Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Trong lịch sử cận đại; nếu kể từ ngày đất nước bị
chia cắt, phân ly, bởi Hiệp định Genève, 20/7/1954, th́ trước hết,
phải nói đến những giọt nước mắt của đồng bào miền Bắc: Họ là những
người đă từng gạt lệ, khi phải rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn, bỏ tất
cả… lên đường vào miền Nam, để tỵ nạn Cộng sản.
Suốt hơn năm mươi năm dài đă trôi qua; sau cuộc “bỏ phiếu bằng chân”
ấy. Giờ đây, khi nh́n lại những thước phim về cuộc di cư của đồng
bào miền Bắc, có lẽ không ít vị cao niên đă phải bồi hồi nhớ lại một
ngày, đă bồng bế nhau đi bằng nhiều cách; đặc biệt, một h́nh ảnh
được phổ biến nhiều nhất, là chiếc “tầu há mồm”, với h́nh ảnh của
những cụ già, em bé… Thế nhưng, tiếc rằng, trong số ấy, sau “hai lần
bỏ quê, bỏ nước” có rất nhiều vị đă vĩnh viễn ra đi trước khi những
thước phim này được phổ biến trên mạng lưới toàn cầu, Internet, mà
đôi khi, có thể họ t́nh cờ nh́n thấy lại chính ḿnh của ngày nào vừa
bước chân xuống chiếc “tầu há mồm”: “Những người muôn năm cũ; Hồn ở
đâu bây giờ!”.
Và có rất nhiều vị, không phải chỉ một lần rời xa Quê Hương, mà tới
hai lần đă “lưu dấu” bước chân của ḿnh bằng những giọt nước mắt đă
rơi rơi trên suốt con đường từ Bắc vào Nam, mà c̣n phải đứt ruột, xé
gan trong lần thứ hai khi bước xuống con tầu Trường Xuân, hoặc trên
những phương tiện khác, để t́m tự do. Họ, là những đấng sinh thành,
không sá chi thân ḿnh, đă “dắt díu con thơ…” đi t́m tương lai cho
con cháu. Nhưng giờ đây, khi con cháu của họ đă thành công nơi xứ
người, th́ họ đă vĩnh viễn nằm yên dưới ḷng đất lạnh nơi đất khách.
Họ không bao giờ được trở lại quê xưa, cũng không được nh́n thấy
những sự thành đạt của con cháu nữa!!!
Cho đến ngày nay, trong chúng ta, có ai có thể
cầm được nước mắt, trước những h́nh ảnh của những người Cha, người
Mẹ khóc con, người vợ khóc chồng… Họ đă kêu gào, thét gọi, khóc ngất
bên những bộ xương trong số hàng ngàn bộ xương của người thân khi đă
không c̣n nguyên vẹn, vừa được quật lên từ những hố hầm tập thể!!!
Và từ cuộc thảm sát Tết Mậu Thân ấy, đau thương c̣n tiếp nối đau
thương qua trận chiến của Mùa Hè đỏ lửa, 1972. Làm sao kể hết!
Nếu cuộc di cư vào sau ngày 20/7/1954, đă đong
đầy những ḍng nước mắt phân ly, th́ những cuộc di tản, vượt biên,
vượt biển, kể từ ngày 30/4/1975, lại càng đau đớn, bi thương hơn đến
gấp muôn vạn lần.
Và nếu những ai là những người đă từng lênh lênh trên đại dương,
trên những con tàu vượt biển, đă trải qua những trận cuồng phong,
băo biển, đói khát…; những cuộc giết hại tàn khốc của hải tặc Thái
Lan, những cô gái, những thân xác bé thơ, sau khi bị bầy thú tính
hành hạ, đôi khi chưa chết hẳn, đă bị hải tặc quăng xuống biển.
Những người Cha, người Mẹ, người chồng, người vợ, người anh, người
chị… đă đau đớn vật vă, đă khóc đến gần như đă khô đi những ḍng lệ,
khi phải dùng đôi tay của chính ḿnh để đào đất, bới cát cho thành
những huyệt mộ, ở những vùng đất xa xôi trên hải đảo xa lạ, để vùi
nông những tấm thân trần trụi lạnh lẽo, không có lấy một manh chiếu
rách để cuốn theo những thân xác của những bé thơ vô tội!
Những thảm cảnh, những đau thương, những giọt nước mắt này, ai có
thấu chăng???!!!
Đó là, những giọt nước mắt của các vị tù “cải tạo” khi hay tin, Cha Mẹ, vợ, con, anh em của ḿnh đă bị đảng Cộng sản cướp đoạt hết nhà cửa, tài sản, hoặc đă chết trên con đường vượt biên vượt biển. Ngoài ra, c̣n có những giọt nước mắt của những người đồng cảnh ngộ, là các vị đồng tù. Họ đă khóc thương người bạn của ḿnh đă chết, v́ đói khát, bệnh tật, bị công an Cộng sản xử bắn. Cũng có vị đă chết trong những pḥng “biệt giam”; đôi chân vẫn c̣n trong đôi cùm sắt, treo trên tường, thân thể quắt queo trên nền gạch của pḥng “biệt giam” tối tăm, lạnh lẽo!!!
Vào một thời đă chắp tay súng, để bảo vệ đồng bào, bảo vệ non sông, bảo vệ tự do, dân chủ. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa, không thể ngờ rằng, có một ngày ḿnh phải bị lâm vào những cảnh ngộ đau thương như vào ngày 30/4/1975. Chính ngày này, khi các vị đang nằm trên giường bệnh, với những vết thương c̣n rỉ máu, tay chân bị cụt, mắt không c̣n… thế nhưng, các vị đă bị những kẻ nhân danh là “giải phóng” đă thẳng tay đuổi hết các vị ra khỏi các Quân y Viện của Việt Nam Cộng Ḥa. V́ thế, các vị phải ḅ, phải lê lết những tấm thân c̣n rỉ máu trở về nương tựa với gia đ́nh cho đến tận ngày hôm nay!
“Kinh tế mới” là cái mỹ từ do đảng Cộng sản đă
đặt để ra, cũng như cái mỹ từ “Học tâp cải tạo” vậy. Thực chất, đây
là những vùng đất ở những nơi rừng thiêng, nước độc, không người lui
tới, để lưu đày tất cả các gia đ́nh “ngụy dân”. Những vùng “kinh tế
mới” toàn là rừng núi hoang vu, đất đá khô cằn, trồng sắn, sắn chết,
trồng khoai, khoai khô… không một loại ngũ cốc nào sống được.
Chính v́ vậy, sau những tháng năm phải dùng những bàn tay, mà vốn
trước kia chỉ quen với phấn trắng, bảng đen; các thấy cô giáo
“ngụy”. Sau khi lâm vào những căn bệnh sốt rét rừng... có rất nhiều
người đă chết ngay trên vùng “kinh tế mới”. Và những giọt nước mắt
của họ đă rơi trên những thi thể của con em của ḿnh đă chết v́ bệnh
tật, đói, lạnh và kiệt sức. Họ cũng đă nhỏ máu mười đầu ngón tay, v́
phải vạch gai rừng, đào huyệt mộ trên vùng đất đá, để chôn xác người
thân, và cũng không có quan tài, chỉ bó chiếu mà thôi!
Những giọt nước mắt dưới gầm cầu, trong băi
tha ma:
Đó là những giọt nước mắt của những người đă sống sót qua các vùng
“kinh tế mới”, của những người khốn khổ, bần cùng, vô gia cư; bởi
nhà cửa đă bị đảng Cộng sản “giải phóng” hết. V́ thế, họ phải gối
đất, nằm sương, có khi phải ăn, ngủ trong những băi tha ma. Con cái
của họ không được học hành, v́ họ là “ngụy dân” không có “sổ lương
thực”, không có “hộ khẩu”. Trong số các nạn nhân ấy, có những cụ
già, đă nằm khóc, dưới mưa nắng nhiều ngày đêm trước ngôi nhà của
chính ḿnh, v́ đă được “giải phóng” mất!
Những giọt nước mắt tại hải ngoại:
Đă gần 39 năm trôi qua, kể từ một ngày tang thương: 30/4/1975. Những
người đă từng nuốt lệ, ĺa xa Quê Hương, có một số người đă quay trở
về, cũng có một thiểu số, v́ một lẽ nào đó, nên đă chấp nhận chế độ
Cộng sản. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có đa số không chấp nhận Cộng
sản, nên chưa trở về, và có thể, họ sẽ không bao giờ được nh́n thấy
lại chốn cũ, làng xưa, trước khi nhắm mắt xuôi tay!
Chính v́ thế, tại hải ngoại, hàng năm, vào những ngày giỗ của thân
nhân, mỗi lần Tết đến, những người Việt tỵ nạn Cộng sản thực sự, họ
không trở về quê, mà chỉ biết âm thầm đi đến những nghĩa trang ở
những các nước tạm dung, quỳ trước mộ phần của người thân, để đặt
những bó hoa, thắp những nén hương, tỏ ḷng hiếu kính, tiếc thương.
Và những giọt lệ lại rơi rơi trước những mộ bia, trên những lối đi
trong những khu nghĩa trang buồn, lạnh lẽo hắt hiu, v́ họ biết người
thân của họ không muốn vùi thân nơi đất khách; nhưng họ không thể
đem thân xác hay tro cốt của người thân trở về quê hương, xứ sở, v́
nơi ấy, đảng Cộng sản vẫn c̣n cai trị toàn dân!
Ngoài những cảnh ngộ ấy, tại hải ngoại, vẫn c̣n
những giọt lệ bi thương vẫn âm thàm rơi trong những nhà dưỡng lăo,
trên những khuôn mặt già nua, khắc khổ, họ đă quên đi nhiều thứ,
nhưng họ vẫn nhớ đến các con, các cháu. Đặc biệt, họ vẫn nhớ ḿnh là
người Việt Nam, vẫn tha thiết trở về, để chết trên Quê Hương; nhưng
họ không thể trở về. Bởi, họ là những Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam
Cộng Ḥa: Ngày ra đi, họ đă có lời thề: Không về Việt Nam, khi c̣n
chế độ Cộng sản!
Ôi! những giọt nước ấy, những giọt nước mắt tưởng chừng như đă thành
sông, thành bể. Những giọt nước mắt đă rơi trong suốt thời gian, kể
từ cuộc phân ly, cắt chia đất nước: 20/7/1954 - 30/4/1975. Như thế,
mà suốt gần 39 năm qua, “ông Luật gia” Lê Hiếu Đằng không hề biết
hối hận về những hành vi của 45 năm từng làm Cộng sản, cũng không có
một lần nhắc đến những cảnh ngộ đau thương, của những nạn nhân đă
chết một cách oan uổng!!!
Và chính những giọt nước mắt ấy, mới khiến cho nhiều người phải khóc
theo; chứ không phải là giọt nước mắt giả dối của một kẻ từng có 45
tuổi đảng Cộng sản của “Luật gia” Lê Hiếu Đằng!
Xin quư vị, những người Việt Nam yêu nước chân chính, hăy cùng nhau
suy tưởng về những cái chết, về những đau thương chất ngất của toàn
dân. Và suốt trong cả mấy chục năm dài, trong lúc những giọt nước
mắt đau thương của đồng bào vô tội đă và đang tuôn chảy thành sông
ấy, th́ “Luật gia” Lê Hiếu Đằng lại thản nhiên bỏ ra “chiến khu”,
thản nhiên hoạt động trong tổ chức “Đặc công Sài G̣n – Gia Định” của
“Mặt trận giải phóng miền Nam”; một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng
sản. Và hơn hết, là đă reo vui trên những máu xương và nước mắt của
đồng bào vô tội, đă sống b́nh yên trong “ṿng tay” của đảng Cộng sản
Hà Nội, như chính “Luật gia” Lê Hiếu Đằng đă viết bằng những lời xác
định, là do “đảng Cộng sản VN giải phóng dân tộc”.
Đau thương đă chất ngất, nước mắt đă rơi, xương đă phơi, máu đă đổ
quá nhiều rồi. Chúng ta đă từng bị đảng Cộng sản lừa dối không biết
bao nhiêu lần. Chính v́ thế, giờ đây, khi nước đă mất, nhà đă tan;
chúng ta phải hết sức sáng suốt, chúng ta không được, và không cho
phép ḿnh lầm lẫn, cho dù có cả hàng trăm, hàng ngàn những đảng viên
Cộng sản Việt Nam có “khóc - tuyên bố bỏ đảng”, th́ đó, chỉ là thi
hành “Khổ nhục kế” mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta không “đánh người chạy lại”. Nhưng chỉ đối với
những người thành tâm hối hận, nhận tất cả những lỗi lầm của họ
trước toàn dân. Và khi trở về với Chính Nghĩa, Quốc Gia, Dân Tộc, họ
phải chứng tỏ bằng những thái độ và hành động dứt khoát, cụ thể rơ
ràng, như những cán binh, những đảng viên Cộng sản đă từng Quy Chánh
theo chính sách Chiêu Hồi trước ngày 30/4/1975, tại các Trung Tâm
Chiêu Hồi, th́ mới mong xóa đi những oán cừu, chứ không phải bằng
những giọt nước mắt cải lương, bằng những lời lẽ ngụy biện!
Paris, 15/12/2013
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh