họ Ngô Đình chạy từ Hà
Nội vào, Giáo hội hào hiệp đưa tay ra đón, chính tôi đã sai
Lê Quang Luật đưa Nhu qua Lào, tương lai đất nước phải có
những tay như thế...
Cha lại trầm ngâm: Tiếc rằng bây giờ sự đấu tranh giữa các
chủ thuyết còn quá gay gắt, chủ nghĩa Mác tuy làm chủ bản
thân nó còn quá kém, chưa đến mức là một khoa học. Tuy vấn
đề con người luôn luôn được Mác rao giảng, nhưng trong Tuyên
Ngôn Của Đảng Cộng Sản, Mác đã định nghĩa con người là sự
tổng hòa các quan hệ xã hội. Nói một đàng làm một nẻo,
khi viết những nguyên lý về duy vật lịch sử thì Mác lại
cố tình lờ luôn yếu tố con người mà chỉ xoáy vào vấn đề
giai cấp, lấy cớ rằng con người đã tham gia vào đủ mọi
việc, đã có mặt trong các nguyên lý cơ bản về chính trị,
kinh tế, văn hóa rồi.
Thế nhưng, học thuyết của Mác, không phải là không có sức
hấp dẫn, không phải là không có tính thực dụng, nó biết
gom góp các kẽ hở của duy tâm để bổ túc cho duy vật. Tuy
vậy nó quá độc tài, nó quá thiên về con người tập thể để
quên mất con người cá nhân, đòi hỏi quá đáng về sự hy sinh
bản thân. Nó được tô vuốt ở phương Tây nhưng lại bị hiếp dâm
ở phương Đông.
Những vụ thanh trừng đẫm máu ở Diên An, Tứ Xuyên, Thượng
Hải đang biến những cái nhìn ban đầu về Mác thành cái
nhìn xót xa hoảng sợ.
Còn chủ nghĩa tư bản ư? Tuy cái tiên đoán về chủ nghĩa này
đã có nhiều dấu hiệu cho thấy Mác đã sai lầm nhưng nó vẫn
bị tai tiếng về bản chất bóc lột của nó. Khác hẳn với
Mác, nó lại duy cá nhân và đánh mất cái tập thể. Khi trở
thành đế quốc thì nó lại quá độc ác.
Qua nhiều đêm nói chuyện với Nhu… Cha thấy cái học thuyết
của ông ta đang thai nghén quả có thể dung hòa được cái
tích cực và tiêu cực của hai lưỡng cực đối kháng này. Chỉ
tiếc một điều. Tớ là thày tu, tớ phải cay đắng nhận thấy
rằng: Cái đầu của anh chàng này có pha tôn giáo. Tránh kỵ
triết học chính trị có pha tôn giáo, nó giống như vá áo
không cùng màu vải. Nó biến học thuyết thành hoang tưởng
hỗn tạp.
Cha lẫm bẩm: Cần nhất là phải biết làm chủ được những lý
thuyết cơ bản.
Tôi nhìn cha: Đôi lông mày đậm dầy này… Vầng trán có những
vết nhăn trăn trở này… Cặp mắt và vành môi khát vọng kia,
đâu chỉ dừng lại ở bộ áo thày tu: Đen hay đỏ? Cái đầu
thông bác kia chỉ ép xác trong cái cổng kín bưng của tu
viện, sao không ở chỗ khác kìa?
Tôi sống với cha Quỳnh như vậy đã gần được hai năm.
Quan hệ giữa tôi và cha có cái nhập nhằng dễ thương làm
sao! Có lúc thì như cha con. Có lúc như thày trò. Có lúc
như đồng đội. Có lúc như bạn bè. Có ai hứng chí lấn lướt
một chút, thì người kia cũng chẳng phật lòng, chẳng sợ
mất mặt, chẳng sợ phạm thượng.
Cho đến một hôm tôi đang đọc sách trong thư viện giáo xứ thì
có cậu bé giúp việc cho cha tìm tôi:
- Thày về gấp, cha Tổng đang chờ.
( Như tôi nói ở trên, tôi đạo Phật, cha dặn dấu không cho ai
biết, nên ai cũng tưởng tôi là thày Bốn, thày Năm bên Tiểu
chủng viện biệt phái qua giúp việc cho cha)
Về đến văn phòng, không thấy cha tôi đi thẳng xuống nhà
riêng. Cha vẫy tay:
- Vào đây, vào đây thụ lộc!
“Lộc” là quà ngon vật lạ, con chiên quý cha thường đem biếu,
một dĩa thịt luộc đầy ắp, một dĩa lòng, một tô nhựa mận
và một chai rượu nếp cẩm.
Tôi xuýt xoa;
- Chà, mưa dầm gió bấc thế này mà chén thịt chó thì chỉ
có sướng mà chết thôi!.
Cha cười:
- Vào đi, vào đi kẻo lạnh
An tọa tôi lại xuýt xoa:
- Bố con nói đùa, cái thú nhất là nhìn trộm đàn bà con
gái tắm truồng, nhưng theo con thì chẳng có gì thú bằng
chén thịt chó. Hay thịt chó và đàn bà có cái gì gắn bó
đến ngũ dục của đàn ông, cha nhỉ?
Cha Quỳng cười thoải mái:
- Bố cậu hôm trước không kể hết cái chuyện ngày xưa ấy…
Cha vừa nhấm nháp vừa kể:
… Sau khi bố cậu chơi khăm tớ. Cái Tỵ, cái Thắm cầm cái
thánh giá về ngay nhà tớ. Ôi! Ôi! Lậy Chúa tôi, tớ bị một
trận đòn thừa sống thiếu chết và ngay ngày hôm sau tớ bị
gửi vào nhà dòng.
Cha cười sảng khoái:
- Ấy nhờ thế mà thành cha đấy!
Khi chai nếp cẩm đã gần hết, Bỗng cha hỏi tôi:
- Tớ hỏi thật nhé, cậu có biết đàn bà là gì không?
- Thưa cha, cứ như Kinh thánh…
Cha xua tay:
- Đừng, đừng múa rìu qua mắt thợ, đừng lấy Kinh thánh ra
để hù dọa tớ, tớ hỏi thật đấy, tớ muốn biết thêm về một
chút đời thường…
- Thế thì thưa cha, cứ như những người đi trước, từng có “
Nợ máu” với cánh đàn bà thì con thấy, quả Thiên Chúa đã
sáng suốt khi không sáng tạo người nữ từ cái đầu của
người nam để nàng lấn lướt, cai trị chàng. Nhưng quả Chúa
cũng chưa am tường nhân thế khi lấy người nữ từ cái xương
sườn của người nam, chỗ ấy rất gần con tim khiến đàn ông
cứ mê muội, cứ say đắm vào những cái phù phiếm mà đau khổ
nhiều hơn hạnh phúc. Như bố con ấy, cái hôm mẹ con mất bố
con khóc như con trâu rống…
Cha Quỳnh cười:
- Thế thì theo cậu phải tạo người nữ từ phần nào của
người nam?
- Phải tạo từ đôi chân để họ mãi mãi làm nô lệ cho đàn
ông!
Cha xua tay:
- Không được đâu, không được đâu, này tớ không đùa đâu đấy,
cậu phải lấy vợ đi. Cây có cây đực cây cái. Người có âm có
dương thì mới hanh thông được, còn như bọn thày tu chúng tớ,
có sáng suốt, có uyên bác thật đấy nhưng vẫn có cái gì
lệch lạc, nghiêng ngả, mất thăng bằng. Lúc nào cũng như bị
dị ứng, tức như bò đá…
Tôi xum xoe:
- Con hỏi thực xin cha đừng giận:
- Hỏi đi, sao tự dưng lại khách sáo thế?
- Tại vì đây là những điều khó nói, con nghĩ đàn ông cả
với nhau mới dám hỏi cha: Cha có bao giờ bị dục tình thôi
thúc không ạ?
- Câu hỏi hay, quả là khó nói đấy, nhưng tớ với cậu, mình
cùng cánh đàn ông với nhau tớ phải nói thật: Ghê Lắm.
Khủng khiếp lắm.
… Từ cái ngày nhìn thấy cái Thắm , cái Tỵ, tớ cứ bị ám
ảnh hoài, những bữa trưa hè, những đêm đông, nhất là về ban
đêm, có một cái gì bứt rứt xôn xao. Có một cái gì nó cứ
chạy rần rật trong từng thớ thịt, hai má thì cứ nóng ran.
Phía trên đầu thì vang váng. Phía dưới thì căng cứng, các
tế bào cứ như bị tê dại hẳn đi. Hơi thở của mình như không
thể điều khiển được nữa, cứ như có ai gãi ở các đầu ngón
chân ấy.
- Thế thì cha chịu trận à?
- Mình cởi quần áo ngoài ra, mặc mỗi cái quần đùi. Đêm
miền biển lạnh giá là vậy mà mình cứ thế mà chạy, quay
lại bể nước xối ào ào rồi lại chạy tiếp, lại xối nước…
Về nằm, ngủ được thì không sao, không ngủ được thì đâu lại
vào đấy… Có khi mình mặc áo lễ vào, lên nhà thờ quỳ xin
Chúa toàn năng cho êm ả tâm hồn, cho thanh khiết đẩy đi mọi
cám dỗ. Nhưng đến là quỷ! Khi nhìn thấy tượng thánh, thì
tớ lại nhớ ra khuôn mặt cái Tỵ! Chúa ơi! Sao mặt con bé
giống Đức Mẹ như hai giọt nước. Rồi tớ lại nghĩ bậy bạ,
thân thể thì cứ rã rời, tâm hồn thì hoang mạc như một bãi
chiến trường vừa mới qua cơn binh lửa. Cái mặc cảm ấy nó
cứ ray rứt tớ như một bóng ma… Ghê sợ lắm!
- Các thày chùa bên chúng con, họ chay tịnh còn đỡ, các cha
bên này, ăn uống không kiêng khem, chịu sao nổi.
Cha bối rối, chợt như nhớ ra một điều gì, cha nhìn tôi,
nhíu mày:
- Này, tớ nghe đồn, cậu léng phéng với cái cô Hiên gì đó
của Hội con Đức Mẹ , bên giáo xứ Kim Sơn phải không? Hình
như cô ta có một người anh thoát ly từ năm 45, 46 gì đó. Cẩn
thận, rất cẩn thận anh bạn trẻ nhé.
“ Cái cô Hiên gì đó” quả thực tôi có yêu, có say mê, có tâm
sự, thề thốt…
Một tháng sau, Hiên và người em út của cô ta, không mộtlời
từ biệt tôi, đã bỏ Giáo khu trốn ra vùng Việt Minh.
Cha Quỳnh che chắn cho tôi hết lòng, tôi mới không bị lôi ra
ban An ninh của Tổng bộ.
Người ta đã không tìm ra ai là người làm nội tuyến cho Việt
Minh đánh đồn Yên Thổ, nhưng người ta đã râm ran đồn đoán ai
là người đã để lọt ra ngoài các tin tức mật từ Tổng bộ
Tự vệ.
Tôi như người mất trí. tôi ngồi lắp ráp lại những câu hỏi
không đầu không đuôi của Hiên và những câu trả lời hớ hênh
của tôi, trong những lần chúng tôi ngồi tâm sự với nhau.
Trong đôi mắt nhân hậu của Cha Tổng có thấp thoáng sự thương
hại và ngờ vực… Tôi không còn được làm thư ký trong những
phiên họp của Tổng bộ nữa…
Tôi xin cha cho tôi được nghỉ việc… Cha nhận lời.
Tôi thất thểu về nhà…
… Bố tôi ngồi bất động trên cái chõng tre, giọng ông tắc
nghẹn:
- Con không phải giải thích nữa, bố biết hết cả rồi.
Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc hoài không ngủ được, tôi nhớ đến
cha Quỳnh. Tôi thương bố tôi. tôi ghê tởm Hiên. Tôi ghê tởm tôi.
Tôi đem những kỷ vật Hiên đã có ý để lại cho tôi, như cái
khăn màu tím nàng hay quấn cổ, cái kẹp ba lá, những lá thư
hò hẹn, tôi đem những thứ đó ném xuống sông.
Tôi như người lần đầu tiên đi đánh bạc gặp ngay đứa cờ bạc
bịp…
Bổng tôi nghe như có tiếng rên nho nhỏ của Bố trong giường
trong:
- Xoan ơi! Nhục quá! Xoan ơi! ( Xoan là tên mẹ tôi)
Tôi cứ tưởng bố tôi nói mê.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy đun nước để bố tôi pha trà. Chờ
hoài không thấy bố dậy. Tôi lên tiếng gọi, vẫn im lặng. Tôi
nhẹ kéo chăn ra. Máu trong miệng, mũi bố tôi đã khô đen, hai
con mắt trắng dã, trừng trừng…
Tôi cắn răng nhìn xác bố… “ Con khốn nạn, mày là người đã
làm tan nát đời tao, gia đình tao” Tôi hét lên như một thằng
điên:
- Trời ơi, Bố ơi! Thù này biết bao giờ mới trả được hở
trời?
Đám ma của bố tôi sầu thảm như đất trời ngày hôm ấy…
Cha Quỳnh mặc thường phục. Đám ma đi dọc đường phố Phát
Diệm mưa phùn, trơn lạnh… Những người đứng dọc hai bên đường
nhìn quan tài bố tôi thương xót. nhìn tôi khinh bỉ.
Tôi xin cha để dời Giáo xứ:
- Con về đâu ? Cha hỏi như khóc.
- Con phải đi lính… Chỉ có quân đội…
- Con nên vào Huế học trường Đập Đá ta chứng nhận cho.
- Không con chỉ muốn làm lính, con muốn chính tay con, chứ
không phải qua lệnh của con.
Trong một cữ chỉ mà chính tôi cũng không thể ngờ được. Tôi
quỳ xuống chắp tay lậy cha:
- Thưa cha Linh hưởng. Con tuy ngoại đạo nhưng như đã phó hồn
xác trong tay Chúa, sự nhân ái của Cha cả đời nằm nguyên
vẹn trong trái tim con. Xin cha giúp con cầu nguyện Chúa phán
xét công bằng.
Cha Quỳnh khóc. Tôi khóc…
CĂN CỨ SUỐI MƯƠNG, HÒA BÌNH NĂM 1952
Hai chị em Hiên bỏ Phát Diệm vào một buổi sáng tinh mơ.
Hiên ngoái lại rất lâu nhìn một lần cuối cái dốc cầu Trì
Chính. Những dấu chân hẹn hò của cô và Nam như còn chập
chờn, bồng bềnh trong sương mù của buổi sáng hôm ấy.
Khi chiếc thuyền nan xuôi dòng về hướng Thượng Kiệm, tim cô
nhói lên khi nhìn thấy tháp chuông giáo đường vươn cao lên
trên những ngọn cau già, nước mắt cô trào ra, trong hơi nước
ngầy ngậy ngái ngủ, cô ngửi thấy cả đến mùi hoa hoàng lan
quấn quýt lấy hương vị tình yêu đầu đời, từ những hàng cây
dọc lối vào nhà xứ.
Cô đến Nho Quan, Tân Lạc rồi vào Hòa Bình. Hai chị em Hiên
tìm đến căn cứ Suối Mương.
Anh vệ quốc cảnh vệ dẫn hai chị em đến giới thiệu với một
chính trị viên.
Hậu nói như khoe:
- Hai chúng tôi là em ruột của Chính ủy Hải Ninh.
Viên cán bộ mặt lạnh tanh:
- Đồng chí Hải Ninh đả bị hạ tầng công tác và đang thời
gian quản chế…
Hai chị em Hiên đứng không muốn vững, bám vào nhau:
- Anh tôi có tội gì chứ?
- Tôi không biết.
- Chúng tôi có được phép gập anh tôi không?
- Theo tôi hai cô không nên gập anh ấy lúc này, hãy để cho anh
ta tập trung tư tưởng để tự đánh giá mình. Mọi quan hệ với
anh ta chỉ làm vấn đề thêm phức tạp.
“Mình về đâu bây giờ?”. Câu hỏi ấy cứ oằn lên vai Hiên trên
con đường từ căn cứ ra Thạch Thất.
Đến bến đò Tân Vệ, Hậu nói như rên:
- Chị ơi, em mỏi chân lắm rồi, hai bàn chân giộp hết rồi.
Hiên nhìn em thương hại. Cánh đồng Sằn vắng vẻ, còn bờ sông
không bóng một con đò. Hiên như được linh tính mách bảo là
ban an ninh căn cứ đang theo dõi bước chân hai chị em cô.
Sau đây là những mẫu đối thoại không đầu không đuôi của hai
cô con gái, lần đầu tiên ra đời để đi làm cách mạng
Hậu nói:
- Cứ như anh thợ săn đầu mùa, gập ngay viên đạn thối!
Hiên nói: Chị đã bảo ở nhà mà không nghe. Anh Ninh nhắn có
mình chị.
Hậu nói: Em không muốn xa chị, em chán cái không khí xóm
đạo nhà mình lắm rồi. Em sợ, sợ kinh khủng… Trời mưa dầm,
gió bấc, tiếng cầu kinh ê, a…
Hiên nheo mắt:
- Có sợ thày Bốn không đấy!
- Sợ luôn, em chúa là ghét thứ đã đi tu mà còn tình. Tu
tiếc gì cái ông ấy. Chị biết không, ông ấy bảo em: Kỳ lễ
Đức Mẹ Lên Trời này, ông ấy trình cha xứ cho em ngồi xe hoa
làm Đức Mẹ. Em hỏi: “ Sao thày không chọn chị Hiên ?” Thày
nói: “ Đâu phải ai muốn làm Đức Mẹ cũng được, phải ngoan
này, phải còn trinh này…” Em hỏi: “ Thế cái đêm Giáng sinh,
sau hang đá, thày cầm tay em, thày sờ ngực em, vậy em còn
trinh không?” Thày nói: “ Nói nhỏ chứ, đừng có nói với chị
Hiên em nghe. Mà chị Hiên em cũng ghê lắm. Mê thày Nam như
điếu đổ, ngày nào cũng qua Tổng bộ, Còn ngủ lại đêm bên
ấy nữa chứ”. Rồi thày nheo mắt: “Chị em đâu có làm Đức Mẹ
được, mất trinh rồi”
Chị này, cái đêm chị qua Phát Diệm, chị ngủ với anh Nam hả
chị? Mất trinh hôm ấy hả? như vậy chị em mình cùng mất
trinh cả rồi còn gì ( Hiên cười khúc khích) em vẫn tưởng
trinh tiết là cái gì phải kiên cố lắm, khó khăn lắm, dư
luận lắm chứ đâu có nhẹ nhàng, mỏng tanh, mất còn không
biết ( cả hai chị em cười khúc khích)
Hậu lại hỏi:
- Kháng chiến là gì? Cách mạng là gì hả chị?
Hiên trầm ngâm giây lát, cô nhớ ngay đến Hải Ninh:
- Thì cứ như chơi đồ hàng ấy thôi, nhưng nhân rộng ra, lớn
ra, cái gì cũng thật, cái gì cũng giả: Đánh nhau thật, căm
thù thật, đấu đá thật, hạ tầng công tác thật, chết thật.
Nhưng khen thì giả…
Hiên lại nhớ đến Nam, đến cái bẽ bàng của Hải Ninh. cô nhớ
đến lời chị Bổng:
- Còn Cách mạng ư? Trong lý thuyết thì lãng mạn. Ngoài
thực tế thì trần truồng. Trông xa thì như một cô gái trinh
trắng đài các. Chạm vào thì mới biết đó là một con đĩ
toang hoác.
Hậu hỏi:
- Người trong giáo xứ đồn rằng, trong trận đánh đồn Yên
Thổ, có tin tức chị lấy của Tổng bộ qua anh Nam phải không?
Hiên bừng lên:
- Không, em biết bên đạo mình có câu thề nào nặng nhất
không? Nghe chị đây, chị mà làm thế, chị bị trọng tội đấy!
Có tiếng súng nổ chát tai, cả thân thể Hiên bật tung lên.
Một tay chới với như muốn tìm chỗ dựa nào đó ở khoảng
không. Một tay chống xuống đất, rồi ngã nghiêng…
Hậu trân trân nhìn Hiên quằn quại , cô lấy hai tay ôm lấy mặt
rồi rú lên:
- Chúa ơi! Chị ơi! Ai bắn chị tôi thế này.
Tiếng khóc, tiếng gào, tiếng gió theo nước sông loang loáng
về phía hạ du…
SÀI GÒN 1954
Sư đoàn khinh binh số 10 của tôi vào Nam. Đóng ở Long Khánh.
Đây là lúc ông Nhu thanh toán xong các lực lượng thân Pháp
và các lực lượng giáo phái, ông quay sang “ Làm thịt” nốt
Tổng bộ tự vệ. Lực lượng chống Cộng có đến hàng vạn người
này dần dần tan tác.
Đức cha Lê Hữu Từ vẫn ngạo nghễ làm lễ ở nhà thờ di cư
Phát Diệm. Đức cha đang suy nghĩ gì thì chỉ có Chúa mới
biết, nhưng những người thân cận nhìn bóng cha nghiêng nghiêng
mỗi chiều tắt nắng, không nén được tiếng thở dài cho tình
đời đen bạc.
Còn cha Quỳnh, hình như ông Cố vấn quên hẳn cái việc cha đã
tổ chức cho ông trốn qua Lào bằng cách ra lệnh cho Lê Quang
Tung bắt giam cha. Sau đó đầy cha đến cái xứ đồng khô cỏ
cháy Bình An này.
…Nhờ bộ đồ lính còn vương đất đỏ. Tôi lẻn được vào thăm
cha.
Cha ôm đầu tôi, hôn tôi. Tay cha sờ sờ cái lon Thượng sĩ nhất
của tôi:
- Bây giờ mà còn như thế này à! Đám sĩ quan Bùi-Phát,
tướng tá hết cả rồi. Thằng Phạm Xuân Chiểu trở cờ biết
chưa?
Tôi đau đớn nhìn cha. Cha già hẳn đi. Tôi móc trong cái “ Túi
bắt gà” một gói bên ngoài là lá chuối.
- Con ghé Gò Vấp, biết cha mê món này.
Cha nhìn trân trân ( một thoáng suy nghĩ: không biết đôi mắt
này có giống lúc bố và cha nhìn xuống dưới cầu áo nhà
bà Đông không nhỉ? ) rồi cười lên ha hả, khiến bọn mật vụ
bên ngoài ngơ ngác.
- Bố anh! Trước khi anh tới đây, tôi nghĩ có thể bắt tay ông
Diệm chứ có bao giờ dám mơ tưởng đến món này đâu. Ôi! Tranh
bá đồ vương. Ôi ! Công hầu khanh tướng! Làm sao bằng cái gói
thịt chó này cơ chứ ! Ủa mà sao lại khóc? Yên tâm đi! Chúa
sắp xếp hết, Chúa rất công bằng. Rồi cũng êm thôi.
“Rồi cũng êm thôi”. Cái đầu của cha một lần nữa xác định
được cái nhanh nhạy ấy
Nhà Ngô càng ngày càng bị sức ép của Mỹ. Sau những lần
dằn mặt từ những Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, rồi đến
Nguyễn Văn Cừ, Phạm Phú Quốc. Đến sự chống đối ngấm ngầm
của các sĩ quan thân Pháp. Đến ngay sự lạnh nhạt của tòa
thánh Vatican. Đến lúc phải tìm một mô hình giáo khu Bùi
Phát cho Quốc sách Ấp chiến lược, Ông Nhu dần dần thấy cái
quá đà của ông trong việc đánh phá Tổng bộ tự vệ Phát
Diệm với cả triệu giáo dân và những người gốc miền Bắc
sau lưng nó. Nó đâu giống Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo đâu?
Giáng Sinh năm 1960 tôi trở lại Bình An. Lần này thì
khôngcòn hoang vắng như lần trước nữa. Những chiếc xe hơi, xe
Jeep nối đuôi nhau. Chủ nhân của chúng là những chính trị
gia đối lập, cần sự hậu thuẫn của Công giáo. Cớ cả những
sĩ quan, viên chức cần lên lon, thăng ngạch, cần đi làm tỉnh
trưởng, tư lệnh…
Thấy tôi lấp ló. Cha đuổi khéo hai người khách đang ngồi
trong phòng, ra tận cửa lôi tôi xềnh xệch.
- Lần trước nhờ món thịt cầy của cậu mà tớ thoát chết
hai lần. Lại trò bắn lén kiểu bắn Trịnh Minh Thế. Hoàng
Quỳnh đâu có ngờ nghệch như Trịnh Minh Thế đâu chớ. Về với
tớ đi. Hai tay vừa rồi là chuyên viên trong văn phòng ông Cố
Vấn đấy. Ông Nhu muốn tìm thêm kinh nghiệm của Giáo khu ngày
trước . Ông ta quên là mỗi thời mỗi khác. Ngày ấy, lòng dân
còn toàn tòng. Bây giờ thì ly tán hết rồi! Chưa qua sông đã
đấm buồi vào sóng, ai còn tin được…
… Người ta vẫn bảo Lê Hữu Từ và Hoàng Quỳnh thân Pháp. Thì
đã sao nào? Pháp già rồi nhưng có thủy có chung. Chơi với
tụi Mỹ như chơi với dao vậy. Vừa thực dụng lại vừa tráo
trở. Đụng tới quyền lợi của họ, thì bạn hay thù cũng a lê
hấp !
… Sao về với tớ không? Ngày còn ở Ninh Bình, cậu thua đếch
gì thằng Chiểu, thằng Đổng…
Thấy số người chờ càng lúc càng đông. Tôi hỏi:
- Cha còn nhớ chị em cô Hiên không?
- A ha ! cái rắc rối của đời cậu ấy mà, tớ làm sao quên
được, nhưng “Giai nhân nan tái đắc” Bóng chim tăm cá phải
không? Sao nhất định không lấy vợ à?
- Thưa cha, quả là mọi việc đều do Chúa an bài cả cha ạ.
Con mới được tin hai con yêu cái này cũng di cư vào đây, đang
ở vùng Bình Long Bến Cát gì đó. Con về đây chỉ để nhờ
cha, xin cho con đổi về sư đoàn nào ở gần đó. Nếu bố con
có linh thiêng , xin dẫn đường chỉ nẻo cho con. Đời con thua
chúng, thua bạn chỉ vì còn đeo đuổi mối thâm thù này. Xin
cha cầu nguyện cho con…
Cha Quỳnh bỗng ho xù xụ, tóc cha đã bạc quá nửa. Cha nhìn
tôi:
- Mình còn nhiều dang dở, những sở nguyện chưa đạt được
một phần ba. Cậu xem ra còn bết bát hơn mình, tụi mình
không còn bắt đầu từ số không được đâu, thật là lực bất
tòng tâm. Nghĩ cho cùng: Chỉ có tha thứ và sự bình yên ở
nước Chúa mới là yên phần hồn rỗi phần xác !
Bỗng cha cười ha hả:
- Ngày xưa, nói chuyện đàn bà với cậu, tớ cũng thầm mong
Cộng đồng Vatino cho phép linh mục lấy vợ, bây giờ mà có
được phép, tớ cũng đếch thèm.
Cha đứng lên lấy phích nước, cái dáng gù của cha làm tăng
vẻ chậm chạp
- Cậu ở với mình một thời gian. Cậu thấy mình thế nào?
Mình có cuồng tín quá hay không? Có trọng đời khinh đạo
quá hay không? Tớ biết tính cậu hay nói thẳng tớ mới hỏi,
cần cứ việc khuyên. Bố cậu lúc sinh thời vẫn cho tớ những
lời bộc trực thấm thía.
Cha chỉ tay ra ngoài phòng chờ, lố nhố những khách. Môi
dưới của cha trề ra: Họ gồm hai loại: Con chiên chân chính
và những người đến nhờ vả. Con chiên thì cha nào chả là
ông thánh. Lúc nào họ cũng thấy thấp thoáng nơi vị chăn
dắt của mình ánh hào quang của Đức Chúa Trời!
Còn những người đến cầu cạnh mình ư? Họ đời nào dám nói
cái sở đoản của mình ra kia chứ . Có lần mình giả vờ
nóng giận, mình hỏi me xừ Ngô Trọng Hiếu: “ Có phải với
cương vị Bộ trưởng Công dân vụ ông tuyên bố trước các Tỉnh
đoàn trưởng là phải xem xét tôn giáo như một hiện tượng văn
hóa không? Đó là quan điểm của chính phủ hay của cá nhân
ông?” Ông ta sợ hãi ra mặt…
Cha vừa pha trà vừa nói:
- Họ đến với mình bằng những câu: “Nhờ cha sinh phúc, nhờ
cha gia ân cho”. Mình làm chó gì có quyền mà làm ngay cho
họ được, mà phải làm trung gian. Ôi! đã là trung gian bên
Đạo, lại còn phải làm trung gian bên Đời!
Cha cười thiểu não:
- Có đứa còn phong cho mình là thiên tài nữa kia đấy.
Cha đổi giọng cười ha hả:
- Thiên tài đếch gì tớ. Thiên tài đớp thịt chó thì có!
Ánh sáng của cửa sổ phía tây xuyên qua tầu dừa chênh chếch,
chiếu vào chỗ cha ngồi. Tôi thấy rõ mái tóc điểm sương khô
khốc, những nếp nhăn men mét, hai túi lệ chẩy xệ dưới đôi
mắt trũng sâu khắc khoải.
Tôi nói:
- Thưa cha cứ theo định nghĩa “Cái không học ở đâu cả, cái
không thể học nổi, cái không thể bắt chước được. Đó là
thiên tài!” Thì người ta bảo cha là thiên tài đúng quá rồi
còn gì! Hồi còn ở với cha, con may mắn được cha mặc khải
khá nhiều. đoán biết và nắm bắt được chút ít tư tưởng
của cha, nhìn cách cha giải quyết vấn đề, xem cách cha khu
xử sao cho hợp đạo đẹp đời. Con vẫn tiếc giá như cha đừng
đi tu, những điều sở tồn của cha mà làm sở dụng thì hay
biết mấy, thì giúp ích cho nước nhà biết mấy.
Con xin nói thật, giới tăng lữ bây giờ. Đạo nào cũng vậy,
có làm chính trị giỏi cách mấy thiên hạ cũng gán cho cái
tội khuynh loát lợi dụng đấy cha ạ. Cha không nghe giới kẻ
chợ bây giờ họ sắp xếp thang bậc trong xã hội bằng vỏn
vẹn có tám chữ: Nhất cố, nhì sư, tam xi, tứ tướng.
Cha cười buồn:
- Cố là gì? Xi là gì?
Tôi nói:
- Cố là cố đạo, là các linh mục, Còn xi là taxi, là những
tên ma cô chở đĩ điếm cho ngoại kiều.
Cha giật mình: “đến thế cơ à?” Rồi cha ho khung khúc.
Tôi nói:
- Ngày ở với cha, con có đọc trong một tờ báo cũ của thư
viện giáo xứ, tờ Phụ Nữ Thời Đàm, một bài thơ của một
nữ sĩ, vịnh Hai Bà Trưng, con sửa lại mấy chữ có ý để
tặng cha, xin cho con đọc trình cha nghe, coi như nhận xét của
con về cha kính yêu.
Bùi Phát quân thù kinh vó giặc.
Giáp vàng, áo chùng lạnh đầu voi
Chúa ơi, Tòa giảng bơ vơ quá.
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi.
Cha bắt tôi đọc lại lần nữa, cha buông bút ngồi ôm đầu
- Ôi bơ vơ, lẻ loi thật!
MẶT TRẬN BÌNH LONG 1972
Tôi hỏi người phụ nữ “ Điên”
- Cô bị bắt trong trường hợp nào?
- Tôi đang giặt giũ ở bờ sông, các ông bắt tôi
- Tình hình này, ai dám ra sông để giặt? Quê cô ở đâu?
- Hải Hậu, Ninh Bình
- Trước năm 1953 cô ở đâu?
- Tôi ở Kim Sơn, Phát Diệm
- Rồi sau đó
- Tôi lên Nho Quan!
( Bố mẹ ơi, quả nhiên lưới trời lồng lộng, rất thưa nhưng
không sao lọt được! Kẻ thù hình như đang ngồi ngay trước mặt
con đây, cũng khuôn mặt trái xoan, cái mũi dọc dừa, cũng đôi
mắt bồ câu trong sáng và phản trắc ấy. Bố ơi, còn văng
vẳng đâu đây tiếng bố gọi mẹ lúc lâm chung: “ Xoan ơi, nhục
quá!” Rồi bố chết, bố đem những uất nghẹn cùng những điều
không làm được về thế giới bên kia, bố để lại thế giới
này cái hận thù dai dẳng cho con đeo mãi vào người trong
niềm ân hận bất lực.)
Tôi rung lên như lên cơn sốt:
- Cô còn có một người chị?
Ôi! một câu hỏi hớ hênh, rất không nghiệp vụ và đầy tính
định mệnh đã cứu người phụ nữ. Tôi đã tự lột bỏ lốt áo
người thẩm vấn để lộ rõ cái nóng vội của một kẻ tử
thù, đang muốn ăn tươi nuốt sống đối phương.
( Còn người phụ nữ, tuy cô không có cái bản lĩnh của Hiên,
nhưng tính nhậy cảm và nhanh nhạy của một người đàn bà đã
thấy rất rõ trong đôi mắt của người trưởng ban tình báo kia
loang loáng vẻ kỳ bí của một thế giới đầy u uẩn. Vầng
trán tái tím kia như đang toát ra những làn tử khí hừng
hực, có bóng tử thần lấp ló.)
Cô lạnh toát người, Có một lực siêu nhiên gì mách bảo cô
phải nói to như một lời khẳng định:
- Không, tôi không có một người chị nào cả!
Thiếu tá Mãng bước vào, chẳng biết ất giáp gì, quát tôi:
- Lại đánh tù binh hả? Việt Cộng gì con dở dở ương ương
này, làm lệnh tha, tôi ký.
Ông vừa bước ra khỏi hầm vừa lầu bầu:
- Việc ngập đầu, đéo lo, lo ba cái con mẹ điên điên khùng
khùng.
Tôi tức uất người, tức vì cái nông cạn võ biền của đồng
đội mình, chống Cộng kiểu ông ta chỉ là đánh võ vườn, Ông
ta đánh giặc bằng tâm tính của một nhà tu, với tính khí
của một cao bồi miền viễn tây nước Mỹ, và lối hành sử
mệnh lệnh của một công chức/
HOUSTON 1978
Tiếng súng ở bến đò Vệ, Hòa Bình ngày ấy không giết chết
Hiên, nhưng giết chết tâm hồn của Hiên và Hậu. Đặc biệt với
Hậu, do sợ quá mà sau này có lúc cô không làm chủ chính
cô.
Xin tóm tắt, từ năm 1972…
Sau khi thả Hiên ra, sau khi An Lộc được giải tỏa. Trung úy
Nguyễn Văn Nam tiếp tục theo dõi Hiên.
… Quả đúng Hiên là em Hậu, giấy thế vì khai sinh cho những
người tản cư làm tại Tòa hòa giải rộng quyền Hà Nội của
Hiên với tên mới là Thoa, Nguyễn Thị Kim Thoa…
… Thoa và Hậu di cư vào Nam cùng với lòng căm thù Cộng Sản
ngun ngút. Cô đi học tiếp rồi ra trường thành giáo sư trường
trung học Hưng Đạo. Người chồng thứ nhất của Thoa, một sĩ
quan Đà Lạt chết trận Mậu Thân năm 1968, để lại cho cô một
bé trai kháu khỉnh. Lúc hạ huyệt Thuận, cô ôm con khóc lặng
trong mưa phùn hiếm hoi của mùa xuân miền Nam. nét sầu bi cô
phụ ấy, đánh thức tâm hồn của người đồng nghiệp kém cô 5
tuổi, vốn tu xuất. Cô và Thuấn lấy nhau, tình yêu chưa làm
ấm chăn gối vợ chồng thì Thuấn tử trận tại chiến trường
An lộc.
Tôi ( Người viết lại chuyện này), nghe tiếng Nam bên kia đầu
giây, giọng vui vẻ:
- Anh sẽ qua thăm chú?
- Sao anh bảo đến mùa hè sang năm anh chị mới qua, gấp vậy?
- Không, anh cần qua. Anh đem cho chú thêm một vài chi tiết và
đoạn kết của câu chuyện chú đang viết.
Tôi háo hức chờ Nam
Hôm gập Nam tại phi trường Houston sau bao nhiêu năm xa cách.
Tôi ôm Nam còn vợ tôi và vợ Nam vồn vã hỏi thăm về nhau. Nam
giới thiệu vợ:
- Đây là bà xã anh, chú có đoán được là ai không nhỉ?
Người đàn bà có đôi mắt buồn rười rượi, có giông bão còn
đọng ở ánh mắt, đưa tay ra:
- Nghe anh Nam nói nhiều về anh, tôi là Hiên, là Thoa, là cừu
thù một thời của nhà tôi đấy.
Mùa đông Houston lạnh kinh người nhưng người tôi cứ nóng
bừng.
Đêm hôm ấy, Nam kể cho tôi nghe quãng đường anh chị tìm nhau,
anh tìm chị để trả thù, còn Chúa lại dẫn chị tìm anh để
nối lại mối tình đầu.
- Còn Hậu bây giờ ra sao?
- “Cô tù binh” của anh năm xưa bây giờ gia thất đề huề. Cũng
tính sang thăm chú một chuyến này, nhưng cuối cùng cô chú
ấy lại đổi ý.
Nam kết luận:
- Quả nhiên có Chúa thật chú ạ. Không tin không được. Cha
Quỳnh dậy chí phải.
- Chú có nghe gì về cha?
Giọng Nam u uất:
- Ngay sau khi chiếm miền Nam, Việt Cộng tìm ngay đến giáo xứ
Bình An. Họ bắt cha giam vào khám Chí Hòa. Tại phòng số 8,
khu ED, nơi chặng chót của bước đường thánh giá. Cha đã
uống xong chén đắng cuối cùng…
Nguyễn Trọng Hoàn
(Viết tại Pḥng giam 8, khu ED 1991. Hoàn tất tại Mỹ 1997)
Nguồi: Hải ngoại phiếm đàm
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh